Tháng 2/2009, tưởng nhớ 30 năm nước Việt Nam cộng sản bị người đồng chí đàn anh cộng sản Trung Quốc đánh qua biên giới phía bắc, có một nhà báo từ Sài Gòn ra Hà Nội và lặn lội trèo đèo vượt suối đúng nghĩa đen để đi tìm sự thực về sự bội phản giữa những đảng cộng sản Đông Nam Á mà Nayan Chanda gọi là huynh đệ hận thù khi đặt tên cho cuốn Brother Enemy mà ông phát hành năm 1986 về lịch sử Đông Dương tính từ ngày thất thủ Sài Gòn. Nhà báo ấy là Huy Đức.
Ông Nayan Chanda viết là trước rạng đông ngày thứ Bảy 17/02/1979, khi sương mù dày đặc phủ kín những núi đồi nằm dọc biên giới Việt Trung, Quân đội Giải phóng Nhân Dân TQ đã trút cơn thịnh nộ. Tầm cỡ tấn công lần nầy khác hẳn với lần trước vào năm 1788 khi hoàng đế Càn Long của nhà Thanh phái một đạo quân gồm bộ và kỵ binh sang để dựng một vương triều bù nhìn ở Hà Nội theo chọn lựa của mình. Trong một cuộc biểu dương hỏa lực ngoạn mục, hàng trăm khẩu đại pháo tầm xa 130 ly và 122 ly cùng với các giàn hỏa tiễn 140 ly tới tấp trút đạn vào lãnh thổ Việt Nam, với cường độ mỗi trái trong một giây đồng hồ. Về sau một ký giả Mỹ tới thăm lại chiến trường ghi nhận rằng trận địa pháo quá sức dày kín, nên nghe từ xa cứ như một chuỗi ì ầm kéo dài như một trận mưa bom B-52. Nhà báo nầy kể là có lúc, trận địa pháo kéo dài suốt hai mươi phút, thay vì chỉ một phút hay hơn một phút như người Mỹ trải thảm bằng bom. Rồi, như nước vỡ bờ tràn xuống từ đập cao, khoảng 85 ngàn tay súng Trung quốc được xe thiết giáp yểm trợ ùa qua Việt Nam bằng hai mươi sáu điểm dọc theo biên giới. Với chiến thuật biển người cố hữu đã dùng trong chiến tranh Triều Tiên trước kia, làn sóng binh lính đã đánh bật dân quân du kích và bộ đội biên phòng Việt Nam trú đóng trên các đỉnh đồi và những vách đá dựng đứng.
Khi Huy Đức trở lại thăm cũng vào tháng Hai. Chiến trường cũng mịt mù trong sương núi. Bên cạnh những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa, anh đã gặp những người dân như vợ chồng cụ già Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi để nghe kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình khi Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.
Huy Đức ghi nhận:
“Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.”
Lần mò lên tới vùng rừng núi thuộc huyện biên giới Vị Xuyên của tỉnh Hà Giang, ký giả Huy Đức đã gặp được ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang của huyện. Nghĩa trang có 1.680 ngôi mộ thì 1.600 mộ đã là của bộ đội Việt Nam chết vì súng đạn của Trung quốc, vào thời điểm mà cứ nửa đêm về sáng, xe quân sự lại chở xác về, từng túi xếp chồng lên nhau. Trở lại Tổng Chúp, nhà báo đã phải nhờ người địa phương dẫn đường tới cái giếng nơi quân Trung Quốc dùng búa và dao chặt 43 phụ nữ và trẻ em Việt Nam hôm 9/03/1979, rồi quăng xuống giếng. Cái giếng bây giờ nằm lọt trong một mảnh vườn riêng của dân, không có lối vào, phải nhờ thanh niên cùng đi chặt bớt cành tre để nhà báo chụp hình ghi lại sự kiện nay đã chìm trong gai tre và lau lách. Bài phóng sự “Biên giới Tháng Hai” đăng lên trang mạng báo Sài Gòn Tiếp Thị đã bị nhà nước rút xuống ngay trong cùng buổi sáng đã trở thành một nghi vấn trong tâm tư người viết.
