Tiếng nước tôi,
bốn ngàn năm ròng rã buồn vui.
(“Tình ca”, Phạm Duy)
Một người bạn, qua Mỹ năm 1975, kể với tôi rằng, thành phố gia đình anh định cư trong năm đầu có rất ít người Á châu. Mỗi lần thoáng trông thấy một cái “đầu đen” nào là anh ta chạy ngay đến để xem thử có phải là người Việt không. Một hôm, trên đường phố, bất chợt anh ta nghe một tiếng nói quen thuộc cất lên. Tiếng Việt Nam. “Một cái đầu đen,” anh ta la lên, chạy bay đến trước mặt người đàn ông vừa thốt ra thứ tiếng ấy, nắm chặt hai vai, lắc lắc: “Việt Nam à? Tôi cũng Việt Nam đây!” (Anh ta không nói “Tôi cũng là người Việt Nam đây!”). Người đàn ông cũng tỏ ra vui sướng không kém. Hai người quấn lấy nhau, tíu ta tíu tít như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại và cùng tuôn ra một tràng tiếng Việt, mặc cho những người bản xứ đi qua đi lại nhìn chằm chằm hai người, ngạc nhiên vì một thứ ngôn ngữ “lạ tai”. Nỗi khát khao bị dồn nén lâu ngày vỡ ra, ùa ra. Anh bạn tôi không cần biết người đàn ông nói tiếng Việt kia là ai, ở đâu ra, vì sao lại có mặt nơi đây. Không cần biết, chỉ cần… nói tiếng Việt. Thế là đủ.
Anh bạn tôi thèm được nghe, thèm được nói thứ ngôn ngữ ấy, cái mà anh ta thiếu thốn, khao khát đã lâu. Anh ta đi tìm chút “quê hương trong tiếng nói”. Cái cảm xúc ấy chỉ đến với anh ta một, hai lần sau đó, và không bao giờ trở lại nữa. Nơi anh ta sống bây giờ có khá đông người Việt, có khá nhiều “đầu đen”. “Người Việt ‘phức tạp’ quá!” anh ta nói, nhún vai.
Đấy là chuyện của anh bạn tôi. Chuyện của tôi thì có hơi khác một chút. Năm đầu đến Mỹ, tôi có cái vui gặp lại những người bạn cũ. Một ông bạn, sau ít câu thăm hỏi chuyện gia đình, hỏi tôi:
“Con trai ông tên gì?”
“Hữu Nghị.”
“Bộ hết tên rồi hay sao mà đặt cái tên gì ghê vậy?”
“Ông nói ‘ghê’ là ghê làm sao?” tôi hỏi.
“Thì ‘từ Việt cộng’ chứ còn ‘làm sao’ nữa,” người bạn phang một câu xanh rờn.
Từ Việt cộng! Không phải là lần đầu tôi nghe cái “từ” 1 này, bèn có một sự phản kháng:
“‘Việt cộng’ nào? Thứ nhất, ông muốn tôi đặt tên gì khác bây giờ? Cả nhà tôi, mấy anh em trai tôi đều là Lê Hữu… gì gì đó, Phước, Lộc, Tài, Đức…, đến đời thằng con tôi thì cũng phải cho nó cái ‘Hữu…’ gì chứ! Thứ hai, tôi đã plan cái tên ấy từ trước năm 75, vì muốn thằng con đi về… ngành ngoại giao. Việt cộng đâu có phải là người ‘phát minh’ ra cái chữ ấy, và cũng đâu có được phép ‘độc quyền’ cái chữ ấy. Tiếng Việt là tài sản chung của người Việt mà.”
Người bạn nín thinh, cũng không tỏ dấu hiệu nào là có “nhất trí”1hay không.
“Hữu Nghị”, cái tên ấy, hai chữ ấy (và những chữ khác nữa) tự nó không có lỗi gì cả. Vậy mà tội nghiệp, nó đã bị ghét bỏ một cách oan uổng, chỉ vì… “ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”. Tâm lý này khá phổ biến và có thể hiểu được. Ghét người nào là ghét cả cái nhà cái xe, cái chăn cái chiếu, con chó con mèo… của người ấy. Nhiều người cảm thấy “ghét” chữ này chỉ vì thường đọc/nghe trên “báo, đài” 1 nào là “Tình hữu nghị thắm thiết giữa hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông”, nào là “Chúc cho tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước đời đời bền vững, mãi mãi xanh tươi, rất mực thủy chung, vô cùng trong sáng”… vân vân và vân vân. Nghe mà dễ… ghét.
A. Tiếng Việt ở trong nước
Ông bạn tôi (và khá nhiều người như thế) chỉ suy nghĩ đơn giản, hoặc chỉ lặp lại những gì ông nghe người khác nói, thành thử nhiều khi nói mà… không biết mình nói cái gì.
Sau này, mỗi khi bị “truy chụp” 1là dùng “từ Việt cộng”, tôi tìm được cách giải thích khác, gọn hơn: “Ông thử lật tự điển tiếng Việt trước năm 75 của miền Nam ra xem, nếu có chữ này thì ông không thể gọi là ‘từ Việt cộng’ được.”
Tuy nhiên, lời giải thích ấy không phải lúc nào cũng “có sức thuyết phục”1, lắm người không cần biết chữ ấy có hay không có trong tự điển “phe ta”, hễ tiếng nào “đối phương” sính dùng (nhất là dùng không đúng, nghe chướng tai, hoặc có vẻ “đao to búa lớn”) thảy đều là… “từ Việt cộng”. Những đối tượng ấy kể cũng hơi… khó nói chuyện (ngày trước gọi là “không có tinh thần đối thoại”).
Tội nghiệp cho những con chữ ấy, nằm yên ổn trong những trang sách tự điển từ bao nhiêu năm, nay bỗng nhiên bị nắm đầu lôi cổ ra tố khổ một cách oan uổng như là những kẻ… nằm vùng. Vai trò của chữ nghĩa xưa nay vốn độc lập, không nghiêng bên này ngả bên kia, vậy mà nay lại bị gọi ra “làm việc” 1, tra vặn: “Anh/chị theo bên nào?”
Những từ ngữ Hán-Việt như “hữu nghị”, “khẩn trương”, “tranh thủ”, “động viên”, “tham gia”, “hoành tráng”… không mới mẻ, lạ lùng gì với người dân miền Nam trước năm 1975. Nếu có khác là khác về cách diễn nghĩa, cách sử dụng, và không dùng tràn lan như ở trong nước bây giờ.
