LTS: “Đông Dương” là một bán đảo ở Đông Nam Á. “Đông Dương” chuyển ngữ từ Indochine vì gồm ba quốc gia — Việt Nam, Lao [Laos], Miên [Cambodge/Kampuchia] — nằm giữa Ấn Độ [Inde] và Trung Quốc [Chine]. “Đồng Dương” nhắc tới “Đông Dương Pháp thuộc” hay L‘Indochine française và L’Union Indochinoise hoặc L’Union française d’Indochine [1946-1954]. Sau 1954, “Đông Dương” chỉ có nghĩa là không gian của ba quốc gia Việt, Lao, Miên [Kampuchia].
Lyndon Johnson, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ
1. Leo thang chiến tranh
Các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ bắt đầu giao chiến với các đơn vị Việt Cộng từ cuối mùa hè và đầu mùa thu năm 1965. Khi quân đội Hoa Kỳ đổ vào miền Nam Việt Nam, các rối loạn chính trị tại Saigon chấm dứt. Một cuộc đảo chính đã đưa lên nắm quyền hai sĩ quan là Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu, là những người cai trị miền Nam trong một thập niên cho tới lúc cáo chung.
Bắt đầu từ ngày Giáng Sinh năm 1965, chính quyền Johnson ngưng ném bom Bắc Việt trong 37 ngày. Không lực Hoa Kỳ đã bay 55,000 lần, tấn công các mục tiêu trong miền Bắc. Trong cuộc tranh luận giữa chính quyền và giới quân sự Mỹ về chiến thuật và chiến lược, phe thắng thế là những người nhấn mạnh vào kiểu chiến tranh quy ước, hơn là dùng chiến lược bình định hay chống nổi loạn. Tham gia lực lượng Hoa Kỳ tại Việt nam còn có các nước đồng minh trong vùng, gồm cả Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan và Phi Luật Tân.
Tại Indonesia, hai triệu đảng viên cộng sản, rõ ràng là do sự khuyến khích của Sukarno và Mao, đã phát động một cuộc đảo chánh nhắm vào các nhà lãnh đạo quân sự chống cộng. Một cuộc phản đảo chánh do phe quân đội đã trở thành cuộc tàn sáttrong đó từ 12 tới 100 ngàn người bị giết hại. Sukarno bị tước quyền, thay thế bởi Suharto, một tướng lãnh cai trị Indonesia tới năm 1998. Dưới thời Suharto, Indonesia cắt đứt liên lạc với Trung Cộng và theo đuổi một chính sách trung lập ngả về Hoa Kỳ. Giấc mộng của Mao về một phần đối trọng với Liên Hiệp Quốc và về một trục Bắc Kinh – Jakarta đã bị thu nhỏ lại. Tới lúc này, Mao hướng về trong nước, phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa, một cuộc thanh trừng cực đoan kiểu Stalinnít, khiến cho tình trạng của nước Trung Hoa giống như gặp nội chiến. Một năm sinh sống trong nguy hiểm đã trở thành “một năm ghê sợ” (annus horribilis) cho Bắc Kinh.
Tới lúc này, Hoa Kỳ, Trung Cộng và Liên Xô tham dự vào cuộc xung đột ủy nhiệm cao nhất trong cuộc Chiến Tranh Lạnh kể từ cuộc Chiến Tranh Triều Tiên. Trong khi Hoa Kỳ chống cự để không bị làm nhục khi bảo vệ các nước nhỏ, Trung Cộng và Liên Xô cạnh tranh với nhau vì uy tín trong khối cộng sản và trong thế giới đang phát triển.
Trong các năm từ 1965 tới 1968, Trung Cộng cung cấp yểm trợ lớn lao cho Bắc Việt. Ngoài việc tiếp tế cho Hà Nội các dụng cụ quân sự và đồ dùng dân sự, chính quyền Mao đã phái các toán pháo binh phòng không qua miền Bắc Việt Nam. Quan trọng hơn nữa theo lời yêu cầu của Hà Nội, Trung Cộng gửi qua các toán công binh để sửa chữa và nới rộng hệ thống xe lửa của Bắc Việt để cho hệ thống này không bị bất khả dụng do việc oanh tạc của Hoa Kỳ. Các toán quân Trung Cộng cũng giúp cho Bắc Việt rảnh tay để họ qua đồn trú tại Lào và chuyển các tiếp liệu xuống đường mòn Hồ Chí Minh. Từ tháng 6 năm 1965 tới cuối năm 1969, các đạo quân tiếp liệu Trung Cộng đã xây dựng xong 20 nhà ga xe lửa mới, 39 cây cầu mới, 14 đường hầm, 117 cây sốđường sắt mới và đã sửa chữa xong 362 cây số các đường xe lửa cũ. Tổng cộng, Trung Cộng đã gửi đi 327,000 quân tới Bắc Việt. Theo như nhà sử học Trần Kiến (Chen Jian) nhận xét: “mặc dù sự yểm trợ của Bắc Kinh không đúng theo các mong đợi của Hà Nội, nhưng nếu không có yểm trợ này, lịch sử và ngay cả các thành quả của cuộc Chiến Tranh Việt Nam sẽ khác đi”. (Chen Jian, “China’s Involvement,” pp. 372-380).
Vào tháng 10 và tháng 11 năm 1966, nhân vật thứ hai trong chế độ Hồ Chí Minh là Lê Duẩn đã hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh. Châu Ân Lai thúc dục Bắc Việt tiếp tục chiến tranh tối thiểu tới năm 1968. Sáu tháng sau đó, do còn e ngại rằng Bắc Việt sẽ thương thuyết với Hoa Kỳ, các viên chức Trung Cộng bắt Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng phải hứa với họ “một cách nghiêm chỉnh” rằng Bắc Việt sẽ không chấm dứt chiến tranh.
