Trước khi đề cập đến khuyết điểm của nền dân chủ Hoa Kỳ, cần duyệt lại sơ qua một số ưu điểm không thể nào quên. Những ưu điểm đó có thể liệt kê vắn tắt như sau.
Ưu điểm thứ nhất là một nền kinh tế phát triển cao nhất và lâu dài nhất thế giới. Chỉ ít lâu sau khi Hoa Kỳ thoát ách cai trị của người Anh và giành được độc lập thì nền kinh tế Hoa Kỳ tăng nhanh như vũ bão và đứng đầu thế giới cho đến ngày nay.
Ưu điểm thứ hai là đất nước này đã có một nền dân chủ ngay từ những ngày đầu lập quốc và trong nền dân chủ đó, nguyên tắc tam quyền phân lập đúng nghĩa đã được áp dụng và tôn trọng về cả hàng ngang lẫn hàng dọc. Về hàng ngang thì không cần nhắc lại, còn về hàng dọc thì chính quyền liên bang không bao giờ vi phạm quyền hạn của tiểu bang.
Ưu điểm thứ ba là nhân quyền được tôn trọng và triển khai sớm nhất. Trong các quyền của con người cá thể thì 14 quyền công dân, 15 quyền đầu phiếu, 19 quyền đầu phiếu của phụ nữ đã được quốc hội thông qua rất sớm . Tại Hoa Kỳ, con người là trọng tâm của quốc gia. Sự phát huy quyền con người đã tạo nên một xã hội phồn vinh và một tư tưởng khai phóng cho nhân loại.
Tuy những ưu điểm nêu trên không thể chối cãi, nhưng nền chính trị của Hoa Kỳ hiện nay vẫn là một trật tự chưa hoản hảo. Bài viết chỉ đề cập đến khuyết điểm này vì là khuyết điểm lớn nhất và quan trọng nhất. Xin mời qúy ví đọc tiếp.
Khuyết điểm lớn nhất: Electoral College
Trong thực tế dân Mỹ không trực tiếp bầu chọn tổng thống của mình. Thay vào đó là một cử tri đoàn gồm các “đại biểu cử tri” bỏ phiếu. Ta thử tìm hiểu xem thế nào là đoàn “đại biểu cử tri” ( electoral college ).
Mỗi bang có một số “đại biểu cử tri” (electors) nhất định, hợp thành “đại biểu cư tri đoàn” dựa trên quy mô dân số của bang đó. Bang nào càng nhiều công dân thì càng nhiều đại biểu cử tri. Về mặt kỹ thuật thì các cử tri Mỹ đi bỏ phiếu để bầu “đại biểu cử tri” chứ không bầu trực tiếp để chọn tổng thống.
California là bang đông dân nhất nên có số lượng “đại biểu cử tri” lớn nhất là 55. Một số bang khác ít dân hơn như Florida, Pensylvania, Ohio… chỉ có số “đại biểu cử tri” là trên 20. Mốt số bang nhỏ khác và đặc khu Washington DC chỉ có 3 phiếu “đại biểu cử tri”.
Tổng cộng nước Mỹ có 538 ‘đại biểu cữ tri” ngoại trừ hai bang Maine và Nebraska. Để trở thành tổng thống mỗi ứng cử viên cần hội đủ tối thiểu 270 phiếu “đại biểu cử tri”. Ngoài ra người đắc cử không nhất thiết phải giành chiến thắng về số phiếu phổ thông.
Hệ lụy của phương cách bầu cử theo hệ thống “đại biểu cử tri”.
Hệ thống bầu cử theo “đại biểu cử tri” tại Mỹ được duy trì vì nó thường phản ánh chính xác lá phiếu của các cử tri phổ thông. Hệ thống này cũng tạo ra cho các bang nhỏ có sức nặng hơn trong việc bầu chọn tổng thống.
Ví dụ như bang California chiếm 12,03% dân số của nước Mỹ nhưng “đại biểu cử tri đoàn” của họ chỉ chiếm 10.22% số đại biểu cử tri trên cả nước. Trong khi bang Wyoming chỉ có dân số bằng 0,18% dân số cả nước thì lại có 3 phiếu đại biểu cử tri (nghĩa là bằng 0,56% tổng số đại biểu cử tri).
