Giới thiệu “Ngàn Năm Thăng Long Đại Cáo” của Nguyễn Tấn Vinh
Việt Thức hân hạnh giới thiệu cùng Quý Độc Giả bài thơ “Ngàn Năm Thăng Long Đại Cáo” của Nguyễn Tấn Vinh.
Phải, cũng như tác giả Nguyễn Tấn Vinh, chúng ta phẫn nộ vì đại lễ Ngàn năm Thăng Long khai giảng ngày 1 tháng 10 và bế mạc ngày 10 tháng 10, tức là hai ngày Quốc khánh Trung Hoa Cộng sản ( 1/10) và ngày Quốc khánh Trung Hoa Dân quốc (Đài loan). Phải chăng Hà nội bỏ ra 10 phần 100 của tổng thu nhập hằng năm (GdP) của tài sản đất nước là để biểu diễn một ngày lễ để « cám ơn » Thiên triều mưa móc che chở, giải hòa hai thằng anh lớn ? Phải chăng Hà nội khi lựa hai ngày trên để kỷ niệm là muốn hòa giải hai thằng anh và hòa hợp dân Việt vào dân Hán, vì gốc dân của Đài loan cũng cùng gốc Bách Việt ( nhưng đã bị Hán hóa bởi nhóm quân đội của Tưởng Thống chế) với người Nam Việt chúng ta ?
Lại càng đau buồn hơn nữa khi độc giả kiểm lại trang sử oai hùng của các tiền nhơn tổ tiên Việt tộc chúng ta mặc dù bị nô lệ cả ngàn năm vẫn không cúi đầu chịu hàng Hán tộc. Phải một ngàn năm mới thoát khỏi nạn Hán tộc, khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư chật hẹp ra Thăng Long rộng thoáng là để chứng minh tư nay nước Đại Việt đã trưởng thành, đã tự chủ, đã thật sự độc lập, không còn ở trong một Hoa Lư của thế thủ, khiêm nhường bước ra một Thăng Long mở rộng thông thoáng. Dời đô ra Thăng LongVua Thái tổ nhà Lý đã mở một kỷ nguyên mới cho các đời sau, mặc dù với bao thăng trầm, bao lần dời đô về Nam lánh nạn, Thăng Long mãi mãi vẫn là Thăng Long thủ đô Đại Việt.
Than ôi, một ngàn năm sau, một nhóm người không biết sỉ nhục đành đoạn dâng thành Thăng Long cho Thiên triều không một tiếng súng không một phút cầm cự, không một giây chống trả ! Thăng Long mà tướng Hoàng Diệu phải tử tiết vì đã để mất thành. Thăng Long đã nhìn thấy «Nhị Hà còn kia, Nhị Hà còn đó lũ quân chàng Tôn sập cầu trôi đầy sông» !*
Thôi từ nay «nghẹn ngào thương nhớ “em”… Hà Nội ơi !»**
Phan Văn Song
*Thăng Long Thành
** Giấc mơ hồi hương.
MỘT NGÀN NĂM THĂNG LONG ĐẠI CÁO
Tháng bảy năm Canh Tuất một ngàn lẻ mười,
Vua Lý Thái Tổ xuống Chiếu dời đô,
Đặt tên Thăng long cho chốn đế kinh
Đánh dấu thời Độc Lập – Tự Chủ của giống nòi.
Trải đến nay:
Mùa Thu Canh Dần niên, hai ngàn lẻ mười.
Thăng long qua ngàn năm lịch sử:
Lý, Trần, Lê, Nguyễn
Tổ tiên ta lo gìn giữ giang sơn
Triều Lý có tướng quân Thường Kiệt
Thuở tung hoành phá Tống, bình Chiêm,
Dõng dạc tuyên ngôn Nam quốc sơn hà…
Trần triều đôi phen ngửa nghiêng vận nước
Trần Hưng Đạo ra Hịch tướng sĩ cảnh tỉnh quân binh
Vua Trần mở Hội nghị Diên hồng lấy ý kiến toàn dân
Trên dưới một lòng hô lời quyết chiến
Trăm họ đồng tâm khắc câu Sát Đát
Sông Bạch đằng máu giặc nhuộm hồng,
Giặc Mông-Nguyên một phen khiếp vía.
Nhưng cường quyền phương Bắc bao đời
Vẫn hung hăng
Chẳng từ bỏ giấc mơ đại Hán!