Tuy nhiên để có thể tiếp tục chiến tranh, Bắc Việt cần các võ khí và trang bị mà Trung Cộng không thể cung cấp. Vì thế Đồng và Giáp đã dẫn một phái đoàn khác qua Moscow vào tháng 4 năm 1967. Mặc dù các mối nghi ngờ, Liên Xô đã chọn việc tiếp tế lại cho Bắc Việt vì e sợ rằng việc từ chối sẽ dẫn tới sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Cộng lên Hà Nội. Quả vậy, Liên Xô đã từng vượt hơn Trung Cộng như là nhà cung cấp trợ giúp quân sự lớn nhất cho Bắc Việt. Thời gian giữa các năm từ 1964 tới 1974, số lượng trợ giúp cho Bắc Việt lên tới 50 phần trăm trong tổng số trợ giúp của Liên Xô cho các chế độ cộng sản vệ tinh (số còn lại chia nhiều hơn cho Cuba và Bắc Triều Tiên).
Từ năm 1965 tới 1968, có tới 3,000 cố vấn Liên Xô tham dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam (Ramesh Thakur and Carlyle A. Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (London:Macmillan, 1992), p.117). Họ dạy cho binh lính Bắc Việt cách dùng các dụng cụ do Liên Xô cung cấp, điều hành hệ thống phòng không ở dưới đất và cũng tham dự vào các chiến trận chống lại người Mỹ và người miền Nam Việt Nam.
Chính quyền Xô Việt cẩn thận che dấu cách bành trướng tham gia vào Đông Dương, ngăn cấm các nhân viên và gia đình Xô Viết nói về địa chỉ của các đơn vị. Binh lính Liên Xô qua Việt Nam phải mặc y phục dân sự và khi tới nơi, mặc quân phục Bắc Việt(Trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên, phi công Xô Viết và các “người tình nguyện” quân sự đã mặc binh phục của Trung Cộng và Bắc Triều Tiên). Cựu đại tá Xô Viết Alexei Vinogradov đã viết rằng: “người Mỹ đã biết rõ rằng các máy bay Bắc Việt kiểu Xô Viết thường do các phi công Xô Viết lái”. Trong suốt thời gian của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, và cả vào thời Chiến Tranh Triều Tiên, chính quyền Hoa Kỳ đã giữ bí mật mức độ tham dự của lực lượng quân sự Xô Viết để khiến cho áp lực dân chúng không làm khó khăn khi giới hạn cuộc chiến tranh ủy nhiệm này.
Cuộc chiến tranh giữa Do Thái và các nước láng giềng bộc phát vào ngày 5/6/1967 đã làm gia tăng hơn nữa các căng thẳng Hoa Kỳ – Liên Xô. Tại cuộc họp thượng đỉnh cỡ nhỏ ở Glassboro, New Jersey, vào ngày 23/6/1967, Thủ Tướng Xô Viết Aleksei Kosygin đã truyền đạt lời đề nghị của Hà Nội muốn trở lại bàn thương thuyết nếu cuộc oanh tạc Bắc Việt chấm dứt (nhiều gợi ý ngoại giao Hoa Kỳ, mang tên “Mayflower”, “Marigold” và “Sunflower” đã thất bại). Qua các người Xô Viết, chính quyền Johnson trả lời rằng Hoa Kỳ sẽ cứu xét việc ngưng oanh tạc, nhưng lại tiếp tục nếu các đàm phán thất bại.
Vào mùa thu năm 1967, sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ dành cho cuộc chiến Việt Nam xuống tới mức thấp nguy hiểm. Phong trào chống chiến tranh nhỏ, dẫn đầu bởi các người cấp tiến khuynh tả và các người vận động hòa bình, đã thất bại trong việc thuyết phục dân chúng rằng cuộc chiến này thì vô nhân đạo, quả vậy các lời hùng biện chống Mỹ của nhiều nhà hoạt động chống chiến tranh đã tạo nên phản ứng cực đoan mà các nhà chính trị bảo thủ có thể lợi dụng trong nhiều chục năm.
Sự yểm trợ cho chiến tranh bị giảm đi khi số thiệt hại gia tăng giống như trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên. Phải đương đầu với sự ủng hộ của dân chúng suy giảm và gặp thử thách từ cánh tả của đảng Dân Chủ, Tổng Thống Johnson trong bài diễn văn đọc tại San Antonio vào ngày 27/9/1967, đã không còn nhấn mạnh như trước kia rằng ông chỉ ngưng cuộc oanh tạc để đổi lấy các thương thuyết và để đòi hỏi rằng Bắc Việt phải ngưng xâm nhập vào miền Nam Viêt Nam.
Nhưng Hà Nội đã trù liệu một cuộc tấn công và nổi dậy tại miền nam. Kế hoạch này đi ngược với chủ trương ưa thích hơn của Trung Cộng là cuộc chiến tranh du kích cấp thấp, kéo dài, trong khi đó Hà Nội đã thành công khi kiếm được trợ giúp quân sự và một tuyên bố yểm trợ từ Moscow. Nhà sử học Ilya V. Gaiduk viết rằng: “lần đầu tiên kể từ sự giúp đỡ đầy đủ của Xô Viết cho Hà Nội, một thông cáo đã chỉ rõ loại yểm trợ quân sự nào đã được cung cấp… Cách tuyên bố rõ ràng như vậy dành cho sự trợ giúp toàn bộ thì chưa hề có đối với Moscow trong các liên hệ của nước này với các đồng minh và các cuộc chiến ủy nhiệm”.
