Nhân mùa Tạ Ơn vừa qua tôi có gởi đi bài viết: “Xin HãyLấy Tạ Ơn Thay Cho Nguyền Rủa”. Bài viết đã được đón nhận với rất nhiều thiện cảm từ quý bạn hữu và đồng hương khắp nơi. Đồng thời nhiều vị trong số đó đã đặt ra câu hỏi rất chính đáng: “Làm sao chấm dứt thảm cảnh Ngưòi Việt Quốc-gia nhục mạ lẫn nhau?” Câu hỏi nầy quả là một thách thức lớn không những cho tác giả mà cho tất cả quý vị thức giả tha thiết đến danh dự và tương lai của toàn thẻ người Việt Quốc-gia chúng ta, trong nước và ngoài nước.
Bởi vậy, để đáp lại ước muốn trên đây của đa số chúng ta, nên, nhân dịp bắt đầu một Năm Mới, tôi muốn đề-nghị chúng ta thử áp dụng một phương pháp rất khoa học của người Mỹ là đưa ra một “NGHỊ QUYẾT TÂN NIÊN” (A New Year Resolution) sau đây cho năm 2011:
CHẤM DỨT THẢM CẢNH NVQG NHỤC MẠ NVQG.
Đây là một công việc quá phức tạp và khó khăn, không dễ làm xong trong chốc lát, cũng không thể do một, hai cá nhân mà có thể làm được. Nó đòi hỏi rất nhiều người có thiện tâm, thiện ý và quyết tâm thay đổi của những người liên hệ.
Riêng tác giả chỉ xin đóng góp một phần nhỏ bé với các kiến-thức và kinh-nghiệm hạn hẹp của mình, ước mong khơi dậy cảm hứng cho quý vị cao kiến hơn để sốt sắng bỗ túc và đóng góp thêm vào một vấn đề vô cùng quan trọng mang lại sự đoàn kết cho cộng đồng NVHN chúng ta hiện nay.
PHƯƠNG PHÁP
Thảm trạng chia rẽ là một “căn bịnh cố hữu” của người Việt Nam chúng ta, hậu quả của chế-độ thuộc địa. Nó là một trong những nguyên nhân đã đưa đến nạn mất Nước năm 1975. Nó trở nên trầm trọng hơn sau khi chế-độ VNCH bị sụp đỗ, và “thang giá trị” trước 1975 bị lật ngược, cộng thêm quan niệm sai lạc về tự do của một số người VHN có kiến thức giới hạn. Muốn chửa lành một căn bệnh, phương pháp thông thường là xác định các nguyên nhân gây ra căn bịnh, kế đó là tìm ra các biện pháp để tiêu trừ các nguyên nhân đó.
Trong bài viết trước “Xin HãyLấy Tạ Ơn Thay Cho Nguyền Rủa”, chúng tôi có xác định các nguyên nhân chính của thảm trạng “chửi bới lẫn nhau và nhục mạ các cấp lãnh đạo Quốc gia” của Miền Nam như sau:
- Tuyên truyền của CS trước, và nhứt là sau 1975. NQ36 của BCT/ĐCSVN tại hải ngoại hiện nay.
- Sự thảm bại của Miền Nam năm 1975 và chánh sách tẩy não, đấu tranh giai cấp của CS.
- Yếu tố lịch-sử và sự lạm dụng “Tự do”.
Sau đây, chúng ta xin chia các nguyên nhân kể trên chia thành 2 nhóm riêng biệt để tìm ra những biện pháp chửa trị khác nhau cho mỗi nhóm. Trong khuôn khổ bài viết lần nầy chúng tôi chỉ cứu xét nhóm thứ nhứt gồm hai nguyên nhân số 2 và số 3 mà thôi. Trong một bài kế tiếp chúng tôi sẽ cứu xét đến nguyên nhân số 1, vì đó mới là trận chiến phức tạp nhứt.
Xin cần lưu ý là các nguyên nhân thuộc nhóm sắp được xem xét trong bài nầy gồm những nguyên nhân “nội tại” của đại gia-đình NVQG chúng ta. (giữa NVQG với nhau). Còn nguyên nhân thuộc nhóm thứ 2 là “ngoại lai”, do tác động từ bên ngoài của kẻ thù CSVN và tay sai, nhiều khi đội lốt “NVQG”.
Những nguyên nhân “nội tại” phần lớn là những hành động “KHÔNG CỐ Ý”, không do CS tổ-chức và chỉ đạo. Chúng ta có thể giải quyết bằng phương pháp đối-thoại, thuyết phục lẫn nhau, thông tin, giáo dục, v.v…
Trong khi đó thì cuộc chién tuyên truyền của CS nhằm đánh phá cộng-đồng NVQG chúng ta do CS tổ chức và chỉ đạo thì phải đối phó bằng phương pháp đấu tranh không khoan nhượng chống lại kẻ thù.