Thời gian gần đây một câu hỏi được đặt ra là : liệu có bất công hay không khi một ứng cử viên đắc cử tổng thống lại nhận được ít hơn số phiếu phổ thông so với người thất bại. Đây là một hạn chế chính của hệ thống bầu cử theo hình thức “đại biểu cử tri”.
Năm 2000 ứng cử viên Al Gore giành được 48,38% số phiếu phổ thông toàn quốc, trong khi đối thủ George W Bush, thuộc phe Cộng Hoà , chỉ được 47, 87%. Vậy mà Bush vẫn chiến thắng vì nhận được 271 phiếu đại biểu cử tri so với 266 của Al Gore.
Tình huống tương tự cũng xảy ra vào năm 1888 khi Benjamin Harrison giành chiến thắng nhờ hơn phếu “đại biểu cử tri” so với đối thủ Grover Cleveland. Và năm nay 2016, việc đó lại xảy ra thêm lần nữa khi Donald Trump thắng Hilary Clinton.
Tại sao phương thức “đại biểu cử tri” đoàn vẫn được sử dụng ?
Khi nước Mỹ được thành lập, chiến dịch vận động và bỏ phiếu đồng loạt ở tầm quốc gia không thể làm được, vì khả năng thông tin thời đó quá thô sơ. Các bang ngờ vực về quyền lợi của họ cho nên phổ thông đầu phiếu không thể thực hiện.
Các bang thuộc miền nam nước Mỹ rất ủng hộ phương thức “đại biểu cử tri “ đoàn. Những nô lệ tại khu vực này không có quyền bỏ phiếu nhưng được tính bằng 3/5 người thường. Qua năm tháng, “đại biểu cử tri” đoàn trong khu vực thay đổi và ngày càng phản ánh sát hơn nguyện vọng của người dân.
Nguồn gốc của electoral college phát xuất từ giới điền chủ Hoa Kỳ từ thời lập quốc. Họ là một giai cấp giàu có và thí thức. Họ lãnh đạo cuộc chiến và muốn bảo vệ quyền lợi vị kỷ của mình. Ngày nay, rõ ràng là hệ thống bầu cử này không còn lý do tồn tại. Nền dân chủ Hoa Kỳ sẽ vững mạnh hơn nếu được đặt căn bàn trên đa số tuyệt đối ( absolute majority) số phiếu trực tiếp của người dân.
Hoa Kỳ có phải là một chế độ đa đảng chân chính?
Mặc dầu người dân Hoa Kỳ có quyền thành lập đa đảng trong hoạt động chính trị, nhưng từ xưa đến nay, Hoa Kỳ lúc nào cũng là một chế độ chính trị lưỡng đảng ở cấp liên bang. Hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vẫn ngự trị gần như tuyệt đối trong các quốc hội. Hậu qủa là nền dân chủ Hoa Kỳ thiếu sự sinh động và sáng tạo từ các đáy tầng (grassroot) của xã hội như tại Úc và các quốc gia dân chủ tiến bộ khác.
Khi lưỡng đảng độc chiếm môi trường chính trị thì các phe nhóm lợi ích lộng hành. Các nhóm lợi ích chỉ cần vận dụng ảnh hưởng xâm nhập một trong hai đảng là có thể thống trị xã hội Hoa Kỳ. Điều này khó có thể xảy ra trong một nền dân chủ đa đảng chân chính.
Người dân có quyền đi bầu hay không bầu.
Có thể gọi đây là quyền “tự do bầu cử tuyệt đối” tại Hoa Kỳ. Nguyên tắc này phát huy quan điểm dân chủ nhưng trên thực tế đây là một quyền tự do vô cùng bất công và phản động (reactionary).
Lý do là vì trong một nền dân chủ, những vùng nghèo ít học luôn luôn có khuynh hướng lười biếng hoặc bận rộn không đi bầu. Hậu qủa là họ không có đủ người đại diện tại các trung tâm quyền lực. Những chính sách quốc gia không phản ánh quyền lợi giai cấp của họ. Từ đó phát sinh và củng cố bất công xã hội.