Ở miền Nam ngày trước ta vẫn nghe: “Thủ tướng chính phủ vừa ký quyết định ban hành tình trạng khẩn trương trên toàn lãnh thổ”, hoặc “Tranh thủ nhân tâm (hay ‘tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới’ / ‘tranh thủ một nền hòa bình công chính’) là một trong những mục tiêu hàng đầu của công tác đấu tranh chính trị”, hoặc “Phái đoàn đến thăm viếng ủy lạo và động viên tinh thần binh sĩ”. Hoặc những câu hát:
Nhân dân cách mạng Việt Nam vùng đứng lên cùng thế giới
Vai chen vai bên nhau mưu cuộc giải phóng giống nòi
(“Nhân dân cách mạng Việt Nam”, nhạc sĩ Hùng Lân)
Người người một lòng nhất trí đem thần oai vẫy vùng
Nguyện cùng bạo tàn quyết đấu một trời không chung sống
(“Chiến đấu ca”, Hoàng Trọng)
trong những bài hát của các nhạc sĩ ở trong Nam cho thấy những từ ngữ “nhân dân”, “giải phóng”, “nhất trí”… không phải là “độc quyền” của người miền Bắc.
“Có một phút giây ngắn ngủi nào đó, chúng ta chợt phát hiện vừa nghe được những lời tình thật nồng nàn bằng cung bậc của những bản tình ca bất diệt…” Những lời ấy của ca sĩ Lệ Thu, phát ra từ một băng nhạc cũ trước năm 1975 (giới thiệu bài hát “Giấc mơ hồi hương” của nhạc sĩ Vũ Thành), cho thấy từ ngữ “phát hiện” không phải được người miền Bắc… “phát hiện”.
Dẫn ra các ví dụ trên để thấy rằng, tiếng Việt là của người Việt, không có Bắc Trung Nam chi cả, và chỉ vì duyên cớ nào đó mà đem lòng oán ghét những “từ” này “từ” nọ thì kể cũng bất công và tội tình cho chữ nghĩa. Hãy trả ngôn ngữ về vị trí độc lập như nó đã từng.
Trong phạm vi bài này, để cho dễ gọi (và để không phải lặp lại nhiều lần “trước/sau năm 1975”), xin được tạm dùng những “cụm từ” 1 sau:
- Miền Nam ngày trước: miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
- Tiếng Việt cũ: cách nói hoặc từ ngữ được sử dụng ở miền Nam ngày trước.
- Tiếng Việt mới (chỉ để phân biệt với “tiếng Việt cũ”, không hẳn là “mới”): cách nói hoặc từ ngữ được sử dụng trong cả nước hiện nay.
Những cách gọi này có tính cách tương đối, giai đoạn (do những biến động của lịch sử), và chỉ sử dụng trong phạm vi bài này.
Trong bài này sẽ không có những từ ngữ như “từ VC”, “từ ngữ VNCH”… hoặc những phê phán kiểu “xưởng đẻ”, “chiến sĩ gái”, “Công ty chất đốt thanh niên”, “Cửa hàng thịt tươi sống phụ nữ”… ngụ ý cười nhạo sự quê mùa của người sử dụng ngôn ngữ. Quê mùa không phải là cái tội, chỉ là sự thua thiệt do không có may mắn được đến trường đến lớp để “tiếp thu”1 những kiểu cách văn minh lịch sự. Theo đà tiến hóa, chắc chắn là những cách nói ấy sẽ không tồn tại. Ông cha ta ngày xưa ít được học hành đến nơi đến chốn, hầu hết đều đi từ “chân quê” đến văn minh thành thị. Có người Việt nào lần đầu tiên lò dò đặt chân đến nước Mỹ mà ít nhiều không… ngáo ngáo, chỉ khác là không bị người bản xứ cười nhạo.
Ngôn ngữ là tài sản chung của dân tộc, chắc không ai phủ nhận điều này. Ngôn ngữ là sản phẩm của con người, chứ không… làm nên con người. Tiếng Việt cũng không ra khỏi lẽ ấy. Tiếng Việt dùng chung cho cả nước. “Người phát minh” ra tiếng Việt không hề có ý định cấp giấy phép cho “bên” nào đặc quyền sử dụng; vì vậy, thiết tưởng ta cũng không nên làm cho tiếng Việt–ngôn ngữ của nước ta–trở nên “phức tạp”.1
Nếu ta có thể “nhất trí” được với nhau, tiếng Việt là những “tiếng” được ghi lại trong các bộ tự điển tiếng Việt của cả miền Bắc lẫn miền Nam ngày trước (tất nhiên những bộ tự điển này luôn cần được bổ sung) thì không có chữ nào, tiếng nào là độc quyền của “bên” nào cả. Bên nào xài cũng được, miễn là chịu khó xài cho đúng. Ngôn ngữ của một dân tộc không hề có biên giới hoặc “chiến tuyến”. Những “từ” nào phổ biến rộng rãi trong sinh hoạt thường ngày của người Việt đều được đưa vào tự điển tiếng Việt. Người biên soạn tự điển không làm công việc tìm hiểu các “từ” cũ, “từ” mới ấy thuộc về “bên” nào, hoặc có hay không có “ý đồ”1 gì.
1. Chữ và nghĩa
Ngôn ngữ tự nó không có lỗi gì cả. Hoặc nếu có, chỉ là lỗi nơi người sử dụng chúng. Thế nhưng, như thế nào gọi là “lỗi”? Có thể kể ra ít ví dụ về những cách nói và cách dùng từ ngữ khá phổ biến cần được điều chỉnh cho đúng nghĩa, hợp lý.
– Bài viết: Thay vì nói “Dưới đây là bài viết của tác giả Nguyễn Văn A”, nói “Dưới đây là bài góp ý/tường thuật/nhận định/bình luận… của ông/bà/nhà văn/nhà báo/nhà phê bình Nguyễn Văn A”. Hoặc “Dưới đây là bài góp ý/tường thuật/nhận định/bình luận… của Nguyễn Văn A”.
“Bài viết” không phải là một thể loại văn. Cần nêu rõ tên thể loại của bài văn ấy.
“Tác giả” không phải là danh xưng, danh hiệu, và là thừa ở trong câu.
– Biểu diễn: Thay vì nói “Ca sĩ LT đã biểu diễn những ca khúc gắn liền với tên tuổi chị”, nói “Ca sĩ LT đã trình diễn những ca khúc gắn liền với tên tuổi chị”.