SỰ THẢM BẠI CỦA VNCH NĂM 1975
Đây là nguyên nhân lớn nhứt gây nên thảm trạng người QG ở hải ngoại nguyền rủa các cấp lãnh đạo Quốc gia của VNCH. Tuy rằng tới một chừng mực nào đó, điều đó có thể thông cảm được, nhưng hơn 35 năm nay nó trở thành nỗi đau xót lớn lao cho những người Việt QG có trình độ hiểu biết và ý thức về danh dự Quốc-gia, về sự vận hành của lịch- sử, về lòng biét ơn và công bằng đối với những người đã xả thân ra gánh vác việc Nước. Không đau xót sao được khi mà những người tự nhận là “người QG” lại nhẫn tâm dùng những chữ nặng nề như “phản quốc” để lên án cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, hay những chữ như “tẩu tướng”, “hàng tướng”, “bại tướng”, “nhục tướng”, v.v.… để nhục mạ các cấp lãnh-đạo quân-sự của VNCH. Đau xót là vì nguời QG mà lại đi đối xử với các cấp lãnh đạo quốc-gia của mình còn TÀN TỆ HƠN là kẻ thù VC đối xử với các vị ấy. Trong 13 năm ở lại VN sau 1975, tôi chưa bao giờ nghe kẻ thù VC mạt sát TT Diệm là “phản quốc”. Tôi chưa bao giờ nghe kẻ thù VC mạt sát các tướng lãnh của VNCH của chúng ta bằng nhiều tỉnh từ nặng nề đến thế. Cái lý do chính để những vị đó nguyền rủa các cấp lãnh đạo QG của VNCH là vì những vị đó quyết đoán rằng những cấp lãnh đạo đó, và chỉ có những cấp đó mà thôi, đã làm cho mất Miền Nam vào tay CS Bắc Việt hồi tháng 4 năm 1975.
Là chứng nhân của lịch sử, mỗi chúng ta có bổn phận giúp cho lịch sự phán xét “công” và “tội” một cách công minh, vì biết mà không nói là bất nhân và bất xứng với lương tâm.
Sau đây chúng ta thử tìm kiếm các biện pháp để làm sao cho người Việt QG không còn có lý do để đổ lỗi cuộc thảm bại 1975 lên đầu người QG, nhứt là các cấp lãnh đạo.
Biện-pháp số 1. Hãy lắng nghe chứng nhân thẩm quyền của nước Mỹ
Ai cũng biết Ts. Henry Kissinger là kiến-trúc-sư của chánh sách giao hảo giữa Hoa-Kỳ và Trung cộng với Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972, và Hiệp-định Paris 1973 về Việt Nam. Sau hơn 35 năm im lặng, ngày 29-9-2010, tại thủ đô Hoa Thạnh Đốn, chính miệng Ts. Henry Kissinger đã thừa nhận, đại ý: “thảm bại tại VNCH năm 1975 là do lỗi của Hoa Kỳ chớ không phải do lỗi của VNCH”.
Không có người Mỹ nào có thẩm quyền hơn vị cố vấn An-ninh QG đó để đại diện nước Mỹ để nói lên “sự thật lịch sử” vô cùng quan trọng đó.
Thêm vào đó, về phía quân-sự, Thống tướng William C. Westmoreland cũng đã công khai nhìn nhận bằng câu tuyên bố:
On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.
Không có lời “xin lỗi” nào cảm động và chân thật hơn! Không một tướng lãnh Hoa Kỳ nào đũ tư cách hơn vị nguyên tư lệnh chiến trường Mỹ tại VN để đại diện Quân Lực Hoa Kỳ nói lên “sự thật lịch-sử” đó. Nó rõ ràng có nghĩa là: “Vì bị Quân Lực Hoa Kỳ bỏ rơi nên Quân Lực VNCH mới bị thảm bại trước Quân Bắc Việt” (được TC và Liên xô viện trợ vô giới hạn).
Nước Mỹ được vĩ đại là nhờ có được những nhà lãnh đạo can đảm nhìn nhận, đúng lúc, sự sai lầm của họ và của Chánh-phủ họ.
Xin cần mở ra đây một dấu ngoặc là: khi Hoa Kỳ nhìn nhận lỗi của họ về sự sụp đỗ Miền Nam, điều đó KHÔNG đương nhiên có nghĩa là VNCH chúng ta là hoàn hảo, là không có phạm lỗi lầm nào cả. Nó chỉ có nghĩa là VNCH chúng ta tuy có những yếu kém, nhưng đó KHÔNG phải là nguyên nhân CHÍNH YẾU. Nguyên nhân chính yếu là sự thay đổi chánh sách của nước Mỹ tại Á-châu.