Lập luận rằng nếu không đị bầu thì “dáng chịu” không phải là một lập luận có thể chấp nhận được. Chúng ta có trách nhiệm tạo ra hoàn cảnh công bằng cho mọi con người. Chính vì thế mà tại các quốc gia dân chủ tiên tiến thường có luật cưỡng bách cầu cử (compulsory voting) như ở Úc, và bất công giảm nhiều so với Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ không cần thay đổi hiến pháp mà chỉ cần thay đổi luật lệ bầu cử cho công bằng và hoàn chỉnh hơn.
Nguyễn Cao Quyền
Tháng 11 năm 2016
DIỄN ĐÀN VIỆT THỨC
KHƯỚC TỪ TRÁCH NHIỆM [DISCLAIMER]
Những tài liệu đăng trên DIỄN ĐÀN VIỆT THỨC nhằm thực thi tự do ngôn luận cá nhân, đa diện, tập thể, nên không phản ánh quan điểm hay lập trường của DIỄN ĐÀN VIỆT THỨC [Viet Thuc Foundation]. Mọi ý kiến và tài liệu đăng tại DIỄN ĐÀN VIỆT THỨC chỉ có tính cách thông tin, tham luận nhằm giúp độc giả gần gũi với thời cuộc liên quan tới văn hoá, giáo dục, kỹ thuật, kinh tế, xã hội, tài chính, luật pháp, chính trị, v.v. hiện hành tại Hoa Kỳ và trên thế giới.
Quý độc giả cần tìm hiểu kỹ lưỡng về sự chính xác, mức độ cần và đủ của tài liệu trước khi ứng dụng. Do đó DIỄN ĐÀN VIỆT THỨC khước từ trách nhiệm về nội dung và cách sử dụng những ý kiến, tài liệu và thông tin nhận được đăng trên bổn báo. Tuy nhiên, việc tham khảo thông tin và những ý kiến cần thiết, trình bày theo tinh thần cởi mở, tương kính, hoà nhã, sẽ giúp quý độc giả thêm phương tiện so sánh kiến thức một cách xây dựng, quy mô, đa dạng. Đó là điều mong ước của DIỄN ĐÀN VIỆT THỨC.
2 Comments
Lê Trung Hiếu
Cơ quan nào có quyền thay đổi luật lệ bầu cử? Hiến pháp Hoa Kỳ có quy định điều này không? tác giả cần đọc lại Hiến pháp Hoa Ky ve Electoral College.
Tại sao các đảng Dân Chủ và Cọng Hòa không nêu ra vấn đề Electoral Vote trước Quốc Hội?
Chính quiyền Hoa Kỳ đặt căn bản trên Hiến Pháp và 26 Tu Chính Án, nếu electoral vote gây ra sự bất công, tại sao các vị dân cử không dề nghị một tu chính án để sửa đổi ?
Đề nghị tác giả trả lời các câu hỏi nêu trên. Xin cám ơn.
Lê Trung Hiếu
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
Vai Trò Của Cử Tri Đoàn Trong Cuộc Bầu Cử Tổng Thống Hoa Kỳ Năm 2012
Posted By: Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM: January 19, 2012: CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT-QUÂN SỰ, TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT
Người dân có đích thực — trực tiếp — bầu Tổng Thống và Phó Tổng Thống Hoa Kỳ hay không? Đến giờ phút này vẫn phải trả lời là không, vì Tổng Thống và Phó Tổng Thống Hoa Kỳ được lựa chọn bởi Cử Tri Đoàn (Electoral College) tại cấp tiểu bang, trong ngày bầu cử trên toàn quốc.