Vào ngày 30/1/1968, trong dịp Tết là ngày đầu năm âm lịch Việt Cộng đã phát động một làn sóng tấn công và đột kích trong khắp miền Nam Việt Nam, tấn công Dinh Tổng Thống và ngay cả Bộ Tổng Tham Mưu tại Saigon. Lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh Viêt Nam đã phối hợp và tận diệt các kẻ nổi dậy. Tại thành phố Huế, các người cộng sản chỉ bị đánh bại sau 3 tuần lễ tàn phá nơi này. Sau ngày sụp đổ của thành phố Huế, các tử thi của gần 3,000 dân sự Nam Việt Nam đã bị tra tấn và hành quyết bởi Việt Cộng, được tìm thấy trong các mồ chôn tập thể.
Sự thất bại trong cuộc tấn công Tết là một bước thụt lùi tàn hại về quân sự của các người cộng sản. Tuy nhiên, cuộc tấn công Tết này được coi là một thất bại dành cho Hoa Kỳ. Một lý do là vì tính cảm nhận của các nhà báo phương tây đã cho dân chúng Mỹ một cảm tưởng sai nhầm về sức mạnh và sự ủng hộ của Việt Cộng. Nhưng một lý do quan trọng hơn là sự kiện liên quan tới các báo cáo lạc quan của Tướng Westmoreland từ Nam Việt Nam, các báo cáo này đã bị mất uy tín. Cuộc chiến tranh có thể thắng được – nhưng nếu có thắng thì còn xa cách cái giá mà dân chúng Hoa Kỳ có thể chấp nhận được.
2. Đông Dương bị mất quyền quyết định
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã tạo nên sự rối loạn chính trị tại Hoa Kỳ. Thượng Nghị Sĩ Eugene McCathy, người chỉ trích chiến tranh, gần như đánh bại Tổng Thống Johnson trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân Chủ vào ngày 12/3 tại New Hampshire.
Cũng trong tháng 8/1968, Clark Clifford là người bi quan từ lâu về cuộc chiến, đã thay thế Robert McNamara làm Bộ Trưởng Quốc Phòng và Tướng Westmoreland được chỉ định lại làm Tham Mưu Trưởng Lục Quân. Vào ngày 31/3, sau khi được “các vị khôn ngoan” (the Wise Men) (đây là một nhóm các chính khách thâm niên gồm cả cựu ngoại trưởng Dean Acheson), cố vấn rằng cuộc chiến phải giảm bớt xuống, Tổng Thống Johnson xác nhận rằng ông không ra tái tranh cử và công bố việc ngưng oanh tạc.
Vào ngày 10/5, các đàm phán hòa bình bắt đầu tại Paris. Vào mùa thu, do mệt mỏi vì chiến tranh nhưng cũng chán ghét chính sách chống Mỹ của những kẻ cấp tiến phản chiến đã gây nên cuộc bạo loạn chống cảnh sát tại Đại Hội Dân Chủ năm 1968 ởChicago, cử tri Hoa Kỳ đã bầu ông Richard Nixon làm Tổng Thống. (Giới lãnh đạo Xô Viết do e sợ kết quả này, đã khuyên Bắc Việt vì quyền lợi của họ mà nên giúp công vào cuộc bầu phiếu cho ông Hubert Humphrey bằng cách tỏ ra rằng hòa bình đang gần tới).
Từ khi lãnh chức vụ, ông Nixon bắt đầu tìm kiếm “nền hòa bình trong danh dự” tại Đông Dương. Chiến thuật của ông ta là phối hợp các áp lực quân sự đặt lên Hà Nội và các cố gắng làm cho Moscow và Bắc Kinh xa bớt thân chủ của họ. Hai tháng sau khi ngồi vào Tòa Nhà Trắng, Nixon đã ra lệnh oanh tạc các sào huyệt cộng sản bên trong xứ Cambốt. Thái tử Sihanouk đã bí mật chấp nhận sự việc này với điều kiện là các vùng đông dân của Cambốt không bị ảnh hưởng.
Vào năm 1970, Sihanouk bị hạ bệ và chế độ mới, thân Mỹ của Tướng Lon Nol đã ra lệnh cho các kẻ chiếm đóng Bắc Việt phải ra khỏi xứ sở này. Nixon đã lợi dụng cơ hội này để ra lệnh cho lực lượng Mỹ tiến vào Cambốt trong hai tháng, tìm kiếm các bộ chỉ huy của cộng sản và phân tán mỏng quân đội Bắc Việt. Bắc Việt phản ứng lại bằng cách chiếm đóng phần lớn đất đai Cambốt và giúp cho lực lượng Khmer Đỏ của Pol Pot đánh lại các lực lượng của Lon Nol.
Chiến dịch oanh tạc của Nixon tại Cambốt và miền Nam Việt Nam đã che đậy việc rút quân đội Mỹ và việc “Việt Nam hóa” chiến tranh. Vào cuối năm 1970, 280,000 quân Mỹ đã ra đi và chỉ còn 140,000 quân ở lại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1971. Tinh thần chiến đấu của binh lính Mỹ giảm xuống, không ai muốn là các thiệt hại sau cùng. Đồng thời công tác Việt Nam hóa đã bị nghi ngờ khi vào tháng 2/1971, quân lực Nam Việt Nam gặp thất bại trong việc cắt ngang đường mòn Hồ Chí Minh tại Lào.