Ca sĩ không biểu diễn một bài hát, nhất là khi đứng yên một chỗ, không múa may nhảy nhót. Nói biểu diễn một nhạc cụ / điệu múa / màn ảo thuật, không nói biểu diễn một bài hát / bài thơ.
– Cá nhân tôi: Thay vì nói “Cá nhân tôi có ý kiến như thế này”, nói “Riêng tôi/(Về) Phần tôi/Bản thân tôi có ý kiến như thế này”. Thay vì nói “Đối với cá nhân tôi, chuyện ấy là bình thường”, nói “(Đối) Với tôi, chuyện ấy là bình thường”. Thay vì nói “Cá nhân anh nghĩ sao về sự kiện ấy?”, nói “Anh nghĩ sao về sự kiện ấy?”
“Cá nhân” là một người riêng lẻ, phân biệt với “tập thể”. Ghép hai chữ này với tôi/chúng tôi/anh/chị/em…” (như: “cá nhân tôi/chúng tôi/anh/chị/em…”) là lủng củng và không có nghĩa.
– Cặp đôi: Thay vì nói “Người ta vẫn thấy cặp đôi này tay trong tay rất tình tứ”, nói “Người ta vẫn thấy cặp này tay trong tay rất tình tứ”.
“Cặp” và “đôi” đều cùng một nghĩa, nói “cặp” thì không nói “đôi”, và ngược lại. Ví dụ: “cặp vợ chồng”, “cặp tình nhân”, “cặp uyên ương” hoặc “đôi vợ chồng”, “đôi tình nhân”, “đôi uyên ương” (không nói “cặp đôi vợ chồng”, “cặp đôi tình nhân”, “cặp đôi uyên ương”).
– Chúc sức khỏe: Thay vì nói “Chúc sức khỏe!” hoặc “Chúc sức khỏe anh chị!”, nói “Chúc anh/chị sức khỏe tốt!” hoặc “Chúc anh/chị nhiều sức khỏe!”
Nói “Chúc sức khỏe!” là không đủ ý (và chưa thành câu chúc), cần nói “Chúc sức khỏe…” như thế nào, chẳng hạn “Chúc sức khỏe tốt/dồi dào!” Hoặc “Chúc anh/chị khỏe!” Hoặc “Chúc khỏe!”, “Chúc khỏe nhé!” (như nói “Chúc vui!”, “Chúc vui nhé!”).
– Chuyên môn: Thay vì nói “Cô Nga là giáo viên phụ trách chuyên môn”, nói “Cô Nga là giáo viên phụ trách việc biên soạn tài liệu giáo khoa / phụ trách việc hướng dẫn sư phạm / phụ trách về sổ sách kế toán / phụ trách về sinh hoạt học đường”…).
Nói “phụ trách chuyên môn” là không đủ ý, người nghe không rõ là “chuyên môn” về… cái gì, vì có khá nhiều thứ “chuyên môn”.
– Quá trình: Thay vì nói “Xin nói sơ qua về quá trình thực hiện một bộ phim”, nói “Xin nói sơ qua về tiến trình thực hiện một bộ phim”.
Nói “quá trình” là nói về trình tự của một diễn tiến đã kết thúc. Ví dụ: “Đơn xin việc cần ghi rõ quá trình học vấn”, hoặc “Sau mười năm, nhìn lại quá trình hoạt động của hội”.
– Tản mạn: Thay vì nói “Tản mạn về tiếng Việt”, nói “Chuyện trò tản mạn về tiếng Việt”, hoặc “Câu chuyện tản mạn về tiếng Việt”, hoặc “Mạn đàm về tiếng Việt”.
Nói “tản mạn về…” là không đúng nghĩa. Tản mạn có nghĩa tương tự “lan man”, “rải rác”, “rời rạc” (tính từ), chứ không có nghĩa “mạn đàm”, “phiếm luận”, “chuyện trò” (động từ).
– Trao đổi: Thay vì nói “Sau khi trao đổi, chúng tôi nhận ra những điểm tương đồng”, nói “Sau khi trao đổi ý kiến, chúng tôi nhận ra những điểm tương đồng”.
“Trao đổi” không có nghĩa “hội ý”, “bàn bạc”. Nói “trao đổi” là không đủ ý, mà cần nói rõ “trao đổi… cái gì”, ví dụ: “trao đổi ý kiến/kinh nghiệm/quan niệm/hàng hóa/tù binh…”
(“Chia sẻ”, một “từ” khác tương tự, được dùng khá phổ biến ở cả trong và ngoài nước. Thay vì nói “Tôi xin có vài chia sẻ”, hoặc “Em có gì muốn chia sẻ với quý khán thính giả?”, hoặc “Cám ơn những chia sẻ của các anh chị”…., nói “Tôi xin góp ý”, hoặc “Em có gì muốn nói với…?”, hoặc “Cám ơn những ý kiến của các anh chị”… “Chia sẻ” không mang ý nghĩa của “nói”, “kể”, hoặc “có ý kiến”. Cũng như “trao đổi”, cần nói rõ “chia sẻ… cái gì”, ví dụ: “chia sẻ sự mất mát / nỗi khó khăn / mối quan tâm / kinh nghiệm trong cuộc sống / quan niệm về tình yêu…”).
– Trình độ văn hóa: Thay vì nói “Trình độ văn hóa: lớp 12”, nói “Trình độ học vấn: lớp 12”.
Muốn hỏi về quá trình học vấn hoặc bằng cấp của một người, câu hỏi là: “Trình độ học vấn?”.
Những từ ngữ và những cách nói trên khá thông dụng ở trong nước và cả ở ngoài nước. Ngoài ra, có ít từ ngữ “mới” mà ý nghĩa và cách dùng chưa “thống nhất”,1 rõ ràng. “Dân oan”, chẳng hạn. Không rõ là cái “từ” này ở đâu ra, trong hay ngoài nước? Các “báo, đài” ở ngoài nước có vẻ sính dùng “từ” này. Một dòng chữ đọc được bên dưới tấm ảnh, “Dân oan tập trung khiếu kiện trước nhà thờ Đức Bà”. Trong ảnh là đám đông tụ tập thành những nhóm dăm ba người, kẻ đứng người ngồi, chuyện trò bàn bạc chi đó. “Dân oan” có khi được dùng thay cho “người dân”, có khi thay cho… “một người dân”, chẳng hạn “Lá thư kêu cứu của một dân oan”, hay “Một dân oan tỉnh Tiền Giang cho biết…” Ngày trước ta có những “dân chúng”, “dân lành”, “dân quê”, “dân nghèo”, “dân đen”…, nay lại có thêm tầng lớp mới là “dân oan” (mai đây không chừng lại có thêm những “dân oán”, “dân ức”, “dân khổ”, “dân đói”…). Đến ngày nào “tuyệt đại bộ phận” 1 nhân dân được gọi là “dân oan” cả thì nhà cầm quyền cũng “mệt” chứ không phải chơi.