THÀNH PHẦN VÀ NHIỆM VỤ CỦA CỬ TRI ĐOÀN
Trong cuộc bầu cử năm 2012 Cử Tri Đoàn (CTĐ) trên toàn quốc gồm có 538 cử tri (electors), ngang với tổng số nghị sĩ và dân biểu của 50 tiểu bang, cộng với 3 cử tri của District of Columbia (100 nghị sĩ +435 dân biểu+3 phiếu của D.C.). Tiểu bang đông dân cư có nhiều cử tri (CT), còn tiểu bang ít dân cư thì ít CT hơn. California có 55 CT, Texas 34, New York 31, là những tiểu bang đông đúc nhất. Ngược lại, có bẩy tiểu bang ít dân cư chỉ có 3 CT (tương xứng với 1 dân biểu và 2 nghị sĩ). District of Columbia (Hoa Thịnh Đốn) dù không phải là một tiểu bang cũng được quyền có 3 CT.
Thành Phần Cử Tri Đoàn Tại 50 Tiểu Bang Và D.C., Với Tổng Số 538 Cử Tri [Nguồn: Electoral College, Wikipedia]
Cử Tri Đoàn (CTĐ) được quy định bởi Điều II, Đoạn 1 của Hiến Pháp Hoa Kỳ (1787). Nhiều Tu chính Hiến Pháp đã được ban hành để xác định rõ thành phần và thủ tục sinh hoạt của CTĐ. Riêng Tu Chính thứ XXIII (1961) của Hiến Pháp Hoa Kỳ đã cho phép District of Columbia (Hoa Thịnh Đốn) dù không phải là một tiểu bang cũng được quyền có 3 CT trong việc chọn lựa Tổng Thống và Phó Tổng Thống.
Hiến Pháp Hoa Kỳ dành cho chính quyền tiểu bang quyền quyết định về cách thức chọn lựa CT và hình thức dồn phiếu của CTĐ tại cấp tiểu bang. 37 tiểu bang chọn CT tại Đại Hội Đảng cấp tiểu bang. 11 tiểu bang khác và District of Columbia để tổ chức trung ương lưỡng đảng (Cộng Hoà & Dân Chủ) chọn lựa CT. 2 tiểu bang còn lại để đảng tùy nghi sinh hoạt. Như vậy ta thấy ảnh hưởng của lưỡng đảng rất mạnh trong việc chọn lựa CTĐ với nhiệm vụ đích thưc bầu hai vị nguyên thủy quốc gia Hoa Kỳ.
Trong cuộc bầu cử năm 2000, CTĐ tại District of Columbia và 48 tiểu bang áp dụng hình thức dồn phiếu cho “người-được-ăn-cả” (winner-take-all), theo đó ứng cử viên thắng Phiếu Dân Bầu (popular vote) tại tiểu bang sẽ nhận được tất cả số phiếu của CTĐ thuộc tiểu bang đó. Riêng hai tiểu bang Maine và Nebraska, từ năm 1968, đã dành 2 CT cho người thắng Phiếu Dân Bầu (PDB) toàn cấp Tiểu Bang (State), và số còn lại chia cho ứng cử viên nào thắng tại từng cấp Quận (District). Ngược lại với hình thức “người-được-ăn-cả”, Maine và Nebraska đã theo hình thức cải cách “chia tương xứng/proportional split”.
Các Cử tri sẽ nhóm họp cùng một ngày 17 tháng 12 trên toàn quốc, tại viện dân biểu của từng tiểu bang để chính thức dồn phiếu lựa chọn Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Thường thì CTĐ quyết định căn cứ vào số phiếu của người dân đi bầu tại từng tiểu bang. Thông thường thì ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống thắng cử đạt được số Phiếu Dân Bầu (popular vote) cao nhất và cũng gom được số phiếu CT tối đa thường, là 270 phiếu (538 CT chia đôi = 269 CT +1) trên toàn quốc. Trong mọi trường hợp, quyết định của CTĐ [Electoral vote] là tối hậu, dù ngược lại với ý định của dân qua số Phiếu Dân Bầu (PDB/Popular vote). Đó là lý do mà lần thứ tư trong lịch sử bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống Hoa Kỳ, tại cuộc Bầu cử năm 2000, Bush được chọn làm Tổng Thống dù chỉ được ít PDB (50,456,062) trên toàn quốc, vì ứng cử viên này đã gom được 271 phiếu CTĐ, hơn số phiếu cần thiết (270) để đắc cử. Ngược lại, ứng cử viên Gore đã thua dù có số PDB cao hơn (51,003,926), nhưng chỉ gom được 266 phiếu CTĐ.