Vã chăng “Quốc gia hưng vong; thất phu hữu trách”, nên, nếu có những lỗi lầm nào trong một giai-đoạn nào đó của lịch-sử dân tộc thì, từ người dân đến vị quốc trưởng mỗi người đều phải chia nhau một phần trách nhiệm. Tướng lãnh có tài ba mà không có quân lính tinh nhuệ thì cũng chẳng làm sao chiến thắng được. Nhà lãnh đạo quốc gia có lổi lạc mà dân trí quá thấp thì Đất Nước cũng chẳng làm sao đi lên được! Hãy xem các nước Phi châu hay Nam Mỹ thì rõ. Trái lại, ở những nước có dân trí cao như Anh, Pháp, Mỹ, … thì ông tổng-thống nào mà muốn tham nhũng, đôc-tài hay gia đình trị thì cũng không thể được. Vậy, mỗi người trong chúng ta, dù ở vị thế nào, đều phải cùng chia xẻ vận mạng chung của Đất Nước. Mà cái vận Nước đó thì lại KHÔNG do lỗi của một cá-nhân riêng biệt nào mà do trình độ phát triển và những điều kiện khách quan của lịch-sử của Đất Nước quyết định.
Nếu mỗi NVQG chúng ta đều hiểu và chấp nhận những sự thật như trên thì rất hi vọng chúng ta sẽ không còn có lý do để đổ lỗi cho nhau, hoặc nhục mạ bất công các cấp lãnh đạo quốc-gia VNCH vì tội đã làm mất Miền Nam.
Biện-pháp 2. Nên biết quý trọng (appreciate) công lao của tiền nhân: Trường hợp Vua Bảo Đại.
Một vài tác giả, vì tinh thần phe phái hẹp hòi hoặc vì thiếu kiến thức, chê bai hay nguyền rủa vua Bảo Đại. Nhưng, ai có để công nghiên cứu kỷ càng các sử liệu ghi lại các cuộc đấu trí, thương lượng gây go các hiệp-ước Pháp-Việt (thời gian 1947-1948) với Chánh-phủ Pháp để giành lại độc lập cho Việt Nam thì mới thấy được công lao của vua Bảo Đại và các vị sĩ phu phụ giúp ông ta lúc bấy giờ. Nếu không đấu tranh với Pháp để thành lập được “Quốc-gia Việt Nam” (Etat du Vietnam: 1948-1955) thì làm gì có được Đệ I Cộng-Hòa và đệ II Cộng-Hòa (1955-1975).
Nhân nói về Vua Bảo Đại, tưởng cần nói thêm về một nhà lãnh-đạo Quốc gia khác mà chúng ta cần “Tạ Ơn”: đó là Thủ-tướng Trần Trọng Kim. Chính Chánh-phủ Trần Trọng Kim mới là Chánh-phủ đã tuyên bố nước ta độc lập đối với Pháp lần đầu tiên vào ngày 11-3-1945, trong khi CSVN nói láo với mọi người là ngày 2-9-1945. Đó chỉ là lần thứ hai.
Biện-pháp 3. Nên đánh giá các chế độ chánh-trị một cách “tổng thể” thay vì “cục bộ”: Trường hợp đệ I Cộng Hòa.
Nếu chúng ta muốn nhìn đám rừng mà đứng dưới đất thì chỉ thấy “cây”, thấy “cỏ” lăng nhăng, xấu xí. Chúng ta phải vượt lên cao khỏi mặt đất thì mới thấy tổng thể “đám rừng”: hùng vĩ và xinh đẹp.
Hãy ứng-dụng vào trường-hợp của chế-độ đệ I Cộng-Hoà.
Nhiều người nguyền rủa chế-độ đệ I Cộng Hòa vì những khuyết điểm như gia đình trị, ưu đải Công Giáo, đảng Cần Lao lộng hành, v.v.… Tất cả những lỗi lầm đó đều đúng, nhưng cục bộ và thứ yếu. Cái sai lầm chánh trị lớn nhứt của chế-độ là đàn áp đối lập, thay vì xây dựng một hệ-thống chánh-trị dân-chủ lưỡng đảng, chấp nhận “đối-lập” để đoàn kết toàn dân thành một khối thống nhứt chống lại Miền Bắc hữu hiệu hơn và chống lại áp lực của ngoại bang khi cần, như các dân-tộc Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn đã làm. Nếu đệ I Cộng Hòa chấp nhận “đối lập” thì các chánh đảng quốc gia như VNQĐD, Đại Việt, v.v. đã sử-dụng cơ-hội hợp-tác với Ông Diệm để chống CS Bắc Việt chứ chống lại TT Diệm làm gì. Nếu đệ I Cộng Hòa chấp nhận “đối lập” thì có thể đảng CSVN cũng không có lý do để đưa ra chiêu bài MTGPMN, và biết đâu lịch-sử của Miền Nam đã rẽ sang một hướng khác, thay vì kết thúc bằng thảm họa của ngày 30-4-75. Nhưng đó chỉ là một điều giả định.
Bây giờ hãy phán xét một cách tổng thể chế-độ đệ I CH: người vô tư phải công nhận là, trong vòng 30 năm, tính từ 1945 đến 1975, thì đệ I CH là thời kỳ an cư lạc nghiệp, thái bình, thạnh trị nhứt của nhân dân Miền Nam. Với cái di-sản đen tối của 100 năm dưới chế-độ thuộc-địa của Pháp, cọng với 10 năm chiến-tranh với Việt Minh (CS Bắc Việt), nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 9 năm, đệ I Cộng-Hoà đã xây dựng được ở Miền Nam một quốc gia tương đối đàng hòang, tuy không hoàn hảo (hãy so sánh với hơn 35 năm CHXHCN):
- Ổn định nội chính, chấm dứt được tình trạng sứ quân và phân-hóa chánh-trị. Thống nhứt và xây dựng được Quân đội Quốc-gia.