Chỉ đạo không công cho Thủ tướng
Đúng nửa năm sau, hôm 25/08/2009, đảng cộng sản Việt Nam bất bình vì bài viết của Huy Đức đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ca ngợi sự sụp đổ Bức tường Bá Linh, gọi đấy là bức tường ô nhục, và chỉ trích các nhà cựu lãnh đạo Xô Viết đã dẫn dắt nhân dân Đông Âu đi vào vũng lầy trầm luân trong nhiều năm. Sau khi mất việc, Huy Đức viết rằng trong 21 năm làm báo, anh đã từng bị mất việc nhiều lần, anh không có ý định chia tay với nghề báo, nhưng đây là thời gian thích hợp để anh viết lại một vài chương sách, làm một vài việc mà anh cảm thấy như là món nợ với một người đã khuất.
Thêm hai năm nữa trôi qua, đầu tháng 8/2011, người ta đọc thấy trên mạng bài của Huy Đức chê Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng tới nhiệm kỳ thứ hai mà cũng không kiếm được người viết diễn văn đủ trình độ, làm lời lẽ của nguyên thủ chẳng khác gì ngôn ngữ của một chuyên viên cấp vụ.
Ngoài ra, Huy Đức nhận xét rằng “Cái mà một bậc nguyên thủ quốc gia mưu cầu phải là lưu danh chứ không phải là tiền bạc. Tất nhiên, để được lịch sử ghi nhận công lao thì khó hơn chia phần trăm và nhận bao thơ. Trong cái chính thể do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nguyễn Tấn Dũng là vị Thủ tướng có nhiều quyền lực nhất. Thật khó để nói về đóng góp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong nhiệm kỳ đầu nhất là về mặt chính sách.” Sợ ông Dũng chậm tiêu, anh nhà báo phải đứng ra làm nhà giáo, để bày vẽ cho học trò mình: “Có rất nhiều điều chúng ta muốn làm cho đất nước nhưng chúng ta không có quyền. Có rất nhiều điều có thể ông Dũng cũng muốn làm, nhưng thế và lực cũng không cho phép. Với năng lực của cá nhân Thủ tướng và đội ngũ cố vấn hiện thời, Chính phủ chưa nên ban hành chính sách gì mới. Việc đầu tiên, trong phạm vi quyền Hiến định của mình, Chính phủ nên sắp xếp lại các cơ quan chính phủ theo hướng tách bạch chức năng hành pháp chính trị và hành chính công vụ.”
Ở Mỹ hay ở bên Tây, nói như vừa nói thì được xem là xây dựng, là sử dụng quyền tự do ngôn luận, là dân chủ. Trong một quốc gia cộng sản, nói như thế không những là phản động, mà còn phạm thượng. Huy Đức không chỉ coi thường Nguyễn Tấn Dũng. Huy Đức cũng chẳng thèm úy kỵ những bậc thánh và thần của chế độ Hà Nội. Ví dụ, đến cả cố tổng bí thư Lê Duẩn cũng được anh nhà báo chiêu hồn, gọi tên đích danh: “ông Lê Duẩn cho rằng tinh thần của Hiến pháp 1980 phải dựa trên ba yếu tố: làm chủ tập thể, chuyên chính vô sản và sở hữu toàn dân. Cả chuyên chính vô sản và làm chủ tập thể đã gãy và cái kiềng ba chân ấy chỉ còn cái chân sở hữu toàn dân cà nhắc.”