Quốc Hội Hoa Kỳ, trước kia đã từng do dự khi đối đầu với các Tổng Thống Johnson và Nixon trong khi quân đội Mỹ còn đang ở ngoài mặt trận, nay trở nên cứng dắn hơn trong các giới hạn lập pháp khi mà quân số giảm dần. Vào ngày 12/1/1971, Quốc Hội xét lại Nghị Quyết Đông Nam Á (the Southeast Asia Resolution), cùng ngày hôm đó Tổng Thống Nixon ký Tu Chính Án Cooper-Church (the Cooper-Church Amendment), sắc lệnh này cấm dùng lực lượng bộ binh Mỹ trên miền đất Cambốt. Các nhà chính trị “diều hâu” loại ôn hòa (moderate owls) với con số đang lên, bị báo động bởi các phí tổn vì sự tham dự quân sự của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam, cũng như do nền kinh tế, đã tham gia cùng với các người “bồ câu” chống chiến tranh để nghiêng về chủ trương rút nhanh sự tham dự của Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Chính quyền Nixon đã cố gắng làm cân bằng công tác Việt Nam hóa với công việc thử khai thác các chia rẽ giữa các ông chủ của Hà Nội là Moscow và Bắc Kinh. Cuộc xâm lăng của Xô Viết vào xứ Tiệp Khắc vào năm 1968 đã không gây phản ứng dữ dội nào tại phương tây, nên đã bị Mao coi là cách xác nhận lại chủ quyền của Moscow trong khối cộng sản. Vào tháng 9/1971, sau nhiều năm e ngại chiến tranh Trung Xô, người được chỉ định kế nghiệp của Mao là Lâm Bưu (Lin Piao) đã chết trong một tai nạn máy bay phản lực bí ẩn khi ông này tìm cách trốn sang Liên Xô sau khi âm mưu với giới quân sự của Trung Cộng để lật đổ Mao.
Những khai triển này đã khiến cho Nixon có thể cởi mở với Trung Cộng và đi qua Bắc Kinh vào tháng 2 năm 1972. Tuy nhiên viêc sát gần Mỹ Hoa đã không khiến cho Trung Cộng chấm dứt yểm trợ Bắc Việt. Sự ve vãn của Nixon đối với các nhà lãnh đạo Xô Viết cũng thất bại trong việc mang lại kết quả trên chiến trường Đông Dương. Thực vậy, vào tháng 10/1971, do e ngại sự thông đồng Mỹ Hoa, Xô Viết đã phái Nikolai Podgorny tới Hà Nội, tại nơi đây ông ta đã đề nghị sự liên kết Xô Viết với Bắc Việt chống lại Trung Cộng.
Vào mùa xuân năm 1971, Moscow gia tăng các trợ giúp quân sự của họ, gửi qua Bắc Việt các chiến xa T-54 và các đại bác tầm xa trong số các võ khí chuyển qua hải cảng Hải Phòng. Vài tháng sau, số lượng chuyển giao võ khí lên cao tới bậc thứ hai trong suốt cuộc chiến (cao điểm là vào năm 1967).
Do được Moscow khuyến khích và trang bị võ khí, Bắc Việt phát động cuộc tấn công vào tháng 4, chiếm tỉnh Quảng Trị của miền nam Việt Nam và đe dọa các miền quan trọng khác. Nixon đã ngăn trở cuộc xâm lăng bằng cuộc hành quân Linebacker, đây là lần oanh tạc đầu tiên chống lại quân Bắc Việt kể từ khi Johnson ngưng ném bom vào năm 1968. Cách ngoại giao khéo léo của Nixon đã làm im lặng phản ứng của Trung Cộng và hứa hẹn cuộc họp thượng đỉnh giữa Nixon và nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev.
Vào tháng 10/1972, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, người cầm đầu phái đoàn Bắc Việt tại cuộc Hòa Đàm Paris, đã đạt tới một sự đồng ý sơ khởi. Mặc dù Kissinger đã tuyên bố rằng hòa bình đang trong tầm tay, Tổng Thống Thiệu tại Saigon phản đối và Bắc Việt đã ngưng các buổi họp. Nixon bèn ra lệnh 11 ngày oanh tạc mạnh miền Bắc, nên đã mang Bắc Việt trở lại bàn hội nghị nhưng cũng đã khiến cho các kẻ khuynh tả và các kẻ cấp tiến chống đối trong ngành truyền thông và Quốc Hội coi ông ta là phạm nhân chiến tranh. Vào ngày 27/1/1973, một hiệp ước hòa bình chấm dứt chiến tranh đã được ký kết tại Paris.
Vào ngày 29/3/1973, các đơn vị Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm thứ hai của Hoa Kỳ tại châu Á vào thời gian Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ bị tổn thất 58,000 binh lính, hơn số lính chết tại Triều Tiên (56,000). Nhưng Hoa Kỳ đã để lại 10,000 quân canh giữ Nam Triều Tiên ngăn chặn Cộng Sản miền Bắc trái với việc Hoa Kỳ bỏ mặc kẻ đồng minh yếu đuối là Nam Việt Nam phải bảo vệ chính mình.
Những gì Nixon gọi là “hòa bình trong danh dự” đã trở thành không có hòa bình mà chẳng có danh dự. Thỏa Ước Paris là một cách đầu hàng Hà Nội được che dấu sơ sài. Quân đội chính quy Bắc Việt được phép lưu lại các khu vực của Miền Nam mà họ đã kiểm soát. Đầu tiên bị làm yếu đi và bị loại ra khỏi văn phòng bởi vụ tai tiếng Watergate, Nixon không thể làm tròn lời hứa với Tổng Thống Thiệu rằng Hoa Kỳ sẽ cứu nguy chế độ này bằng cách dùng không lực khi cần thiết.
Trong khi phe đa số Dân Chủ trong Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối cung cấp các yểm trợ yêu cầu do Nixon và do chính quyền Ford, Xô Viết gia tăng sự trợ giúp của họ cho Bắc Việt, bằng cách cung cấp các võ khí cao cấp hơn, gồm cả chiến xa hiện đại và súng phòng không. Vào cuối năm 1974, Hà Nội bắt đầu đánh phá để chuẩn bị cho cuộc tấn công cuối cùng. Hà Nội đã ngạc nhiên thấy rằng sự chống cự suy sụp nhanh chóng và trong khi Tổng Thống Thiệu cùng các nhà lãnh đạo khác của miền Nam bỏ chạy khỏi quê hương một cách nhục nhã, quân đội Bắc Việt đã nhanh chóng tràn chiếm miền Nam.