- Tái định cư hơn 1 triệu đồng bào di cư từ Miền Bắc, biến thành lực lượng chủ lực để chống lại sự xâm lăng của CS miền Bắc trong những năm sau nầy.
- Bài trừ nhanh chóng và dứt khoát các tệ nạn xã-hội do chiến tranh để lại: đóng cửa Đại Thế giới, đóng cửa trung tâm mại dâm công khai Bình Khang, giúp các “chị em ta” hoàn lương, phục hồi nhân phẩm và trở thành công dân hữu ích cho xã hội. Hãy cứ so sánh: sau khi chiến-tranh chấm dứt năm 1975, CSVN thay vì bài trừ, đã “khai thác” và “khuếch trương” một cách qui mô tệ nạn mại dâm để đem đô-la về làm giàu cho các đảng viên của chế-độ. Họ tổ chức các đường dây “xuất khẩu trẻ gái, phụ nữ” đi làm nô-lệ tình-dục cho thiên hạ trên khắp thế giới: Họ can tội buôn dân, diệt chủng và làm nhục quốc thể. Hậu quả: VN ngày nay là một trong những nước có tỷ lệ AIDS (SIDA) cao nhứt thế giới, chỉ sau Phi Châu.
- Với chủ trương “trọng hiền”, chế độ đệ I CH đã thu hút được hàng ngàn chuyên viên, trí thức tài đức ở ngoại quốc về phục vụ Đất Nước. Hàng ngũ công chức và Quân đội thời đệ I CH được coi là thanh liêm, kỹ-luật nhứt từ 1948 đến 1975. Trong khi đó thì, sau khi cưỡng chiếm toàn thể đất nước, CSVN đã hủy diệt tất cả nhân tài của Đất Nước bằng cách giết lần họ trong các trại tập trung lao động khổ sai hoặc bằng con đường vượt biên. Vì Việt Nam ngày nay được điều-hành bởi những đảng viên vô học và tham nhũng nên đang trở thành nơi béo bỡ nhứt cho thương nhân ngoại quốc dùng hối-lộ để tha hồ vơ vét tài-nguyên thiên nhiên quốc-gia và bốc lột sức lao động của người dân Việt.
- Kinh tế phồn thịnh: người dân sống ấm no, không có tình trạng cô giáo viên XHCN vừa dạy học vừa bán nước đá ở cổng trường. Không có tình trạng anh viên chức Nhà Nước XHCN tối về phải chạy taxi. Không có cảnh anh Công An XHCN bắt dân phải nộp tiền hối lộ công khai.
- Chánh sách Cải cách điền-địa giúp nông thôn phát triển quân bình với thành thị, và đã tạo được tác dụng tốt về chánh trị, kinh tế và xã hội làm tăng uy-tín cho chế độ VNCH của Miền Nam.
- Hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh: Học viện QGHC và hệ thống trường sư phạm là những thí-dụ điển hình đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo hàng ngũ lãnh đạo hành chánh và giáo chức chuyên nghiệp cần thiết để điều hành guồng máy quốc gia và phát triển Đất Nước trong các thời kỳ sau đệ I CH.
Và còn nhièu thành tích thứ yếu khác nữa.
Tóm lại, nếu nhìn “tổng thể” thì chế-độ đệ I CH có nhiều “công” hơn là “tội”. Hậu thế chỉ nên lấy các sai lầm trên đây để làm bài học và tránh tái phạm có hại cho dân-tộc, chứ không nên biến đó thành lý do để chia phe ra nhục mạ lẫn nhau như trong gần 50 năm qua, hăng say đến độ quên cả cái thảm họa trước mắt là Tàu cộng nó nuốt gần hết đất nước VN rồi. Người Nhựt, người Đức đâu có đem cuộc bại trận của họ năm xưa ra để ngày nào cũng phí hết thì giờ để nguyền rủa, chửi bới, hài tội lẫn nhau. Họ biết xếp quá khứ lại một bên để nhìn về tương lai, và đưa dân tộc họ tiến về phía trước. Bởi vậy họ mới xứng đáng là dân-tộc của những ĐẠI CƯỜNG QUỐC.
Chúng ta cần học cách suy nghĩ và hành động tích cực của những dân-tộc ưu việt đó để đưa Dân-tộc và Đất Nước chúng ta đi l ên.
Biện Pháp 4. Nên phân biệt thủ phạm và nạn nhân: Trường hợp Tướng Dương Văn Minh
Trên diễn đàn chính trị từ 1963 đến nay, TT Ngô Đình Diệm và Tướng Dưong Văn Minh là hai trường hợp gây tranh cải và chia rẽ giữa người Việt QG nhiều nhất.