2. Tiếng Hán-Việt và tiếng “nửa Hán-Việt”
Không phải từ ngữ Hán-Việt nào cũng cần và cũng có thể thay được bằng từ ngữ “thuần Việt”. Khá nhiều tiếng Hán-Việt khó mà tìm được tiếng thuần Việt nào tốt hơn hoặc tương đương để thay thế.
Một ít từ ngữ Hán-Việt sử dụng trong nước hiện nay có thể thay được bằng thuần Việt và… hay không kém, chẳng hạn: “đại đa số” hoặc “đại bộ phận” có thể thay bằng “phần lớn”, “phần đông”; “tuyệt đại đa số” hoặc “tuyệt đại bộ phận” có thể thay bằng “hầu hết”; “giáo trình”, “giáo án” có thể thay bằng “bài giảng”; “tham quan” có thể thay bằng “thăm”, “thăm viếng”; “thường niên” có thể thay bằng “hàng năm”; khẩn trương” có thể thay bằng “mau mắn”, “lẹ làng” hoặc “căng thẳng” (tùy nghĩa trong câu)…
Trong khi đó, một số từ ngữ Hán-Việt được trong nước đổi sang thuần Việt khá tốt như: “cả nước” thay cho “toàn quốc”; “nhà nước” thay cho “quốc gia”; “trong nước” thay cho “quốc nội”; “ngoài nước” thay cho “hải ngoại”; “nước ngoài” thay cho “ngoại quốc”; “vùng trời” thay cho “không phận”; “vùng biển” thay cho “hải phận”; “chữ cái” thay cho “mẫu tự”; “quý” thay cho “tam cá nguyệt”; “sân bay” thay cho “phi trường”, “tàu sân bay” thay cho “hàng không mẫu hạm”; “tàu chiến” thay cho “chiến hạm”, “tàu ngầm” thay cho “tiềm thủy đỉnh”; “Hội Chữ Thập Đỏ” thay cho “Hội Hồng Thập Tự”…
Các ví dụ trên cũng cho thấy một điều hơi lạ, người sử dụng “tiếng Việt mới” ở trong nước một mặt có xu hướng thuần-Việt-hóa các từ ngữ Hán-Việt, một mặt lại sính dùng các từ ngữ này. Có vẻ như đối với những gì “trân quý” 1 hoặc muốn “phô trương thanh thế” thì họ chuộng sử dụng tiếng Hán-Việt chứ không muốn đổi sang tiếng thuần Việt. Ví dụ: bên cạnh những hoành tráng, tư duy, trí tuệ… là những siêu đẳng, siêu tốc, siêu xa lộ, siêu ấn tượng, siêu khuyến mãi, siêu tiết kiệm, thậm chí… siêu giảm giá, siêu rẻ, siêu sao, siêu mẫu, siêu quậy, siêu mỏng, siêu nhỏ, siêu khủng (không rõ là “khủng” gì, khủng khiếp, khủng long hay… khủng bố) và cả những siêu hot, siêu sexy nữa. Về tên riêng, các tên gọi như Thiên An Môn, Hữu Nghị Quan, Tử Cấm Thành, Vạn Lý Trường Thành… vẫn được giữ nguyên trạng (tỏ sự “trân quý”), trong lúc Tòa Bạch Ốc (hay Bạch Cung), Ngũ Giác Đài… thì lại được/bị đổi thành Nhà Trắng, Lầu Năm Góc.
Tiếng Hán-Việt, dù muốn dù không, trở thành một “bộ phận không thể tách rời” 1trong ngôn ngữ của người Việt. Nhiều từ ngữ Hán-Việt được sử dụng thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày tạo cảm giác gần gũi, thiết thân không kém gì tiếng thuần Việt. Hơn nữa, sử dụng tiếng Hán-Việt dẫu sao vẫn hơn là vay mượn những tiếng nước ngoài, vì dễ nghe hơn, dễ hiểu hơn, và ít ra cũng còn được… một nửa Việt.
Bên cạnh các từ ngữ Hán-Việt, một số từ ngữ “nửa Hán-Việt” (tiếng Hán-Việt và tiếng thuần Việt sánh đôi nhau) cũng được sử dụng nhiều trong nước, như “siêu xe”, “người phát ngôn”, “nhà văn hóa”, “viện chăn nuôi”, “in ấn” (thay vì “ấn loát”), vụ việc (thay vì “sự vụ”), di dời (thay vì “di động”), tu sửa (thay vì “tu bổ”), tranh cãi (thay vì “tranh luận”, “tranh biện”), truy tìm (thay vì “truy tầm”), truy đuổi (thay vì “truy nã”), truy quét, truy lùng (thay vì “truy kích”), truy hỏi, truy vặn (thay vì “truy vấn”)…
Một “đặc trưng” 1khác của người Việt trong nước là sính “nói chữ”, thích dùng những “cụm từ” văn vẻ, quanh co hoặc bóng gió (thường là để tránh “đi thẳng vào vấn đề” hoặc để làm giảm nhẹ cái xấu), như: có nhiều khả năng (rất có thể); tạo điều kiện (tìm cách, thu xếp); kém văn hóa (thất học, ít học); bệnh thành tích (làm láo, báo cáo hay); quyết định thôi giữ chức (cách chức); tình hình diễn biến phức tạp (tình hình xấu đi); giao lưu tình cảm (làm quen, kết bạn tâm tình); quan hệ tình cảm bất chính (tằng tịu, ngoại tình); quà biếu trên mức tình cảm (hối lộ); ùn tắc giao thông (kẹt xe); phương tiện tham gia giao thông đường bộ (xe cộ); trẻ em chưa ngoan (trẻ em hư hỏng); học sinh ngồi nhầm lớp (học sinh kém trình độ); điều kiện kinh tế gia đình rất hạn chế (gia đình nghèo khó)…
Đôi lúc ta cũng gặp những cách nói hơi “lạ tai”, như: “nhả chữ”, “tròn vành”, “giọng hát đẹp”, “xử lý một ca khúc trữ tình”, “sở hữu một thân hình quyến rũ”…
Có lần, bước vào một nhà thờ trong giờ thánh lễ của người Việt, đọc thấy hàng chữ “Xin vui lòng tắt điện thoại di động hoặc chuyển sang chế độ rung”, tôi khựng lại và phải sau ít giây “đào sâu”1 suy nghĩ mới hiểu ra câu ấy nói gì. Sau những chế độ bảo hiểm, chế độ hưu trí, chế độ bao cấp, chế độ ẩm thực…, nay có thêm “chế độ rung”.