Nếu như không có ứng cử viên nào gom đủ só 270 phiếu cần thiết của CTĐ, như trường hợp cả hai ứng cử viên được đồng đều 269 phiếu CT, trong trường hợp đó, tân Hạ Viện sẽ chọn Tổng Thống, qua hình thức dân biểu tập trung thành một phiếu của mỗi tiểu bang, không phân biệt tiểu bang lớn, nhỏ. Đến ngày hôm nay, Hạ Viện chỉ nhóm họp hai lần (năm 1800 &1824) để bầu Tổng Thống. Nếu trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2004 các ứng cử viên không ai đạt được số phiếu tối đa cần thiết (270) của CTĐ, thì ứng cử viên nào được quá bán tổng số các tiểu bang (50:2=25+1=26 tiểu bang), bất kể lớn, nhỏ ưng chọn, qua hình thức dân biểu tập trung, sẽ trở thành vị tân Tổng Thống. Cũng trong trường hợp CTĐ bất phân trên (269/269), tân Thượng viện sẽ chọn vị Phó Tổng Thống, mỗi thượng nghị sĩ dồn một phiếu. Nếu tân Thượng Viện không quyết định nổi, vì bỏ phiếu đồng đều, bất phân định, trong trường hợp đó, Phó Tổng Thống bãi nhiệm sẽ bỏ phiếu để chọn chính mình (nếu là ứng cử viên) làm tân Phó Tổng Thống.
NHỮNG Ý KIẾN CHỐNG VÀ BÊNH VỰC HỆ THỐNG CỬ TRI ĐOÀN
Một số ý kiến cho rằng, nếu áp dụng cứng rắn hình thức dồn phiếu CTĐ theo lối “người-được-ăn-cả” tại cấp tiểu bang và đem dồn lại trên toàn quốc có thể đưa tới tình trạng “ngựa về ngược”, như đã xảy ra bốn lần trước đây (như trong những cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1824, 1876, 1888, và lần cuối vào năm 2000), trong đó ứng cử viên dù thắng PDB (popular vote) vẫn thua vì không đạt được số phiếu quá bán cần thiết (270) của CTĐ trên toàn quốc. Tình trạng này, vô hình chung, đã cho thấy ý dân tại Hoa Kỳ không phải là một “yếu điểm” dân quyền mà chỉ là một “điểm yếu” của một nền dân chủ bảo thủ, giám hộ, khi các vị nguyên thủy quốc gia không được dân bầu trực tiếp, mà lại được lựa chọn theo lối đầu phiếu gián tiếp, trong đó người dân chỉ có quyền “đề nghị”, còn CTĐ do đảng chọn mới có quyền “quyết định” tối hậu.
Hệ thống CTĐ cũng có sơ hở nội thuộc khi có tình trạng “CT bất trung” (faithless electors) phản đảng bầu cho ứng cử viên đối lập, như trong trường hợp cử tri Cộng Hoà thuộc tiểu bang Washington đã phản đảng không bẩu cho ứng cử viên Cộng Hoà Gerald Ford trong cuộc bầu cử 1976. Ứng cử viên nào về sát nút số phiếu CT có thể thua oan vì điểm “hụt cẳng” kỹ thuật bầu cử này.
Ngoài ra, nếu CTĐ bị kẹt khi dồn phiếu đồng đều cho cả hai ứng cử viên (269/269) mà lại để Hạ viện chọn Tổng Thống thì hình thức dân cử không còn tương xứng với nguyên tắc “một-người-một-phiếu” nữa, vì mỗi tiểu bang chỉ được một phiếu dân biểu tập trung, không phân biệt tiểu bang lớn, nhỏ. Như thế, ứng cử viên Tổng Thống chỉ cần được bất cứ 26 tiểu bang nào chuẩn chọn sẽ thắng cử.