Sau ngày 30-4-75, hầu hết mọi người ở Miền Nam đều nguyền rủa Tướng DVM về tội giao Miền Nam cho Quân Bắc Việt.
Là nhân chứng, chúng ta thấy rõ Tướng DVM đâu có bao giờ làm tay sai cho CS Hà Nội. Ông từng đem sinh mạng của mình ra để chiến đấu ngoài mặt trận chống CS Bắc Việt xâm lăng, bảo vệ Miền Nam và lên đến cấp bực đại-tướng. Trước ngày đầu hàng, Tướng Minh có đánh thua trận nào đâu. Trong những ngày cuối cùng của đệ II CH, ông chỉ là một “diễn viên” (actor) nhận đóng vai “hàng tướng” đứng ra đầu hàng Quân Bắc Việt trong cái vở tuồng do người khác viết ra và đạo diễn. Nếu muốn trách thì chỉ có thể trách tại sao ông lại “dại dột” đi nhận đóng cái vai “oan nghiệt” đó làm gì. Có lẽ cái “số” của Tướng Minh là phải chịu cái “nghiệp” đó, chớ ai cũng biết, nếu Tướng DVM không nhận đóng vai “hàng tướng” thì ông “đạo diễn cũng tìm ra được một “diễn viên” khác để đóng vai đó. Vì, đàng nào thì vở tuồng bắt buộc cũng phải được diễn xuất! Vậy chúng ta nên trách soạn-giả vở tuồng và ông đạo diễn, thay vì đi trách diễn viên.
Trái lại, để được công bằng, chúng ta cần xét tới một khía cạnh khác: Vẫn biết cái vở tuồng bán đứng VNCH cho TC và VC đã gây cho gần 30 triệu dân Miền Nam vô vàng đau thương và mất mát, chúng ta cũng nên ghi nhận một điều là Tướng DVM đã tránh cho thủ đô Saigon khỏi bị Quân Bắc Việt biến thành đống gạch vụn với hỏa tiển của Liên xô. Căn cứ vào các hành-động của quân Bắc Việt ở “đại-lộ kinh hoàng” ở Quảng Trị (năm 1972) và Liên Tỉnh-lộ 7 ở Phú Bổn (tháng 3/1975) thì việc đó rất có thể xãy ra cho Saigon.
Tóm lại, Tướng DVM không phải là “thủ phạm” gây ra sự sụp đổ của Miền Nam ngày 30-4-75, không cố ý giao Miền Nam cho Bắc Việt, nên, NVQG chúng ta cần chấm dứt việc đem ra để nguyền rủa ông và chia phe ra để nhục mạ lẫn nhau nữa. Vã chăng lương tâm chúng ta không cho phép kết tội những người không còn có thể biện minh cho mình được nữa.
Còn “công” và “tội” của soạn giả của vở tuồng giao Miền Nam cho Bắc Việt” thì vô cùng phức tạp, chúng ta phải nên gác lại để phân tích và bàn luận trong một dịp khác.
Biện-pháp 5. Nên đề phòng các thủ-đoạn chánh-trị để tránh nhục mạ lẫn nhau.
Một số người nguyền rủa TT Diệm vì họ đã tin theo lời tố giác là TTDiệm đã bắt tay với CS Hà Nội. Thật ra không ai có bằng chứng nào xác đáng về sự-kiện đó. Như vậy, đó chỉ là cái “cớ” người ta ngụy tạo để lật đổ ông ta mà thôi. Hãy lấy ví dụ thời sự nhứt của Julian Assange mới đây: sau khi Julian Assange, chủ Wikileaks, tung ra mấy trăm ngàn tài liệu mật của Bộ Ngoại-giao Hoa Kỳ, thì, để bắt ông ta, người ta phải dùng cái “cớ” là ông ta can tội ……..xâm phạm tình dục! Khi xưa, khi người Mỹ chủ trương đưa quân vào VN để giải quyết cuộc xung đột bằng giải-pháp quân-sự thì bị TT Diệm chống lại, với lý do là khi lãnh thổ quốc-gia bị quân đội ngoại quốc chiếm đóng thì chủ quyền quốc-gia và chánh nghĩa không còn nữa. Bởi vậy người ta phải tìm một cái “cớ” để lật đổ ông. Rồi kẻ thù chánh trị của ông ta lấy đó làm đề tài để chửi bới ông ta và chửi bới lẫn nhau suốt 47 năm nay. Nếu đứng ở quan điểm của một người Việt công chính chúng ta phải nhìn nhận TT Diệm là “một lãnh tụ sáng suốt và yêu nước” chớ không thể lên án ông ấy là “phản quốc” được. Vậy, nếu chúng ta có khã năng phân biệt “nguyên nhân” và “thủ đoạn chánh trị” thì có thể tránh được thảm trạng NVQG chúng ta chia rẽ, nhục mạ lẫn nhau.
Biện pháp 6. Cải tiến tình-trạng “thiếu chuyên nghiệp” trong truyền-thông Việt ngữ.