Ngày 17/4/1975, Khmer Đỏ là kẻ hưởng lợi của quân đội Bắc Việt chống lưc lượng quân sự Cambốt, đã nắm chính quyền tại xứ này. Hai tuần lễ sau, vào ngày 30 tháng 4, Saigon sụp đổ trước lực lượng quân sự Bắc Việt và nhân viên Mỹ cùng với các người Việt Nam tuyệt vọng hoảng sợ di tản. Miền Nam Việt Nam bị thua vì thiếu nhân lực, thiếu súng đạn, đã sụp đổ không phải vì cuộc nổi dậy của dân chúng, nhưng vì một trong các quân lực mạnh nhất và kinh nghiệm nhất trên thế giới, quân lực này được trang bị do hai nước toàn trị hùng mạnh nhất kể từ thời Đức Quốc Xã.
3. Hoa Kỳ trên đường rút lui
Theo sau sự sụp đổ tàn nhẫn của miền Nam Việt Nam là cách kết hợp toàn trị về mọi phương diện chính trị, văn hóa và đời sống xã hội. Hàng trăm ngàn người Miền Nam bị gom lại và bị nhốt vào các “trại giáo dục cải tạo” (reeducation camps), số người bị hành quyết không được biết rõ. Các thành phần của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (the National Liberation Front) bị người cộng sản của miền Bắc đẩy ra ngoài, những người này chiếm đoạt các tòa nhà lớn và các động sản của giới cao cấp Saigon và họ trở thành một giai cấp cai trị mới vừa độc tài, vừa tham nhũng.
Tại các nước Đức, Trung Hoa và Cuba cũng như tại các quốc gia khác mà người cộng sản nắm được chính quyền, hàng ngàn người dân đã bỏ phiếu bằng chân, họ là các kẻ tỵ nạn bỏ chạy. Tại Đông Đức đã có bức tường ngăn cản dân chúng không bỏ chạy được. Vào thập niên 1950, hơn một triệu người Việt Nam đã bỏ chạy chế độ đàn áp của Hồ Chí Minh qua miền Nam tương đối tự do hơn.
Ngày này, khi mà các người kế tục của Hồ củng cố quyền kiểm soát của họ trên toàn đất nước thì đã bắt đầu một trong các cuộc bỏ xứ ra đi lớn lao nhất trong cuối thế kỷ 20. Vào giữa thập niên 1970, hơn 750,000 người Việt Nam đã bỏ chạy qua Hoa Kỳ và hơn một triệu người đã sinh sống trong các quốc gia tây phương khác. Số đông khác cũng vượt thoát qua Trung Hoa và các quốc gia khác trong vùng. Không có một cuộc chiến tranh Đông Dương nào đã khiến cho có số người tỵ nạn đông đảo như thế tại ngoại quốc bằng nền hòa bình dưới quyền cai trị cộng sản. Một thảm họa lớn hơn cũng xẩy ra tại xứ Cambốt khi phe Khmer Đỏ, theo đúng văn bản cực tả của Mao rút từ chủ nghĩa Mác Xít- Lênin-nít, đã thực hiện một chiến dịch tập trung tàn nhẫn rồi một phần tám tới một phần tư dân số Cambốt đã bị hành quyết hay bỏ mặc cho chết đói.
Sự thắng lợi của nước ủy nhiệm của Liên Xô là Bắc Việt, và sự làm mất uy tín cùng với tình trạng tê liệt của Hoa Kỳ trong chính sách ngoại giao theo sau cuộc sụp đổ của Saigon, đã làm vững mạnh thành phần lãnh đạo Xô Viết trong các ảnh hưởng tại châu Á, châu Phi, miền Trung Đông và miền châu Mỹ La Tinh.
Sau khi đã thừa hưởng Đông Dương là phần đất trước kia của đế quốc Pháp, Liên Xô ngày nay lại chiếm cứ các phần của đế quốc Bồ Đào Nha tại châu Phi. Vào cuối thời kỳ của chính quyền Carter, Liên Xô đã phái đi vào khoảng 50,000 cố vấn quân sự tới các quốc gia thuộc Thế Giới Thứ Ba. Trong thập niên 1960, các nước nằm bên ngoài Đông Âu và Trung Hoa lãnh đạo do “đảng tiên tiến Mác Xít Lênin-nít”, chỉ gồm có Mông Cổ, Bắc Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba. Qua thập niên 1980, tham gia vào chế độ kể trên là các chính quyền thân Xô Viết tại Afghanistan, Angola, Ethiopia, Mozambique, Nam Yemen, Benin và Congo-Brazzaville, cùng với các chế độ theo cộng sản lỏng lẻo tại các xứ Zaire, Guinea-Bissau, Cape Verde vàMadagascar.
Trong công việc bành trướng ảnh hưởng qua Thế Giới Thứ Ba, các người Xô Viết trông cậy vào các nước phụ trong đế quốc cộng sản. Ngành Công An của Đông Đức đã giúp đỡ các chính quyền thân Xô Viết như Angola, Ethiopia, Libya, Mozambique, Zambia và Nam Yemen để thiết lập các hệ thống an ninh nội địa. Các chuyên viên Cuba đã huấn luyện các vệ sĩ cho các nhà độc tài và các sĩ quan công an cho một số nước thuộc Thế Giới Thứ Ba, gồm cả Angola, Nicaragua và Ethiopia. Trong khi đó vẫn tiếp tục sự tăng cường quân sự Xô Viết, bắt đầu sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Trong hai thập niên 1960 và 1970, CIA của Hoa Kỳ ước lượng rằng từ 12 tới 16 phần trăm của tổng sản lượng quốc nội (GDP) của Liên Xô được dành cho quân sự và nhiều người đã chỉ trích rằng tỉ lệ kể trên là quá đáng. Sau Cuộc Chiến Tranh Lạnh kết thúc, mọi người được biết rằng CIA đã ước lượng quá thấp các chi phí quân sự của Liên Xô và chi phí này cao tới 25 phần trăm của GDP.