Ngược lại, cũng có một số ý kiến khác đã bênh vực hệ thống CTĐ, cho rằng hệ thống này đã giúp các tiểu bang nhỏ được chú trọng tới. Những người cổ võ hệ thống này cũng lập luận rằng biện pháp trao quyền cho Hạ Viện hoặc Thượng Nghị Viện tuyển chọn Tổng Thống cũng không mấy khả quan hơn, vì vẫn là một hình thức đầu phiếu gián tiếp. Họ còn e rằng tu chính hiến pháp sẽ làm suy giảm hệ thống “liên bang” hiện hữu.
Những người cổ võ hệ thống CTĐ cũng cho rằng hệ thống này bảo vệ nền dân chủ tại Hoa Kỳ bằng cách dung dưỡng hệ thống lưỡng đảng (Cộng Hoà & Dân Chủ) trong khi tìm cách giảm thiểu những đảng phái thiểu số, độc lập hoặc đối lập khác, như đệ tam đảng (Third-Party) của Wallace vào những năm 1960, và gần đây đảng Hoà bình Xanh (Green Party) của luật gia Nader.
Họ còn nhấn mạnh rằng cơ cấu CTĐ tiêu biểu nhất cho nền dân chủ vì các CT được chọn từ những trung tâm đô thị, nơi có mức độ đầu phiều cao nhất. Điểm tích cực cuối cùng của hệ thống CTĐ là hệ thống này vẫn khả quan, hữu hiệu nhất, vì không cần sự can thiệp của Hạ Viện lẫn Thượng Nghị Viện trong suốt thế kỳ XX.
NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI TIẾN HỆ THỐNG CỬ TRI ĐOÀN
Một số đề nghị đã được đưa ra để thay đổi cách thức đầu phiếu chọn lựa Tổng Thống và Phó Tổng Thống Hoa Kỳ.
Một số đề nghị đòi giữ nguyên hệ thống CTĐ, nhưng chỉ muốn chia cách dồn phiếu giữa cấp tiểu bang và cấp quận, theo lối “chia tương xứng/proportional split” của hai tiểu bang Maine và Nebraska: dành 2 phiếu CT cho người thắng cử PDB toàn Tiểu Bang (State), và số CT còn lại chia cho ứng cử viên nào thắng PDB tại từng cấp quận (District).
Theo chiều hướng trên, người ta có thể bỏ hẳn chức vụ cử tri (electors), mà cần chia số phiếu tương xứng cho các ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống, theo tỷ lệ thắng toàn cấp tiểu bang và từng cấp quận. Đa số những dự án đòi hỏi tu chính Hiến Pháp để các tiểu bang có toàn quyền quyết định cách thức chọn lựa thành phần và nhiệm vụ của các CT tại cấp tiểu bang đều không được chấp thuận. Hơn nữa, những đề nghị trên vẫn chưa giải quyết đích thực về nhu cầu và quyền bầu cử trực tiếp của người dân trong việc chọn lựa Tổng Thống và Phó Tổng Thống Hoa Kỳ.
Riêng cựu thượng nghị sĩ Birch Bayh đã đề đạt một dự án tu chính Hiến Pháp để ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống ứng cử từ cấp quận tại mỗi tiểu bang để người dân trực tiếp bỏ phiếu. Cặp ứng cử viên nào nhận được số phiếu cao nhất, tối thiểu là 40 phần trăm tổng số PDB trên toàn quốc sẽ được coi là thắng cử. Nếu không ai đạt được số phiếu cần thiết trên, người ta phải tổ chức bầu lại và bất cứ ứng cử viên nào nhận được số PDB tương đối cao hơn đối phương sẽ được coi là đắc cử. Hình thức bầu cử này có đặc điểm là cho phép người dân trực tiếp chọn lựa hai vị nguyên thủ quốc gia. Nhưng vì triển vọng kéo dài cuộc bầu cử tới hai đợt và phải chi phí gấp bội về cách thức bầu cử, nên dự án tu chính Hiến Pháp về đầu phiếu trực tiếp đã bị Thượng Nghị Viện bác bỏ vào năm 1979. Từ đó đến nay chưa thấy xuất hiện một dự án tu chính Hiến Pháp tương tự.