Hai trăm năm sau, nhà Minh đem quân sang
Giả trò nhân nghĩa giúp Trần diệt Hồ
Thực chất là xâm lăng cướp nước
Thống trị bạo tàn, dân ta khốn khổ lầm than.
Anh hùng Lê Lợi dựng cờ nghĩa đất Lam sơn
Hiền tài Nguyễn Trải theo khuông phù người áo vải,
Mười năm nếm mật nằm gai, vào sanh ra tử
Chiến thắng quân Minh xâm lược, xây nền tự chủ.
Công bố quốc dân lời ”Bình Ngô đại cáo”:
”Đem đại nghĩa thắng hung tàn,
”Lấy chí nhân thay cường bạo.
Lê triều thịnh trị, đất nước an bình
Trăm họ an vui, qua thời nô lệ.
Kịp đến thời Lê mạt, Chiêu Thống mê lầm
Cầu cạnh Thanh triều, rước voi giày mả tổ.
May có người anh hùng Nguyễn Huệ,
Đánh một trận ngói tan, trúc chẻ
Mấy chục vạn quân Thanh tan tác sớm chiều.
Thăng long thêm một lần oanh liệt.
Qua Nguyễn triều giặc Pháp xâm lăng
Hà thành ghi dũng khí tướng quân
Hoàng Diệu chết rạng danh sử sách.
Bao năm giặc Pháp hoành hành
Sĩ phu, dân chúng đấu tranh không ngừng.
Giành độc lập sẳn sàng. máu đổ,
Bao anh hùng lớp lớp hy sinh
Khắp Nam, Trung, Bắc ba miền
Bao đảng ái quốc, bao nhiêu hiền tài.
Lại có kẻ bôn ba cầu thực
Theo học đòi chủ nghĩa nọ kia
Say mê tà thuyết, theo phường ngoại lai
Nguyện làm ưng khuyển, tàn hại giống nòi.
Giả vờ đoàn kết, cướp công Kháng chiến
Đảng phái quốc gia, người tài yêu nước
Lũ gian cộng sản giết hại không chừa:
Phạm Quỳnh, Lý Đông A,Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ …
Theo lịnh Nga, Tàu diễn trò khủng bố:
“Cải cách ruộng đất” đấu 5 phần trăm
Máu dân lành nhuộm đỏ nông thôn
Nỗi oan dậy đất,
Tiếng than ngập trời!
Trận Điện biên, Pháp thua đành rút
Hội Giơ-neo, đất nước chia đôi.
Cộng sản tiếp thu giang sơn miền Bắc
Dân chúng hải hùng bỏ chạy vào Nam
Chế độ Cộng hoà, đất lành chim đậu
Bên kia vĩ tuyến, màn sắt phủ trùm
Xã hội ngột ngạt, dân chúng lầm than
Nhà văn, nhà thơ khao khát tự do
Đi theo Kháng chiến bấy chừ thất vọng
Nhân văn, Giai phẩm bị đánh tả tơi
Kết tội gián điệp, tù đày oan khuất.
Ngụy quyền cộng sản củng cố miền Bắc
Dựng lên Mặt trận Giải phóng miền Nam
Gây chiến tranh huynh đệ tương tàn
Quyết tâm nhuộm đỏ phần đất Tự do
Vũ khí Nga, Tàu tha hồ bắn giết
Để ngăn Cộng sản, Mỹ đổ quân vào
Tiếp cứu miền Nam, oanh tạc Bắc Việt
Leo thang chiến tranh, khắp miền tang tóc.
Chuyện Tết Mậu Thân, Việt cộng vi phạm
Thoả hiệp ngưng bắn, ngày Tết thiêng liêng
Thừa dịp tấn công, gây cảnh chết chóc
Giết người dã man ở cố đô Huế.
Nhưng rồi đại bại, Việt cộng thua to
Già Hồ tức chết (1969)!
Hội nghị Ba-lê, hoà bình ký kết
Việt cộng bội ước, mở ngay chiến dịch
Tấn công qui mô, Mỹ không can thiệp
Miền Nam thế yếu, nên phải tiêu vong!
Cộng quân tràn vào tha hồ cướp bóc
Sĩ quan, viên chức bắt đi “cải tạo”,
Mười ngày, một tháng thành cả chục năm.
Nước độc rừng thiêng, ăn đói mặc rét,
Lao động khổ sai, đoạ đày cho chết…
Thắng chẳng anh hùng, trả thù hèn hạ!