Vào giữa thập niên 1970, vị trí của Hoa Kỳ trên thế giới bị suy đồi rất nhiều. Sự yếu kém của Hoa Kỳ, rõ ràng trong cách bỏ rơi Đông Dương, còn được làm sáng tỏ thêm vào tháng 10 năm 1973 khi tất cả các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ tại châu Âu ngoại trừ Bồ Đào Nha, đã từ chối không cho phép Hoa Kỳ dùng các phi trường của họ để tiếp tế trở lại cho nước Do Thái trong cuộc Chiến Tranh Ả Rập-Do Thái.
Chính quyền Nixon đã từ bỏ hệ thống hối đoái cố định Bretton Woods khiến cho Hoa Kỳ không theo bản vị bằng vàng (gold standard). Cuộc cấm vận dầu lửa của Khối OPEC, thực hiện mà không e sợ sự trừng phạt của Hoa Kỳ, đã làm tổn hại nền kinh tế của Hoa Kỳ và các nền dân chủ kỹ nghệ khác. Hiệp Ước Helsinki phê chuẩn tính hợp pháp của đế quốc cộng sản Đông Âu mà Stalin đã tạo nên, và đế quốc này chỉ được duy trì bằng các cuộc xâm lăng của Xô Viết vào các năm 1953, 1956 và 1968. Khối đa số thân Liên Xô đã được thành lập trong Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Chính quyền Carter bị chia rẽ thành khối thiểu số gồm những nhân vật cứng dắn chống Liên Xô như cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski, và khối đa số gồm những người cấp tiến chống Chiến Tranh Lạnh như bộ trưởng ngoại giao Cyrus Vance, là người đã bỏ qua cách bành trướng đế quốc Xô Viết trong Thế Giới Thứ Ba bằng phương tiện nước ủy nhiệm Cuba, và sau này ông Vance cũng từ chức để phản đối khi Tổng Thống Carter dùng sức mạnh trong công cuộc giải cứu các con tin Mỹ tại Iran nhưng cố gắng kể trên đã gặp thất bại. Ngay cả Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc của ông Carter là ông Andrew Young, đã mô tả nước phụ thuộc Cuba của Moscow tại châu Phi là một “ảnh hưởng làm ổn định” (a stabilizing influence).
Cựu Tổng Thống Lyndon Johnson chết vì bệnh tim vào năm 1973, đã không sống lâu để nhìn thấy các cơn ác mộng của ông thành sự thật: Hoa Kỳ đang rút lui trên thế giới trước Đế Quốc Xô Viết đang tiến tới, sự gần sụp đổ của đồng minh NATO trước các nghi ngờ về uy tín của Hoa Kỳ và cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa Hoa Kỳ và các thân chủ của Liên Xô và Cuba tại Nicaragua, với Cuba là một xứ vệ tinh của Xô Viết trên miền lục địa Bắc Mỹ.
Trong khi Liên Xô bành trướng sức mạnh và ảnh hưởng của mình trên toàn thế giới sau cuộc sụp đổ của Saigon; tại Đông Dương, tình hình vẫn biến động. Vì bị mất ảnh hưởng tới các người Bắc Việt, Trung Cộng đã bảo trợ Khmer Đỏ trong các vụ xung đột biên giới với Việt Nam. Sau một thời gian ngắn suy thoái về ngoại giao, cách thức đồng minh Xô -Việt được làm sống lại bằng các buổi họp tại Moscow vào tháng 5 và tháng 6 năm 1977. Vào đầu năm 1978, Tướng Giáp bí mật qua Lào, tại nơi này ông ta đã hỏi TướngG. Pavlovsky, Tư Lệnh các lực lượng Xô Viết Trên Bộ rằng Việt Nam phải làm gì đối với Cambốt. Pavlovsky đã khuyên bảo Hà Nội nên “làm ra một xứ Tiệp Khắc” (do a Czechoslovakia). Vào tháng 8 năm 1978, Xô Viết bắt đầu cung cấp cho Việt Nam các quân dụng để xâm lăng Cambốt và đã gia tăng con số cố vấn Xô Viết tại Đông Dương từ 2,000 lên tới 3,500 người.
Vào ngày 3/11/1978, Hà Nội đã ký Hiệp Ước 25 năm Thân Hữu và Cộng Tác với Liên Xô (a 25-year Treaty of Friendship and Cooperation). Với sự ủng hộ Xô Viết đã được bảo đảm như vậy, Việt Nam xâm lăng Cambốt vào ngày 15/12/1978 và chiếm thủ đô Phnom Penh chưa tới một tháng sau. Phe Khmer Đỏ bỏ chạy về phía biên giới Thái Lan, tại nơi này họ và các nhóm chống cự các kẻ chiếm đóng Việt Nam, đã nhận được sự trợ giúp của Trung Cộng, Hoa Kỳ và Thái Lan.