Dù gặp nhiều khó khăn trong việc tu chính Hiến Pháp (tới nay hơn 700 dự án đòi bãi bỏ, sửa sai CTĐ đã bị Quốc hội Hoa Kỳ bác), đa số dân chúng Hoa Kỳ đều muốn có một hệ thống đầu phiếu dân cử để người dân trực tiếp chọn lựa những vị nguyên thủy quốc gia. Viện Gallup qua cuộc thăm dò ý dân trong năm 1968 đã công bố rằng 81% quốc dân Hoa Kỳ muốn có đầu phiếu dân cử trực tiếp, trong khi chỉ có 12% muốn giữ lại hệ thống nguyên thủy của CTĐ và 7 % không có ý kiến.
Năm 1969, 83 % Hạ Viện Hoa Kỳ đã thông qua dự án bãi bỏ CTĐ, với sự ưng thuận của 338 dân biểu và 70 phiếu chống của số dân biểu còn lại. Nhưng dự án này đã bị bác bởi Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ, vì cho rằng CTĐ bảo vệ quyền định doạt của các tiểu bang.
Vần đề bác bỏ hệ thống CTĐ rất tế nhị và quá ư là khó khăn, vì muốn tu chính hiến Pháp Hoa Kỳ, dù đã được Quốc Hội (cả hai viện) thông qua, vẫn cần phải được ba phần tư tổng số các tiểu bang chấp thuận. Vì quyền lợi địa phương, các tiểu bang nhỏ sẽ quyết liệt chống đối mọi dự án cải cách, bác bỏ CTĐ.
Có lẽ trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ thực hiện được một cuộc cải cách tương xứng về hệ thống CTĐ để dung hoà ba thế lực: ý dân, quyền lợi của đảng và quyền lợi của địa phưong, từ cấp quận lỵ.
BẢN ĐỒ CỬ TRI ĐOÀN CHỌN LỰA ỨNG CỬ VIÊN TỔNG THỐNG TRONG CUỘC BẦU CỬ NĂM 2012
Source: Freedom’ s Lighthouse [Jan. 2012]
2012 Presidential Election – Electoral College State-by-State Projection
Current Projection: Obama 201 – GOP 224 – Tossup 113 (270 Needed to Win)
State Electoral Votes 2008 Results Latest 2012 Obama Poll % Current Projection
Alabama 9 McCain +21% GOP
Alaska 3 McCain +21% 42% GOP
Arizona 11 McCain +8% 43.5% GOP
Arkansas 6 McCain +20% GOP
California 55 Obama +24% 53% Obama
Colorado 9 Obama +9% 45% Tossup
Connecticut 7 Obama +22% 48% Obama
Delaware 3 Obama +25% Obama
D.C. 3 Obama +86% Obama
Florida 29 Obama +3% 44.3% GOP
Georgia 16 McCain +5% 42% GOP
Hawaii 4 Obama + 45% 59% Obama
Idaho 4 McCain +25% GOP
Illinois 20 Obama +25% Obama
Indiana 11 Obama +1% GOP
Iowa 6 Obama +10% 46% Tossup
Kansas 6 McCain +15% 35% GOP
Kentucky 8 McCain +16% 40% GOP
Louisiana 8 McCain +19% GOP
Maine 4 Obama +17% 45% Obama
Maryland 10 Obama +25% Obama
Massachusetts 11 Obama +26% 57% Obama
Michigan 16 Obama +16% 41% Tossup
Minnesota 10 Obama +10% 45% Obama
Mississippi 6 McCain +13% 36% GOP
Missouri 10 McCain +0.13% 42.5% GOP
Montana 3 McCain +2% 40% GOP
Nebraska 5 McCain +15% 38% GOP
Nevada 6 Obama +12% 46% Tossup
New Hampshire 4 Obama +10% 43% GOP
New Jersey 14 Obama +16% 53% Obama
New Mexico 5 Obama +15% 53% Obama
New York 29 Obama +27% 59% Obama