3. Tiếng Việt “cũ” và tiếng Việt “mới”
Một số từ ngữ trong “tiếng Việt mới” từng được dùng ở miền Nam ngày trước, đôi lúc khác nghĩa và cách sử dụng. Bên dưới là một ít từ ngữ của “tiếng Việt mới” khá phổ biến ở trong nước. Những từ ngữ ghi trong ngoặc đơn tiếp theo sau là từ ngữ tương đương trong “tiếng Việt cũ” (không hẳn là đồng nghĩa mà gần với cái nghĩa phổ biến nhất của “từ” ấy). Ví dụ: “tiếng Việt mới” nói “Thời hạn đăng ký tham gia trại hè”; “tiếng Việt cũ” nói “Thời hạn ghi danh tham dự trại hè”. “Tiếng Việt mới” nói “Học sinh tập trung ở sân trường”; “tiếng Việt cũ” nói “Học sinh tập họp ở sân trường”… Các từ ngữ xếp theo thứ tự vần ABC.
Bản chất (thay cho “bản tính”), bảo quản (thay cho “bảo trì”), biểu diễn (thay cho “trình diễn”), bình quân (thay cho “trung bình”), bộ phận (thay cho “thành phần”), bức xúc (thay cho “bứt rứt”, “nhức nhối”).
Ca từ (thay cho “lời ca”), chất lượng (thay cho “phẩm chất”), chiêu đãi (thay cho “thết đãi”), chiếu cố (thay cho “hạ cố”, “xem xét”), chủ trì (thay cho “chủ tọa”), chủ yếu (thay cho “chính yếu”, “cốt yếu”), chuẩn xác (thay cho “chính xác”), chuyên nghiệp (thay cho “nhà nghề”, “thực thụ”), cơ bản (thay cho “căn bản”), công đoàn (thay cho “nghiệp đoàn”), công nghiệp (thay cho “kỹ nghệ”), công nhân viên (thay cho “công chức”), cực đoan (thay cho “quá khích”), cường điệu (thay cho “phóng đại”).
Dị ứng (thay cho “phản ứng”, “khó chịu”), diễn viên điện ảnh (thay cho “tài tử màn bạc”), diễu hành (thay cho “diễn hành”).
Đại trà (thay cho “quy mô”), đặc trưng (thay cho “đặc thù”), đăng ký (thay cho “ghi tên”, “ghi danh”), đạt yêu cầu (thay cho “đáp ứng yêu cầu”), đề xuất (thay cho “đề nghị”), điểm nhấn (thay cho “trọng điểm”), định kiến (thay cho “thành kiến”), đội ngũ (thay cho “hàng ngũ”), động cơ (thay cho “động lực”), đột xuất (thay cho “bất ngờ”, “ngoài dự kiến/dự liệu”), đứng lớp (thay cho “dạy lớp”, “phụ trách lớp”).
Giao tiếp (thay cho “giao tế”, “xã giao”), giáo án (thay cho “giáo trình”, “bài giảng”).
Hải quan (thay cho “quan thuế”), hành xử (thay cho “xử sự”), hiện đại (thay cho “tối tân”), hồ hởi (thay cho “nô nức”, “náo nức”), hộ chiếu (thay cho “sổ thông hành”), hộ khẩu (thay cho “sổ/tờ khai gia đình”), hoàn chỉnh (thay cho “hoàn thiện”), hoành tráng (thay cho “đồ sộ”, “vĩ đại”), hội nhập (thay cho “hòa nhập”), hội luận (thay cho “hội thảo”, “thảo luận”), hư cấu (thay cho “tưởng tượng”), huyện (thay cho “quận”).
Kênh (thay cho “băng tần”), khẳng định (thay cho “xác định”), khâu (thay cho “bước”, “phần hành”), kiểm tra (thay cho “kiểm soát”).
Lễ hội (thay cho “lễ lạc”, “hội hè”), liên hệ (thay cho “liên lạc”, “tiếp xúc”), linh hoạt (thay cho “linh động”).
Năng nổ (thay cho “năng động”, “tháo vát”), nghiêm túc (thay cho “nghiêm chỉnh”, “đứng đắn”), nghiệp dư (thay cho “tài tử”), nhắc nhớ (thay cho “nhắc nhở”), nhất trí (thay cho “đồng ý”, “đồng tình”, “tán đồng”).
Phản bác (thay cho “bác bỏ”), phản cảm (thay cho “phản tác dụng”), phản hồi (thay cho “hồi đáp”), phát hiện (thay cho “phát giác”), phức tạp (thay cho “rắc rối”, “rối rắm”), phương án (thay cho “kế hoạch”).
Quá trình (thay cho “tiến trình”), quân hàm (thay cho “cấp bậc”), quảng trường (thay cho “công trường”), quy hoạch (thay cho “hoạch định”).
Sâu sắc (thay cho “sâu xa”), sơ tán (thay cho “di tản”, “tản cư”), sự cố (thay cho “trở ngại”, “trục trặc”).
Tâm đắc (thay cho “đắc ý”, “ưng ý”), tản mạn (thay cho “mạn đàm”), tập trung (thay cho “tập họp”), tham quan (thay cho “thăm”, “thăm viếng”, “vãn cảnh”, “ngoạn cảnh”), thành danh (thay cho “tên tuổi”), thân thương (thay cho “thân yêu”, “thương mến”), thông tin thương mại (thay cho “quảng cáo”), thống nhất (thay cho “đồng nhất”), thu nhập (thay cho “lợi tức”), thuật ngữ (thay cho “danh từ kỹ thuật”), tiếp thu (thay cho “tiếp nhận”), tiết học (thay cho “giờ học”), tính từ (thay cho “tĩnh từ”), tình huống (thay cho “tình thế”, “tình cảnh”), toàn bộ (thay cho “toàn thể”, “tất cả”), tranh cãi (thay cho “tranh luận”, “bàn cãi”), tranh thủ (thay cho “tận dụng thời giờ/cơ hội”), trân quý (thay cho “quý trọng”), tư liệu (thay cho “tài liệu”), tư vấn (thay cho “cố vấn”), từ (thay cho “chữ”, “từ ngữ”, “ngôn từ”), từ vựng (thay cho “ngữ vựng”).