Trong giai-đoạn đầu của lịch-sử tỵ nạn, cộng đồng người Việt ở Mỹ có cái nạn lạm phát chủ đài radio, chủ báo, chủ nhiệm, chủ bút, ký giả, văn sĩ, …. Nhân danh quyền “tự do ngôn luận”, mạnh ai nấy lôi tên những người bất đồng quan-điểm với mình ra mạt sát, mạ-lỵ công khai trên báo, trên đài một các thoải mái…. Các toà-án điạ-phương đã phải xử hàng trăm vụ kiện phỉ báng (defamtion/libel). Nhiều vụ tiêu phí hàng trăm ngàn đô la đáng lẽ nên để dùng vào những việc hữu ích giúp những đồng bào nghèo khổ trong cộng-đồng tỵ-nạn chúng ta. Người Mỹ là những người hiểu biết “tự do” hơn ai hết nhưng không bao giờ làm như vậy. Ví dụ: “call name” là điều tối kỵ đối với họ. Nghề truyền thông là một nghề vô cùng quan trọng và cao quý trong các xã-hội văn minh. Nó đòi hỏi một tinh thần phê phán độc-lập và vô tư, cọng với một trình độ kiến-thức và chuyên nghiệp rất cao. Chính họ là những người đúng ra điều-hành các cuộc tranh luận (debates) giữa các ứng-cử-viên tổng-thống. Trong các năm gần đây nhiều cơ quan truyền thông Việt ngữ đã theo các tiêu chuẩn tổ chức và quản trị của ngành truyền thông Hoa Kỳ nên đã có những tiến bộ rất đáng ca ngợi, như: Người Việt, VBMN, SBTN, VHN, Hồn Việt-TV, v.v. Chúng ta cần biết ơn và ủng hộ hết mình những vị đã và đang đóng góp vào những thay đổi vô cùng quan trọng đó vì, truyền thông là vũ khí lợi hại nhứt trong cuộc tranh đấu của NVQGHN chúng ta, cũng như để nâng cao dân trí rất cần thiết để xây dựng lại Đât Nưóc. Hiện nay tệ nạn ăn nói, viết lách “thiếu chuyên nghiệp”, chửi bới nhau trên báo chỉ còn sót lại ở một số “báo lá cải” của các cá-nhân ở một số địa-phương mà thôi. (chúng ta không đề cập đến các cơ quan tuyên truyền đánh phá của kẻ địch).
Biện pháp tốt nhứt để chấm dứt tệ nạn đó là công luận và đồng bào hãy mạnh dạn áp dụng 3K: KHÔNG ĐỌC, KHÔNG ĐĂNG QUẢNG CÁO, KHÔNG GIAO DỊCH VỚI những tờ báo thiếu xây dựng đó.
Biện pháp 7. Nên sử dụng Websites, Blogs và Diễn đàn Internet cho mục đích xây dựng, thay vì dùng để chửi bới lẫn nhau.
Internet là một công cụ quý báu nhứt của nhân loại để thăng tiến về mọi phương diện, nhứt là về thông-tin và giáo dục. Nhưng bất hạnh thay, trong khi nhiều tổ chức và cá nhân người Việt kháp nơi có những trang web/bogs rất bỗ ích và xây dựng thì lại có một số người VNHN (không kể VC) đang sử dụng Internet (nhứt là các tên nặc danh trên diễn đàn=groups) làm phương tiện để chửi bới nhau, gây chia rẽ và tiêu diệt lẫn nhau một cách tàn bạo hơn bao giờ hết. Dường như mấy chục năm chiến tranh tàn phá đất nước đến như vậy vẫn chưa đủ, bây giờ phải tiếp tục tiêu diệt lẫn nhau bằng mọi cách khác!
Biện pháp chấm dứt tệ trạng nầy là chỉ cần làm như người Mỹ: Mỗi chủ trang web hay diễn đàn đều phải lập ra một “Quy điều đạo đức”(Code of Ethics hay Terms of Use): Chủ diễn-đàn bắt buộc hội-viên phải cung cấp tên thật, địa chỉ thật, không nhận hội viên “nặc danh” gian dối, kiểu “đặc công làng lưới”. Chủ diễn đàn phải cấm hội-viên không được dùng diễn đàn cho mục đích đưa tin sai sự thật, gây chia rẽ và nhục mạ lẫn nhau, vì phỉ báng (Defamation/libel) là một hành-vi trái luật (illegal activity) có thể bị truy tố. Người vi phạm phải bị chế tài và loại ra khỏi diễn đàn. “Tự do” không được lẫn lộn với vô luật lệ (lawless society) và vô chánh phủ (anarchy). Tình trạng đó chỉ đưa xã-hội con người đến diệt vong. Diễn đàn Việt ngữ hiện nay đang trong trong tình-trạng cực kỳ hổn loạn. Ngoài ra, công luận và đồng hương cần phải cương quyết tẩy chay hoặc mạnh mẽ lên án những loại diễn đàn ấy: không viết, không đọc (spam) các bài của các diễn đàn đó. Nếu chủ diễn đàn dung túng các hành-vi phỉ báng cá-nhân (defamation/libel) thì phải liên đới trách-nhiệm trước pháp luật (nạn nhân có thể tố cáo với các cơ quan thẩm quyền (FCC, abuse.yahoo.com, etc…).