Vào ngày 17/2/1979, Trung Cộng xâm lăng các tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam và đã chịu thiệt hại lớn lao trước khi rút quân sau 16 ngày. Vụ xung đột Hoa-Việt và cuộc chiếm đóng Cambốt của Việt Nam đã làm leo thang cách trợ giúp quân sự đồ sộ của Xô Viết tới bậc cao nhất. Tại cao điểm, sự trợ giúp này vượt trội mức độ giúp đỡ của Xô Viết cho Bắc Việt khi chiến tranh với Hoa Kỳ. Ngoài ra, để hiện đại hóa không quân và hải quân của Việt Nam, Moscow đã cung cấp nhân viên và yểm trợ tiếp liệu để Việt Nam chiếm đóng Cambốt. Các cuộc hành quân của Việt Nam tại Cambốt lệ thuộc vào các phi công Xô Viết và hàng trăm binh lính và dân sự Xô Viết đã dỡ các khối hàng tiếp liệu của Liên Xô tại các hải cảng của Việt Nam. Để đền đáp lại công ơn đã giúp sức vào công cuộc thống trị cộng sản của Bắc Việt trên toàn cõi Đông Dương, Liên Xô được phép dùng các phương tiện quân sự tại đây. Căn cứ Xô Viết tại Vịnh Cam Ranh đã trở thành căn cứ quân sự rộng lớn nhất và quan trọng nhất của Liên Xô nằm bên ngoài Đông Âu.
Vào giữa thập niên 1980, quân đội Việt Nam được Liên Xô bao cấp, với hơn 1 triệu lính chính quy và 2 triệu lính phụ thêm, đã trở nên lực lượng quân sự lớn thứ ba trên thế giới, đứng sau quân đội Nhân Dân Giải Phóng của Trung Cộng và quân lực Xô Viết. Nhân dân Việt Nam đã phải trả một giá khủng khiếp cho chế độ quân phiệt của các nhà cai trị toàn trị của họ. Vào cuối thập niên 1970, hệ thống nông nghiệp xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đang trên bờ sụp đổ. Mặc dù các cải cách nhỏ hướng về thị trường vào năm 1979 và 1980, chỉ nhờ vào sự trợ giúp đồ sộ của Liên Xô mới tránh cho Việt Nam khỏi bị nạn đói giống như hai nước thân chủ khác của Liên Xô là xứ Ethiopia theo Mác Xít- Lênin-nít của ông Mengistu, chịu nạn đói vào thập niên 1980, vàxứ Bắc Triều Tiên bị chết đói trong thập niên 1990.
4. Cuộc Chiến Tranh Lạnh thứ hai
Tại nước Afghanistan, nhờ cuộc đảo chánh năm 1978 chế độ thân Xô Viết đã nắm quyền rồi tiếp theo là một cuộc nội chiến và cuộc xâm lăng của Liên Xô vào ngày 27/12/1979. Vào thời gian này, khối Xô Viết đang ở đỉnh quyền lực cao nhất trên thế giới. Trong khi Liên Xô đang tham dự vào cuộc chiến tranh toàn diện đầu tiên bên ngoài đế quốc Đông Âu kể từ năm 1945, các phó vương người Việt của Liên Xô cũng chinh phục Đông Dương; và xứ ủy nhiệm Cuba đang đánh nhau tại châu Phi, giúp đỡ các nổi loạn trong miền Trung Mỹ và giúp vào sự liên kết với khối Xô Viết của nền độc tài Sandinista tại Nicaragua.
Cuộc xâm lăng Afghanistan của Liên Xô cùng với cách đàn áp phong trào lao động Đoàn Kết chống cộng sản (Solidarity) bằng chế độ thiết quân luật tại nước Ba Lan vào năm 1981, đã giúp công vào việc củng cố quan điểm chống Xô Viết tại phương tây. Các nhà bảo thủ chống cộng đã lên nắm quyền tại các quốc gia chính trong Cộng Đồng Đại Tây Dương: Magaret Thatcher tại nước Anh (1979), Ronald Reagan tại Hoa Kỳ (1981) và Helmut Kohl tại Tây Đức (1983).
Đối đầu với sự phản đối hàng loạt của các người khuynh tả, các nhà lãnh đạo phương tây, kể cả Tổng Thống thiên xã hội của nước Pháp là Francois Mitterrand, đã cho dàn ra các tên lửa NATO để phản ứng lại mối đe dọa của các tên lửa tầm trung của Liên Xô. Dưới thời Reagan, Hoa Kỳ loại bỏ tình trạng bớt căng thẳng của thời kỳ Nixon-Kissinger và chính sách giao động cùng dịu hòa của Carter, mà quay về với chính sách giống như của Truman-Kennedy-Johnson, tức là chính sách ngăn chặn toàn cầu đối với Liên Xô.
Cách tăng cường quân sự của Reagan, yểm trợ các cuộc nổi dậy chống cộng sản tại Afghanistan, Nicaragua, Angola và các nơi khác, và cuộc chiến tranh ý thức hệ không nhân nhượng (gồm cả cách chế riễu nhưng mô tả đúng Liên Xô là một đế quốc của tội ác) đã thành công trong việc đánh thuế hệ thống Xô Viết tới độ các nhà lãnh đạo Liên Xô phải chọn giữa cách rút lui hay phá sản. Nhà lãnh đạo Xô Viết Mikhail Gorbachev đã chọn chính sách rút lui vào thập niên 1980 nhưng đã không tránh cho Liên Xô khỏi bị sụp đổ vì kinh tế.
Vào năm 1989, do áp lực của Moscow, Hà Nội tuyên bố rút lui khỏi Cambốt. Bị hoảng sợ vì các cuộc cách mạng dân chủ thổi qua miền Đông Âu, các nhà lãnh đạo già nua theo Stalin tại Hà Nội đã dập tắt các bất đồng chính kiến trong nước của họ. Là nước đã từng được Trung Cộng gọi là “nước Cuba của châu Á” (the Asian Cuba) và sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, Việt Nam lúc này nhận thấy mình bị trôi dạt khi không còn lệ thuộc vào Moscow. Nhưng các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác Xít-Lênin-nít tiếp tục nắm quyền tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào và Cuba. Chế độ Cộng Sản, trước kia là niềm tin để tranh đấu, nay đang hấp hối. Và cuộc Chiến Tranh Thứ Ba cuối cùng đã chấm dứt.