Vận động viên (thay cho “lực sĩ”), xuất khẩu (thay cho “xuất cảng”), xử lý (thay cho “xét xử”, “giải quyết”).
Những chữ in đậm ở bên trên là các từ ngữ được người Việt ở ngoài nước sử dụng nhiều trong sinh hoạt thường ngày, kể cả trong giới truyền thông, sách báo và các trường dạy tiếng Việt, khiến dần dà người ta không còn phân biệt được đâu là “tiếng Việt cũ”, đâu là “tiếng Việt mới” nữa.
Từ đó, xảy ra chuyện khôi hài, một bài báo ở nước ngoài công kích việc sử dụng các từ ngữ của “tiếng Việt mới”, thế nhưng trong bài báo tác giả lại sử dụng… khá nhiều từ ngữ ấy, chẳng hạn: “Tôi rất ‘tâm đắc’ và ‘đánh giá cao’ ‘bài viết’ ‘Tản mạn’ về tiếng Việt của tác giả qua các phân tích ‘sâu sắc’, ‘nghiêm túc’ và ‘có sức thuyết phục’. Mỗi lần đọc hay nghe những ‘từ’ ấy trên ‘báo, đài’ tôi rất ‘dị ứng’. Là người Việt phải biết ‘trân quý’ tiếng Việt ‘thân thương’ của ‘ta’…” Bài báo cho thấy người viết bị nhiễm virus “tiếng Việt mới” khá nặng, cần được điều trị.
Mỗi người có thể có những cách “đánh giá”1 khác nhau về các “từ” của “tiếng Việt mới”. “Cá nhân tôi”1 vẫn sử dụng các “từ” như:
Bản chất: Nghe “mạnh” hơn là “bản tính”. Nói “Bản chất của hắn ta là vậy”, có nghĩa là hắn ta… hết thuốc chữa. Cái gì thuộc về “bản chất” rồi là đã nằm trong máu trong thịt, không cách chi “cải tạo” được, chỉ có nước… thay máu.
Bóng đá: Nói “môn bóng đá” thì đúng hơn “môn đá bóng”, tốt hơn “môn túc cầu” và chính xác hơn “môn bóng tròn”. Hơn nữa, nói “bóng chuyền”, “bóng ném”… thì cũng nói “bóng đá”.
Dị ứng: Không dễ tìm được từ ngữ nào tương đương trong “tiếng Việt cũ” (không hẳn là “phản ứng” hay “khó chịu”). Nói “Tôi rất dị ứng với cái từ ấy”, nghe giống như là ăn phải món gì đó, hoặc uống nhằm thứ thuốc men gì đó, da dẻ phát ngứa, nổi mề đay, gãi sồn sột.
Kịch tính: Nói “Một trận bóng đá đầy/nhiều kịch tính” gợi nhiều cảm xúc rất “kịch”.
Nhạy cảm: Nghe… nhạy cảm hơn là “dễ đụng chạm”, “dễ mất lòng”, “dễ xa nhau”.
Tâm đắc: Nghe… tâm đắc hơn là “đắc ý”, “hợp ý”, “ưng ý”.
Tính từ: Từ ngữ chỉ về tính cách, tính chất của người, vật, sự việc (đúng hơn “tĩnh từ” trong “tiếng Việt cũ”, nghĩa tương phản với “động từ”).
Vận động viên: Nghe đúng hơn là “lực sĩ” của “tiếng Việt cũ” (nhiều vận động viên không phải là “lực sĩ”).
Các từ ngữ như “dữ kiện”, “dữ liệu”, “đối tác”, “phản hồi”, “tiếp thị”, “truy cập”… (các “thuật ngữ”1 mới, không có trong “tiếng Việt cũ”) cũng thường được tôi sử dụng. Những từ ngữ “quan ngại”, “phản ánh”, “hình thành”, “đảm bảo”… không phải là “tiếng Việt mới” như nhiều người tưởng mà từng được sử dụng ở miền Nam ngày trước.
Có thể kể ra được các “từ” và cách nói được người Việt ở cả trong và ngoài nước sử dụng với “tần suất cao”1 như: “từ”, “bài viết”, “ẩm thực”, “tham gia”, “tham quan”, “tranh cãi”, “chia sẻ”, “cá nhân tôi”, “chúc sức khỏe”…
Phần này không đề cập đến những tiếng lóng hoặc ngôn ngữ đường phố (street language) mà tiếng Việt “cũ” hay “mới” gì cũng đều có.
4. Nói sai, hiểu đúng
“Lát nữa đây tôi sẽ trao đổi với anh”, nghe người bạn nói vậy, ta tự động hiểu là anh ta sẽ trao đổi ý kiến với mình (chứ không phải trao đổi thư từ, hình ảnh, tài liệu… hay thứ gì khác).
“Anh có thể vào trang web ấy để tham khảo ít tư liệu”, nghe người bạn nói thế, ta tự động hiểu là cả nước đều có thể tham khảo “vô tư” 1 các tài liệu ấy (chứ chẳng phải riêng tư gì).
Nếu ta “nhất trí”được với nhau ngôn ngữ là “công cụ truyền đạt ý tưởng và giao tiếp giữa con người” thì hai câu nói trên xem như “đạt yêu cầu”.1 Người nói muốn nói cách nào cũng được, chỉ cần người nghe hiểu được và hiểu đúng là ngôn ngữ đã hoàn thành tốt đẹp vai trò của mình.
“Tư liệu” hay “tài liệu” thì cũng chỉ là cách gọi, là cái tên con người đặt để ra. Giả sử “nhà phát minh chữ nghĩa” chỉ tay vào cái bàn và nói “Đây là cái ghế” thì vật dụng ấy sẽ có tên là “ghế”. Giả sử ta gọi “chó” là “mèo” và “mèo” là “chó” thì khi nói “chó” người nghe sẽ hiểu đấy là con vật nuôi ở trong nhà, kêu “meo meo” và giỏi bắt chuột; ngược lại, khi nói “mèo” người nghe sẽ hiểu đấy là con vật nuôi để giữ nhà, sủa “gâu gâu”, và thường ngoắc ngoắc đuôi mừng chủ đi đâu về. Mới nghe thì có vẻ ngược ngạo, nhưng nghe riết cũng thành… quen tai. Tên gì thì cũng chỉ là cái… tên.