Vì đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền Hà Nội không nhớ hay không biết thế nào là sĩ diện, hay vì nghĩ rằng Nguyễn Tấn Dũng là người mù còn có thể dắt đường được, Huy Đức làm cố vấn không công:
“Việc các chính quyền địa phương bị thao túng bởi các doanh nghiệp, tiếp tay cho họ cướp đất, đang là mầm mống của những vụ gây bất ổn về chính trị. Có lẽ chính quyền cũng nên biết xấu hổ khi người dân ở các vùng đất chống Mỹ như Bến Tre, Long An… giờ đây khi bị mất đất thay vì cậy đến chính quyền mà họ đã đổ máu để lập nên đã phải khăn gói đến cầu xin trợ giúp trước các cơ quan ngoại giao của Mỹ. Việt Nam, xét về bản chất, không còn là một quốc gia cộng sản mà chỉ là quốc gia độc đảng. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, chưa bao giờ khu vực kinh tế quốc doanh được coi là một khu vực kinh doanh hiệu quả. Không thể có cái gọi là chủ nghĩa xã hội như đức tin của một số người nếu những anh nắm nhiều nhất tài nguyên và vốn liếng quốc gia lại làm ra tiền ít nhất. Một nội các mà một số thành viên của nó đã phải chi phí rất nhiều để ngồi vào không thể sẵn sàng chia tay với quyền cấp từng tờ giấy phép. Đối với một dòng họ có một người ngồi trên ghế Thủ tướng tới hai nhiệm kỳ thì điều đáng tự hào là những gì người đó đã làm chứ không phải là lượng đất đai, cổ phiếu mà các thành viên trong gia đình nắm được.”
Khen
Cứ tưởng anh nhà báo bị treo niêu nên dọa viết sách. Không ngờ anh chàng nói sao thì làm vậy. Nói về đứa con tinh thần của mình, Huy Đức giải thích:
“Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30/4: cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.”
Nếu cựu đại tá Bùi Tín thu thập nhiều nhưng chỉ bật mí chẳng bao nhiêu các bí mật mà ông ấy biết qua Bộ Mặt Che Giấu của Chế Độ (ấn bản tháng 11/1999 của nhà phát hành Kergour) do người thân thích của ông còn đang sống bên trong “nhà tù lớn” Việt Nam (chữ của tác giả trong Bên Thắng Cuộc), Huy Đức không thèm đếm xỉa tới những trò độc địa của bộ máy công an cộng sản, để nói bật ra nhiều lần hơn chuyện thâm cung bí sử của chính quyền Hà Nội, làm người đọc khó lòng tách bạch đấy là cuốn ký sự hay một bản cáo trạng về tội ác và sai phạm của đảng Cộng sản trong hành trình đưa cả dân tộc tới chỗ lầm than. Huy Đức cho biết anh thu thập chất liệu cho cuốn sách trong hơn hai mươi năm. Trong vòng ba năm, từ tháng 8-2009 khi mất việc ở Sài Gòn Tiếp Thị đến tháng 8/2012 vừa qua, tác giả đã viết full-time. Viết xong, anh gửi bản thảo đến một số nhà xuất bản trong nước, và, dĩ nhiên, đã bị từ chối. Một số nhà xuất bản tiếng Việt ở Mỹ và Pháp muốn in, nhưng tác giả quyết định tự mình xuất bản cuốn sách để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ vị trí khách quan cho cuốn sách.
Bộ sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức chia làm 2 cuốn: Giải phóng và Quyền Bính. Mở trang “Mục lục” của cuốn một, Giải Phóng, người đọc thấy ngay khối lượng đề tài đồ sộ mà tác giả trình bày với người đọc. Sau Mấy lời của tác giả và Lời cảm ơn, Huy Đức sắp xếp cuốn một thành 2 phần.