5. Kẻ thắng người bại tại Việt Nam
Ai là người đã chiến thắng, ai là kẻ bị thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam? Các kẻ bị hoàn toàn thất bại là các viên chức của miền Nam Việt Nam, quốc gia của họ bị xóa bỏ trên bản đồ. Các người cộng sản Bắc Việt đã chiến thắng nhưng với giá của sự phá sản và cô lập khi sự bảo trợ của Liên Xô sụp đổ.
Toàn thể dân tộc Việt Nam cũng là kẻ bại. Cả hai phía người Việt bị thiệt hại mất 2 triệu người và sự tàn phá phần lớn đất đai, theo sau là hệ thống Stalin-nít tàn bạo và vô lý (irrational) của miền Bắc áp dụng cho toàn thể đất nước vào năm 1975. Mọi người dân Việt Nam đã chịu đau khổ do cuộc chiến thắng cộng sản, đây là những người còn ở lại trong nước, và gần hai triệu người đã bỏ chạy ra khỏi nước. Dân tộc Lào cũng chịu đau khổ tương tự. Cơn hấp hối lớn nhất xẩy đến cho dân tộc Cambốt, họ đã phải chịu đựng cuộc tàn sát tập thể và nạn đói khát trầm trọng dưới quyền cai trị của những người cộng sản Cambốt.
Trong số các siêu cường đã tham dự vào cuộc Chiến Tranh Lạnh tại Đông Dương, các nước Pháp, Trung Cộng và Hoa Kỳ đều là các kẻ bại. Nước Pháp đã hy sinh gần 100 ngàn quân và còn đang bị mất đế quốc Đông Nam Á, trên thứ nền móng này mà nước Pháp tự coi là siêu cường sau Thế Chiến Thứ Hai. Trung Cộng đã khám phá quá trễ rằng do giúp đỡ Hà Nội, họ cũng tạo nên một đồng minh của Liên Xô đáng ghét tại biên giới của họ.
Hoa Kỳ chịu sự thất bại mang tính cách tàn phá (devastating).Trong cuộc chơi kẻ thắng ăn cả người bại mất hết (zero-sum) của nền trật tự thế giới hai cực, sự thất bại của Washington là sự thắng lợi của Moscow. Đồng thời cái giá về số người chết và người bị thương của Mỹ tạm thời phá hủy sự nhất trí trong nước trước cuộc Chiến Tranh Lạnh.
Hoa Kỳ đã thương lượng với Đế Quốc Liên Xô về một cuộc đình chiến không thuận lợi và đã từ bỏ chính sách ngăn chặn trong một thập niên, chỉ trở lại chính sách quân sự chống Xô Viết vào cuối thập niên 1970. Vào thời kỳ đó, cuộc Chiến Tranh Việt Nam làcuộc thất bại lớn lao xếp hàng thứ hai mà Hoa Kỳ phải chịu đựng trong cuộc Chiến Tranh Lạnh. (Cuộc thất bại lớn lao nhất của chính sách Chiến Tranh Lạnh của Hoa Kỳ, dù không dùng quân lực, là sự chiến thắng của các người cộng sản Trung Quốc được Xô Viết bảo trợ vào năm 1949 – một chiến thắng mà nếu không có, sẽ không xẩy ra các cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam).
Người ta thường nói rằng Hoa Kỳ là một cường quốc kiêu ngạo, đã bị thất bại trước các cố gắng anh hùng của một nước nhỏ và yếu hèn của châu Á. Điều này không đúng. Yếu tố can thiệp do Liên Xô và Trung Cộng cung cấp, đặc biệt là mối đe dọa bởi Trung Cộng sẽ can thiệp bằng quân tham chiến, như họ đã từng làm tại Triều Tiên, đã cản trở Hoa Kỳ xâm lăng hay tham dự vào một cuộc chiến toàn diện chống Bắc Việt. Và khối hỗn hợp quân sự Liên Xô và Trung Cộng đã giúp cho quân Bắc Việt tiếp tục cho tới khi họ thành công vào năm 1975, rồi sau năm này, sự trợ giúp còn cao hơn nữa của Liên Xô đã làm cho đế quốc Việt Nam được thực hiện tại Lào và Cambốt. Không thể có được sự thành công của Hà Nội nếu không có sự yểm trợ của hai trong số ba nước hùng mạnh nhất theo chế độ toàn trị sát nhân trong lịch sử.
Cuộc Chiến Tranh Việt Nam khởi đầu một thời đại gồm các thành công Xô Viết lớn lao nhất trong cuộc Chiến Tranh Lạnh. Nếu các áp đặt của các chế độ cộng sản do Hồng Quân và các nhân viên Xô Viết tại Đông Âu không được kể là các cuộc cách mạng thực sự, thì vào thập niên 1970 là các chiến thắng của Liên Xô khi bảo trợ các chế độ theo chủ nghĩa Mác Xít- Lênin-nít, khi mà Hoa Kỳ bị đẫm máu tại Đông Dương, đã tạm thời từ bỏ chiến thuật ngăn chặn và bắt đầu rút lui vào chủ nghĩa cô lập (isolationism). Do yểm trợ đệ tử của Stalin là Hồ Chí Minh và những người kế tiếp ông ta trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm, các nhà lãnh đạo Xô Viết đã lấy lại được quyền lãnh đạo cách mạng thế giới từ Trung Cộng của Mao, chặn đứng Trung Cộng tại biên giới phía nam, làm nhục và tạm thời làm tê liệt Hoa Kỳ./.
© Phạm Văn Tuấn
© www.vietthuc.org
(Chuyển ngữ từ tác phẩm “Vietnam, The Necessary War”, của Nhà Sử Học Michael Lind, The Free Press, N.Y.1999).