Nhiều người Việt ở ngoài nước vẫn phê phán hai chữ “chất lượng” của “tiếng Việt mới”, cho rằng “lượng” không thể nào là “phẩm” được, và nói “nâng cao chất lượng” là không đúng mà phải nói “nâng cao phẩm chất”. Thực ra, không phải người Việt trong nước không biết rằng chữ “lượng” (trong từ ngữ “chất lượng”) là chỉ mức độ lớn nhỏ, nhiều ít, cân đo đong đếm được. Cũng không phải họ không biết đến hai chữ “phẩm chất”. Từ ngữ này vẫn có trong từ điển tiếng Việt của họ, và được định nghĩa “Cái làm nên giá trị của người hay vật”, đi với ví dụ: “Hàng kém phẩm chất”. Trong lúc “chất lượng” được định nghĩa “Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc” (Từ điển tiếng Việt, Nhiều tác giả, Viện Ngôn ngữ học, nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, 2006). Chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất”, định nghĩa cách ấy ai muốn… hiểu sao thì hiểu. Mặc ai muốn nói gì thì nói, họ vẫn cứ dùng “chất lượng” và giải thích “nói ‘chất lượng’ là để phân biệt với… ‘số lượng’”, chứ nhất định không chịu dùng “phẩm chất” của người miền Nam ngày trước (thể hiện tinh thần “độc lập, tự chủ”), ngụ ý “Cứ nói thế đấy, miễn hiểu được là được.”
“Miễn hiểu được là được”, trong một nghĩa nào đó, cũng có lý chứ không phải không. Nghe người nào đó nói “chất lượng”, ta… tự động hiểu rằng ý người ấy muốn nói là “phẩm chất”. Nói gì thì nói, cái “từ” khátiêu biểu của “tiếng Việt mới” ấy, và nhiều “từ” khác nữa, vẫn được lưu hành rộng rãi trong mọi sinh hoạt của người Việt ở hải ngoại. Các “báo, đài”vẫn cứ “đảm bảo chất lượng” lia chia, các xướng ngôn viên truyền thanh, truyền hình vẫn cứ “nâng cao chất lượng” đều đều, vẫn cứ phát ngôn ra rả những “khâu” này “bộ phận” kia, vẫn cứ “tháng Một”, “tháng Bốn” (thay vì tháng Giêng, tháng Tư), vẫn “chủ yếu”, “chủ trì”, “biểu diễn”, “đăng ký”, “kiểm tra”, “phát hiện”, “tập trung”, “tham gia”, “tham quan”, “tranh cãi”, “đánh giá cao”, “có khả năng”, “có sức thuyết phục”… vân vân. “Khán thính giả nghe đài” thì cũng dễ dãi, ít có ai thắc mắc hay ý kiến này nọ, hoặc nếu có phản kháng thì cũng… yếu ớt, vì biết có phản kháng phản tỉnh gì thì cũng chẳng đi đến đâu. Người nghe nghe mãi, nghe riết cũng… quen tai, và tới nay thì dù muốn dù không cũng đành chấp nhận “từ” mới “từ” cũ “sống chung hòa bình”. Cũng không thể phê phán các cô xướng ngôn viên ấy được, vì các cô chỉ đọc làu làu các văn bản được ai đó soạn sẵn, và “ai đó” thì hầu như cũng chẳng bận tâm đến chuyện hay dở, đúng sai, phải trái, “tiếng Việt cũ”, “tiếng Việt mới” chi chi cả.
Trả lời thư “phản hồi”1 của “thính giả nghe đài” phàn nàn việc sử dụng nhiều từ ngữ của “tiếng Việt mới” trong các chương trình phát thanh bằng Việt ngữ, người phụ trách chương trình của một đài phát thanh nước ngoài giải thích đại ý, “Đối tượng của chương trình này ‘đại đa số’ 1 là thính giả ở trong nước chứ không phải chỉ người Việt ở nước ngoài. Chúng tôi sử dụng từ ngữ thông dụng ở trong nước để việc ‘truyền thông’ đạt được hiệu quả tốt.” “Thính giả nghe đài” chắc cũng thỏa mãn cách giải thích này nên không có ý kiến gì thêm.
Cách gọi “thính giả nghe đài” cũng là “cụm từ” của tiếng Việt trong nước. Thoạt đầu là “các bạn nghe đài”, sau đổi thành “quý bạn nghe đài” (nghe “trân quý” hơn), sau lại đổi thành “quý thính giả nghe đài” hoặc “quý khán thính giả xem đài” nếu là xem truyền hình (lẽ ra phải là “quý khán thính giả xem và nghe đài”). Thế nhưng, đổi như vậy thì lại thừa ra cái đuôi “nghe đài”, “xem đài”. Những “cụm từ” này cũng được ít đài truyền thanh, truyền hình của người Việt ở hải ngoại vay mượn. Với cách dùng “từ” như thế, e rằng mai đây sẽ lại có thêm những “khán giả xem phim”, “khán giả xem kịch”, “độc giả đọc sách”, “độc giả đọc báo”… vân vân.
Các xướng ngôn viên trong và ngoài nước vẫn gọi người xem truyền hình là “quý khán thính giả”, trong lúc chỉ cần gọi “quý khán giả” là đủ (thêm chữ “thính” nữa là thừa), vì “khán giả” của một trận bóng đá, của sân khấu, của màn ảnh rộng (rạp hát) hay màn ảnh nhỏ (máy truyền hình) đều “vừa xem vừa nghe” cả.
Thực tế, “tiếng Việt mới” và “tiếng Việt cũ” đều có những trường hợp sử dụng từ ngữ không được chính xác. Người Việt ở miền Nam ngày trước vẫn viết hoặc nói “gái mãi dâm” (thay vì “gái mại dâm”), “đi khám bác sĩ” (thay vì “đi khám bệnh”)… Và người đọc hay người nghe, khi nghe “đi khám bác sĩ”, thay vì yêu cầu người nói điều chỉnh, phải… tự mình điều chỉnh não bộ (là nơi tiếp nhận ngôn ngữ) để hiểu rằng người nói muốn nói là “đi gặp bác sĩ để khám bệnh”. Việc này có thể tạo ra chút lúng túng ở lần đầu tiên vì “sự cố”1có hơi bất thường; tuy nhiên, từ đó về sau thì “quá trình” 1 tự điều chỉnh ấy sẽ trôi chảy, tự nhiên và trở nên bình thường.