Phần 1 viết về Miền Nam với các chương 1 về ngày 30 tháng Tư với các tiêu đề Đi từ bưng biền, Xuân Lộc, Tướng Big Minh, Trại Davis, Nguyễn Hữu Hạnh, Sài Gòn trong vòng vây, Xe tăng 390, Đầu hàng, Tuẫn tiết; chương 2 về cải tạo với các tiêu đề Những ngày đầu, “Ngụy Quyền”, “Ngụy Quân”, “Đoàn tụ”, “Phản động”, Tù và cải tạo, “Thăm Nuôi”, “Học Tập” [các ngoặc kép đóng mở do chính Huy Đức với ngụ ý mĩa mai]; chương 3 về chuyện đánh tư sản với các tiêu đề “Chiến dịch X-2”, Đổi tiền, “Gian thương”, “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Hai gia đình tư sản, Kinh tế mới; chương 4 về nạn kiều với các tiêu đề Đội quân thứ năm, Hiệp định Geneva, “Chổi ngắn không quét xa”, Hoàng Sa, Sợ “con ngựa thành Troy”, “Nạn Kiều”, “Phương án II”, “Ban 69”, Vụ Cát Lái; chương 5 về chiến tranh với các tiêu đề Biên giới Tây Nam, Pol Pot, Đi dây, Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ, “Kẻ Thù Lịch Sử”, Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War), “Nhất Biên Đảo”, “Áo lính lại khoác vào ngay”; chương 6 về vượt biên với các tiêu đề “Vượt biên”, Từ “trí thức yêu nước”, Đến “thường dân”, Trước khi tới biển, Đường tới các trại tị nạn; chương 7 về “giải phóng” [trong ngoặc kép] với các tiêu đề Sài Gòn thay đổi, Kinh tế mới, Đốt sách, Cạo râu, “Cách mạng là đảo lộn”, Lòng người, Những người được sinh ra không đúng cửa, “Cánh cửa” Thanh niên Xung phong, “Nổi loạn”, “Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”.
Phần 2 mang tên Thời Lê Duẩn với các chương 8 về thống nhất với các tiêu đề Nước Việt Nam là một, “Bắc hóa”, Chủ nghĩa xã hội, “Con đường của Bác”, “Mỗi người làm việc bằng hai”, Lê Duẩn và mối tình miền Nam, Chấp chính và chuyên chính; chương 9 về xé rào với các tiêu đề Bế tắc, Mậu dịch quốc doanh, Máy bỏ không công nhân cuốc ruộng, Tháo gỡ, Nghị quyết Trung ương 6, Bù giá vào lương, Cắm cờ xé rào, Khoán chui, Ông Kiệt xé rào ông Linh lãnh đạn, “Ai thắng ai”; chương 10 về đổi mới với các tiêu đề Hội nghị Đà Lạt, Nhóm giúp việc mới, Người của những khúc quanh lịch sử, Từ chính sách Kinh Tế Mới, Đến chọc thủng thành trì bao cấp, Giá-Lương-Tiền, Nã pháo vào bộ tổng, Khép lại trang sử Lê Duẩn, Vai trò của Mikhail Gorbachev, Tuyên ngôn đổi mới, Bàn tay Lê Đức Thọ, Phút 89; chương 11 về Campuchia với các tiêu đề “Pot ở đầu phum ta cuối phum”, “Xuất khẩu cách mạng”, Tư tưởng nước lớn, Bị cô lập, Phương Bắc, Hội nghị Thành Đô, Campuchia thời hậu Việt Nam. Sau cùng là Phụ lục 1 về sự thật lịch sử về xe tăng số 390 và xe tăng số 384, Phụ lục 2 về Tướng Big Minh sau 1975, về sơ yếu lý lịch tác giả, và bảng danh mục sách tham khảo.
Vì bộ sách bao gồm quá nhiều vấn đề mà tác giả bắt gặp, thao thức, rồi chắt chiu lại trên cả ngàn trang giấy, chúng tôi chỉ xin tường thuật sơ lược những đoạn chở chất lý luận gay cấn, những vấn đề tanh tởm của chế độ, hay những phát hiện bất ngờ của anh trong cương vị may mắn được tiếp xúc với những nhân vật cao cấp mà ngôn ngữ miền Bắc gọi chung là “trên” – những bậc thánh và thần của chế độ.
30 Tháng Tư
30 tháng Tư là ngày mà tất cả “bộ đội cụ Hồ” – từ lính lác lên tới tướng tá – xưng tụng bằng tên “ngày đại thắng”, ngày nhà báo Pháp Olivier Todd chọn chữ Cruel Avril (Tháng Tư Tàn Ác) để đặt tên cho tác phẩm của mình khi giao cho nhà xuất bản Robert Laffront ở Paris in vào năm 1987, và tiến sĩ George Veith gọi cuốn sách của ông là Black April (Tháng Tư Hắc Ám).