Biện pháp 8. Nên dùng các phương pháp giải quyết các tranh chấp, bất đồng quan điểm theo cách thức của nguời Mỹ thay vì đem lên báo chí/internet để bôi lọ, chửi bới lẫn nhau.
Nước Mỹ có một hệ thống định chế pháp-lý, chính- trị và xã-hội tân tiến nhứt thế giới, có thể giúp chúng ta giải quyết các mâu thuẩn và tranh chấp rất hiệu quả. Dựa vào kinh nghiệm hành nghề gần 20 năm qua trong lãnh vực tổ chức và điều hành các tổ- chức bất vụ lợi (nonprofit corporations) và các hiệp-hội (associations), đoàn thể người Viêt ở Mỹ, người viết nhận thấy đa số tranh chấp xãy ra là vì người Việt qua Mỹ rồi mà cứ đem luật của Việt Nam thời thuộc địa qua sử dụng trong các tổ-chức của mình, thay vì phải tuân thủ luật pháp sở tại của nước Mỹ. Gần như ít ai phân biệt được “Hội-đồng Quản-trị” (Board of Directors) của luật Mỹ khác với Ban Chấp-hành (của luật Việt Nam cũ) như thế nào. Gần như không ai biết sử dụng Robert’s Rules of Order để tổ chức và điều hành các hội-nghị, ủy ban, tiểu ban, hay các phiên họp lớn, nhỏ của tổ chức mình, v.v… Nhiều lúc, các buổi họp biến thành những cuộc ấu đả, chửi bới nhau, rồi đi đến tan vở..… Sau đó, đem nhau lên báo chí, internet moi chuyện đời tư cá nhân của đối thủ ra để bôi lọ, mạt sát lẫn nhau. Nhiều khi sử dụng luôn cả “thư nặc danh”. Người Mỹ chỉ tranh luận với nhau về quan-điểm, lập-trường (issues) và khinh bĩ những ai dùng trò bôi lọ cá nhân (personal destruction), và nhứt là dùng trò “nặc danh”.
Muốn chấm dứt thảm trạng đó, chúng ta chỉ cần làm theo lề lối sinh hoạt dân-chủ của nước Mỹ, của xã-hội văn minh: ngồi xuống đối thoại, tranh luận theo cách thức dân chủ, minh bạch, sòng phẳng. Áp-dụng quy tắc: ”Thiểu số phục tùng đa số”, thay vì “Được làm vua, thua làm giặc”.
Biện pháp 9. Các tổ-chức chánh-trị nên hoạt động theo phương-thức của Hoa Kỳ, tránh hoạt động kiểu VN: xen vào khuynh loát các hiệp hội, tổ-chức xã hội, ái-hữu, đồng hương, các cơ quan truyền thông, v.v.… tạo chia rẽ và dẫn đến chửi bới, nhục mạ lẫn nhau.
Ở Mỹ, ai cũng có quyền tự do lập đảng chánh trị một cách công khai, đường đường, chính chính. Đừng bao giờ nên tổ chức theo mô thức` “hội kín” của CS: nếu mình là đảng-viên của đảng A thì cứ cho mọi người biết mình là đảng viên đảng A. Đừng nên dấu đi để xâm nhập vào các hiệp-hội để lái nó và biến nó thành ngoại-vi và lực lượng quần chúng của đảng mình. Phương pháp lạc-hậu, thiếu ngay thẳng, gian manh đó gây nghi ngờ, chia rẽ trong cộng đồng, cần PHẢI ĐƯỢC LOẠI TRỪ khỏi xã hội văn minh của chúng ta ngày nay.
Biện pháp 10. Hàn gắn các vết thương lịch sử. Cải-tiến “hệ-thống giá-trị” của chúng ta (system of values) để làm chất keo “đoàn kết NVQG”với nhau
Trong các nguyên nhân “nội tại” gây ra thảm trạng chia rẽ và chửi bới lẫn nhau giữa NVQG phải kể cái di sản đen tối của gần 100 năm dưới chế-độ thuộc-địa của Pháp (hãy để riêng những điều tích cực), 30 năm (1945-1975) chiến tranh hủy hoại đất nước và hủy hoại “nhân tâm” bằng tuyên truyền xuyên tạc của CS. Sau 1975, một số NVHN chúng ta vì vô tình hay vì thiếu trình độ nhận thức đã bị CSVN tiếp tục tuyên truyền đầu độc và đã góp phần gây chia rẽ và nhục mạ lẫn nhau ở hải ngoại nầy. Hệ-thống giá trị truyền thống tốt đẹp của chúng ta bị thuơng-tổn nặng nề, nhứt là sau 1975 .