Nói sai nhưng… hiểu đúng là được, như cách nói của người Mỹ, “That’s ok, no problem”. Về mặt truyền đạt ý tưởng, như thế gọi là “đạt yêu cầu”.1
Lê Hữu
1 Từ ngữ, cách nói phổ biến ở trong nước
3 Comments
Van Hong
Đề tài muôn thuở! Ta thấy rằng, chỉ cần 20 năm cách biệt, thì ngôn ngữ của hai miền Nam Bắc đã có sự phát triển riêng biệt. Hoàn toàn đồng ý với tác giả về chuyện nhiều người (mà tôi cho rằng có đầu óc cực đoan) thích “chính trị hóa” ngôn ngữ.
Cái bệnh “hay chữ” thì ở đâu cũng có, nhưng trong cái gọi là “xã hội chủ nghĩa” tại miền Bắc thì nó rất phổ biến và đạt được cao diểm do sự cộng hưởng của ba yếu tố: Bắc Kỳ chảnh, dốt nhưng lại thích “hay chữ” và dối trá (vì không thể nói thật). Cứ để ý nghe các “ngài” cán bộ phát biểu thì sẽ thấy rõ điều đó: linh tinh toàn những từ ngữ “dao to búa lớn”, rất ư … hoành tráng, nhưng kỳ thực chỉ toàn là … khí nóng; hay nói nôm na là “trăm voi chả được bát nước sáo”.
Khi vào miền Nam thì họ nắm chủ quyền trên mọi lãnh vực, nhất là học đường và các công sở, và khủng khiếp nhất là báo chí, thế nên, kiểu nói XHCN xuất xứ từ ba yếu tố trên đã xâm nhập vào đại chúng.
Nhưng nói như thế không có nghĩa là những từ ngữ được sử dụng sau này là sai. Tôi nghĩ rằng ta nên tận dụng để làm cho kho tàng ngôn ngữ Việt dồi dào hơn. Để làm được điều đó thì những người có trách nhiệm (nhà văn, nhà báo, nhà giáo, công chức…) phải sử dụng đúng từ ngữ. Thái độ phân biệt “trước 75/sau 75” là điều nên tránh.
Thế giới hôm nay không còn như thế giới của 30 năm trước. Internet và sự giao thương toàn cầu, và nhất là sự thay đổi, tăng trưởng rất nhanh của vốn liếng hiểu biết trên mọi bình diện đòi hỏi phải có một thứ ngôn ngữ đa dạng nhưng chính xác để chuyển tải tư tưởng, để diễn tả sự việc. Có nhiều từ ngữ bắt buộc phải giữ ở nguyên dạng tiếng ngoại quốc, bởi lẽ khi chuyển nó sang ngôn ngữ địa phương thì nó bị hiểu sai. Một thí dụ đơn giản là từ ngữ “software”. Người Việt dịch là “phần mềm”. Mới nghe lạ tai, nghe riết rồi quen. Nhưng sai thì vẫn sai, bởi vì “software” là một từ ngữ sáng tạo, không có nghĩa soft, mà cũng chẳng phải ware (chữ ngược lại là hardware). Software/hardware không chỉ dùng trong phạm vi computer (đây cũng là một từ ngữ có vấn đề tương tự) mà trong nhiều phạm vi khác nhau: phim ảnh, âm nhạc v.v. Như khi gọi computer là “máy vi tính” là ta đã tự đưa mình vào ngõ cụt, bởi lẽ nó có tính toán gì đâu! Ngoài ra “máy vĩ tính” là máy nào?
1) Bảo rằng người nghệ sĩ chỉ “trình diễn” mà không “biểu diễn” – đơn giản vì người ấy không nhảy nhót thì thực ra chỉ là chuyện “sợi tòc chẻ đôi”.
2) Nhưng “sân bay” và “phi cảng/trường” là hai chuyện khác nhau. Nói phi cảng là ám chỉ cái tổng thể của công trình, mà trong đó, ngoài cái chỗ máy bay lên xuống và bãi đáp (sân bay!) thì quan trọng hơn(ít nhất là trong ngành kiến trúc) là các công trình chung quanh, trong đó có các nhà ga, nơi buôn bán, khách sạn v.v.
3) Nói “chất lượng” để phân biệt với “số lượng” là các dùng đúng. Cũng như khi nói bóng đá (thay vì “bóng tròn” như trong miền Nam trước đây vẫn xài), bóng rổ, bống chuyền… là tạo được hệ thống cho một chuỗi từ ngữ.
4) Có những từ ngữ sai nhưng vẫn được dùng trong các công văn, chứng thư, vì lẽ đơn giản là người sử dụng không biết cái sai. Một thí dụ phổ biến hiện nay là từ “đăng ký kết hôn”, được ghi trong các “giấy chứng nhận kết hôn” (xưa ta gọi là hôn thú). Người ta viết rằng: “đăng ký ngày …” và hiểu là đã “kết hôn ngày …”. Nhưng “đăng ký” và “kết hôn” là hai chuyện khác nhau. Đăng ký chưa chắc đã (được) kết hôn!
Bốn thí dụ trên muốn nêu ra bốn khía cạnh của vấn đề. Tôi nghĩ, ngôn ngữ là phương tiện để chuyển tải tư tưởng. Nhưng ngôn ngữ trong sáng cũng sẽ giúp cho tư tưởng trong sáng. Mà tư tưởng trong sáng, được trình bày trong sáng là điều kiện cơ bản để dẫn đến tiến bộ, văn minh. Không phải tự nhiên mà các nước Bắc Âu rất coi trọng việc bảo vệ ngôn ngữ. Người Đức chẳng hạn, khi họ giao tiếp xã hội bình thường thì sao cũng được, nhưng khi ở “chính giòng” là phải chính xác: Sách của học đường không được phép sai một chữ, những tờ báo lớn mà viết cẩu thả ngữ pháp, văn phạm là sẽ bị phê bình thẳng tay, ký giả truyền hình mà phát ngôn không theo chuẩn mực văn phạm thì bị xem là loại tồi v.v. Đó là điều mà người Việt có trách nhiệm cần suy gẫm.