Chẳng t.nh đồng bào, như loài lang sói.
Bày tr. Đổi tiền, Cải tạo thương nghiệp,
Lại Đánh tư sản, rồi Kinh tế mới.
Miền Nam sáng mắt: Nước mất, nhà tan!
Lây lất bao năm, cả nước khốn khổ
Đến lúc Liên xô và khối Đông Âu
Với tường Bá-linh cùng nhau sụp đổ.
Khối cộng ra ma, Việt cộng chới với
Phải đành Đổi mới, may ra sống còn!
Đầu hàng tư bản, kinh tế thị trường
Để đỡ muối mặt, thêm đuôi định hướng
xã hội chủ nghĩa! Chẳng giống thứ chi!
Từ khi“giải phóng”, thống nhứt nước nhà,
Ba lăm (35) năm dài, dân ăn bánh vẽ.
Độc lập tự do, ấm no chưa có
Nhà nước độc tài, tham lam tàn bạo.
Bao che tham nhũng, cướp đất cướp nhà
Dân oan khiếu kiện bị vu chống phá
“Lật đổ nhà nước”, ai đòi dân chủ,
Ai nói sự thật, ai đòi công lý.
Bị bắt cầm tù, bịt miệng bịt mồm
(Hình ảnh rành rành như là cha Lý).
Bách hại tôn giáo: Hoà hảo, Cao đài,
Phật giáo thống nhứt, Thiên chúa, Tin lành
Bày trò ma mảnh: Giáo hội quốc doanh.
Nhà nước chỉ đạo, tu sĩ công an!
Vụ mới ràng ràng, đàn áp giáo dân
Ở xứ Cồn dầu, ra tay tàn bạo
Công an hung thần, tay sai chế độ.
Người xưa tố cáo giặc Tàu hung bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
“Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Nay bè lũ Ba đình, đỉnh cao man trá
Bạo tàn hơn lũ giặc ngoại xâm lăng
Đảng cộng ươn hèn, đàn áp dân đen
Khúm núm“Thiên triều”, dâng đất, dâng biển
Hoàng sa, Trường sa hải đảo của ta
Để Tàu chiếm đoạt, ai người yêu nước
Lên tiếng bất bình thì chẳng được yên.
Bô-xít Tây nguyên bao người phản đối
Những gói thầu lớn về tay xì thẩu!
Dân Tàu thong thả ra vào nước ta
Không cần visa, nghênh ngang phách lối.
Mặc ” xâm lăng mềm”, Đảng cứ làm lơ
Để yên vơ vét, tiền đô bạc tỉ
Cất bên Thụy sĩ, phòng khi biến động
Thì sẽ thăng liền. Vụ Vinashin
Mất hàng nghìn tỷ, dân đen è cổ
Gánh nợ còng lưng bao giờ mới dứt…
Đảng cao ” trí tuệ”:
Chẳng nghe người hiền, Chẳng điều nhân nghĩa,
Ác hơn giặc Tàu. Độc hơn giặc Pháp.
Nhân dữ đã gieo. Chóng, chày sẽ gặt!
Vua Lý, vua Trần xả thân vì nước
Bảo vệ giang san, quí từng tấc đất
Nay bọn vô sỉ, bày trò dối trá:
Ngàn năm Thăng Long ăn mừng Đại lễ
Phung phí lớn lao (4,5 tỉ đô) trong lúc nhân dân
vẫn còn đói khổ!
Chọn ngày Hội lớn là Một Tháng Mười
Dân thường ai biết: Quốc khánh Thiên triều
Ăn mừng lấy điểm, trọn đạo chư hầu
Để cầu bảo bọc!
Đất nước lâm nguy kề bên vực thẳm
Bắc thuộc phen nầy sẽ mấy ngàn năm?
……
Nay kẻ thất phu
Trong cơn quốc nạn
Chẳng ngại tài hèn,
Chẳng nề trí mọn.
Noi gương người trước
Mạo muội viết lời Kính cáo,
Lược qua tội ác Đảng gian
Gởi đến tất cả đồng bào
Trong ngoài nước Việt.
Hỡi người yêu nước,
Hào kiệt, anh hùng
Ra tay xoay chuyển thế thời,
Dốc lòng giữ bền quốc thổ.
Cẩn Kính,
Nguyễn Tấn Vinh
09.09.2010