Bởi vậy cần thẩm định lại hệ-thống giá-trị hiện nay của chúng ta để loại bỏ những “tệ đoan” (như hận thù giai cấp, chia rẽ, cục-bộ, đố-kỵ, duy ngã = egocentrist) trong cái di sản văn-hóa của chúng ta, thu nhận thêm các “giá trị tân tiến” của xã hội Mỹ để hình thành một “hệ thống giá trị mới” có sức mạnh kết nối mọi NVQG chúng ta thành một khối chặc chẻ. Chúng ta chắc chắn có thể làm được việc đó. Hãy xem gương nước Mỹ: Từ cả trăm dân tộc khác nhau trên thế-giới, với phương pháp nầy họ kết-hợp lại được thành một Dân-tộc Hoa Kỳ duy nhứt (the American Nation), hùng cường và đóng vai bá chủ hoàn-cầu. Thiếu một hệ thống giá trị chung như vậy, không thể thực-hiện“đoàn kết được. Để quảng bá hệ-thống giá-trị mới, chương trình cần chiếm ưu tiên cao nhứt là “chương trình đào tạo lãnh đạo” (leadership training) mà mọi đoàn-thể đều có thể làm được. Chưong-trình nầy cần thiết nhứt cho thế-hệ 1 và 1-1/2 của chúng ta, vì đến thế-hệ 2 thì có thể không còn cần thiết nữa: nhờ hấp thụ hệ-thống giáo-dục của Mỹ, có thể sẽ không còn ai mang nhau lên báo chí và internet để chửi bới nhau như hiện nay nữa.
KẾT LUẬN
Chúng ta không thể nào giải quyết nhanh chống cái di sản lịch-sử nặng nề của 150 năm qua được. Nhưng, cuộc hành-trình muôn dặm bao giờ cũng phải được khởi đi bằng “bước thứ nhứt”. Bây giờ là lúc thích hợp nhứt để các sĩ-phu, trí giả chúng ta nên cố gắng khởi sự “bước thứ nhứt” đó.
Đề nghị mỗi cá nhân chúng ta, mỗi tổ-chức, mỗi đoàn-thể NVQG chúng ta thử lấy “10 Điều khoản của Nghị-quyết” trên đây để xem có thể giúp gì cho việc CHẤM DỨT THẢM TRẠNG NVQG NHỤC MẠ NVQG, rồi tiến đến việc THỰC-HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT GIỮA NVQG VỚI NHAU.
Trước cái thực-tế chánh-trị hôm nay là đảng CSVN đã đưa Đất Nưóc vào một tình-trạng bế-tắc cọng với nguy cơ mất Nước về tay Trung cộng. Trong khi đó thì hàng ngũ NVQG của chúng ở hải ngoại hiện có rất nhiều nhân tài với nhiều khã năng và kinh nghiệm quý báu về mọi mặt, từ quý vị cao niên đến đông đảo chuyên viên thuộc thế hệ trẻ: Gần 5 triệu NVQGHN chúng ta đang có được “thiên thời” và “địa lợi”. Chúng ta chỉ còn cần thực hiện được “nhân hòa” nữa thì sẽ hi vọng cứu được Nước, giúp được Dân. Nói cách khác, chúng ta cần chấm dứt NGAY cái thảm trạng chia rẽ và nhục mạ lẫn nhau giữa NVQG đã kéo dài lâu nay, để mọi người Việt quốc-gia yêu Nước có thể đoàn kết lại với nhau thành một khối, trong tinh-thần Hội-nghị Diên-Hồng để đánh đuổi Bắc xâm và giải phóng Dân tộc.
Nếu chúng ta bỏ lỡ cơ-hội hôm nay, và không làm được việc trên đây thì đó là điều bất hạnh lớn lao nhứt cho Tổ quốc và Dân-tộc trong giai-đoạn lịch-sử nầy. Quý vị đàn anh chúng ta đã bỏ lỡ một cơ hội tương tự hồi năm 1945 nên Đất Nước mới rơi vào thảm trạng của ngày hôm nay.
Xin hãy nguyện cầu Ơn Trên phù hộ và soi sáng tâm trí của hàng ngũ NVQG chúng ta hôm nay để chúng ta không phạm cái lỗi lầm của 65 năm trước!
Hải ngoại, Tân niên Tân Mão -2011
Lê Thành Nhân
Email: minhtandiendan@yahoo.com
Xin mời viếng thêm www.minhductandan.com
2 Comments
thanh
HOÀN TOÀN ĐỒNG Ý VỚI TÁC GIẢ CỦA BÀI VIẾT NÀY.
Hoang Tuan
Kinh thua ong,
Cam on ong da co mot baiviet rat gia tri, khai sang nhieu van de duoc coi la nan giai trong CDNVHN. Chung toi song o Uc, gap phai te nan mot so Dien Dan Internet luu hanh hang ngan email nac danh chui boi danh pha moi nguoi trong cong dong. Vi vay, xin ong viet cho mot bai de co the chan dung te nan the tham nay.
Kinh chuc ong va gia dinh luon vui manh thinh vuong va may man trong nam 2011.
Tran trong
Hoang Tuan Uc Chau