North Carolina 15 Obama +0.33% 46% Tossup
North Dakota 3 McCain +9% 33% GOP
Ohio 18 Obama +5% 46% Tossup
Oklahoma 7 McCain +31% GOP
Oregon 7 Obama +16% 48% Obama
Pennsylvania 20 Obama +10% 45% Tossup
Rhode Island 4 Obama +28% 54% Obama
South Carolina 9 McCain +9% 43% GOP
South Dakota 3 McCain +8% GOP
Tennessee 11 McCain +15% 34% GOP
Texas 38 McCain +12% 37.5% GOP
Utah 6 McCain +28% GOP
Vermont 3 Obama +37% Obama
Virginia 13 Obama +6% 42.3% Tossup
Washington 12 Obama +17% 49.5% Obama
West Virginia 5 McCain +13% GOP
Wisconsin 10 Obama +14% 46% Tossup
Wyoming 3 McCain +32% GOP
State
Electoral Votes
538
2008 Results
Barack Obama – 365 / 53%
John McCain – 173 / 46%
Latest 2012 Obama Poll %
Projection
GOP = 224
Obama = 201
Tossup = 113
Source: Freedom’ s Lighthouse [Jan. 2012]
Căn cứ vào Bản đồ và Bản so sánh trên, cơ sở thăm dò ý kiến Freedom’ s Lighthouse dự đoán và cho thấy Cử Trí Đoàn [CTĐ] sẽ chọn lựa trong cuộc Bầu cử Tổng Thống năm 2012 như sau:
•Tại các Tiểu Bang [màu đỏ] Alabama, Alaska, Arizona, Arkansas, Florida, Georgia, Idaho, Indiana, Kansas, Kentucky, Louisiana, Mississippi, Missouri, Montana, Nebraska, New Hampshire, North Dakota, Oklahoma, South Carolina, South Dakota, Tennessee, Texas, Utah, West Virginia, Wyoming, CTĐ cam kết hay có khuyng hướng chọn Ứng Cử Viên Cộng Hoà [GOP] làm Tổng Thống.
•Tại các Tiểu Bang [màu xanh] California, Connecticut, Delaware, D.C., Hawaii, Illinois, Maine, Maryland, Massachusetts, Minnesota, New Jersey, New Mexico, New York, Oregon, Rhode Island, Vermont, Washington CTĐ cam kết hay có khuynh hướng chọn Obama [Dân Chủ] làm Tổng Thống năm 2012;
•Còn tại các Tiểu Bang [màu xanh lá cây] Colorado, Iowa, Nevada, North Carolina, Ohio, Pennsylvania, Virginia, Wisconsin CTĐ chưa cam kết chọn ai.
Ứng Cử Viên nào dồn được 270 phiếu của CTĐ sẽ được chọn làm Tổng Thống trong năm 2012.
Đến giờ phút này, Obama được 201 cử tri cam kết [riêng tại California: 55 và New York: 29], trong khi Ứng Cử Viên Cộng Hoà giành được 224 phiếu của CTĐ tại 25 Tiểu Bang đa số ít dân cư, phía Nam và Trung Mỹ.
Còn tại 8 Tiểu Bang “màu xanh lá cây” trình bày trên có tất cả 113 cử tri chưa chịu cam kết với bất cứ Ứng Cử Viên Đảng nào. Do đó, các Ứng Cử Viên TT sẽ cần vận động thêm tại các Tiểu Bang đó để kéo số cử tri lừng khừng về riêng mình.
Từ giờ tới ngày Bầu cử, định vào ngày thứ Ba mùng 6 tháng 11 năm 2012, sẽ còn nhiều thay đổi trong diễn tiến chọn lựa của Cử Tri Đoàn. Như chúng ta đã biết, trong mọi trường hợp, quyết định của Cử Tri Đoàn [Electoral vote] là tối hậu, dù ngược lại với ý định của dân qua số Phiếu Dân Bầu (PDB/Popular vote).
TS-LS LƯU NGUYỄN ĐẠT
http://www.vietthuc.org