Riêng Huy Đức – thằng bé Trương Huy Sang 13 tuổi vào thời điểm lịch sử ấy – nhập ngũ vào lúc Trung quốc đánh Việt Nam, được chính phủ dành ra 3 năm để huấn luyện thành sĩ quan hóa học và sử dụng 4 năm kế tiếp trong cương vị chuyên gia quân sự ở chiến trường Campuchia, đã mòn răng với cơm của bác và đảng, để phát giác ra rằng
“ngày 30/04/1975 – ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.”
Nếu Bộ Chính trị Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam có chất vấn, thì câu trả lời đã nằm rải rác ở nhiều nơi trong sách. Ví dụ như, theo lời Huy Đức, trước 30/04/1975, tại Sài Gòn có 735 đảng viên tại chỗ, nhưng đến cuối tháng 5/1975, đúng một tháng sau, số đảng viên đã nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: không ai trong số những người tiếp quản Sài Gòn năm 1975 có kiến thức về quản lý nhà nước. Hoặc như, trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp, chính phủ đã trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân, nói là mua và trưng mua, nhưng thực chất, giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô.
Bằng chiến dịch cướp cạn qua hình thức kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh có tên “cải tạo” nầy, theo Huy Đức, nhà nước thủ đắc 100% ngành năng lượng, 45% ngành cơ khí, 45% ngành xay xát lương thực, 100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá, 45% trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật, 60% ngành dệt, 100% ngành sản xuất giấy, 80% ngành sản xuất bột giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh nắm 80% nguồn hàng công nghiệp và 92% số xã trên toàn miền Nam có hợp tác xã mua bán.
Tác giả viết:
“Chính quyền tin rằng: ‘Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn dân, là người nội trợ của toàn xã hội’. Chẳng bao lâu sau, niềm tin này sẽ nhanh chóng tan thành mây khói.”
“Đi ngoài ra nước”
Mặc dù bị chế diễu bằng cụm từ “đi ngoài ra nước”, chủ trương cho dân “đi ra nước ngoài” đã là một trong những chính sách lớn, có liên quan đến sinh mạng cả triệu người, được nhà nước thí mạng để kiếm vàng. Ngày 20/03/1981, đảng Cộng sản thành lập “Ban 69” để gánh vác chủ trương cho người Hoa đi nước ngoài để lấy vàng (Chiến dịch PA2, tức Phương Án 2), việc buôn bán lậu với tàu nước ngoài của một số tỉnh và việc bắt giữ vượt biên trái phép.
“Theo chỉ đạo của Bộ Nội vụ thì các tỉnh được phép tổ chức thực hiện PA2 ngay từ đầu gồm có: Quảng Nam-Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Minh Hải; các tỉnh không được phép làm nhưng sau đó xin làm: Sông Bé, An Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Long An.” Sau đợt 1 với tai nạn thương tâm xẩy ra, vào tháng 12/1978 có lệnh ngưng cho người Hoa ra đi. Nhưng qua tháng 4/1979 chính phủ cho tiếp tục đi đến hết tháng 5/1979. Một số nơi xin phép cho đi 13 ngàn người nhưng sau khi 70 – 80 ngàn người đi mà vẫn còn đọng lại hàng vạn người khác. Là một chủ trương liên quan đến mạng sống của người dân, Ban 69 báo cáo: “Là một công việc hệ trọng có quan hệ đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhưng Ban Bí thư trung ương Đảng không có một văn bản nào về lãnh đạo và chỉ đạo các cấp ủy Đảng lãnh đạo và thực hiện PA2 này, các cấp ủy Đảng ở địa phương rất lúng túng.”
Ban 69 cũng đưa ra khác biệt rất lớn giữa báo cáo của Bộ Nội vụ và thực tế do PA2 thực hiện. Trong khi báo cáo của Bộ nội vụ ghi nhận từ tháng 8/1978 đến 6/1979, mười lăm tỉnh, thành đã chỉ cho người Hoa xuất ngoại 156 chuyến tàu thuyền với số người là 59.329 người, thu vào 5.612 kg vàng, 50.000.000 đồng Việt Nam, 57.000 đô la Mỹ, 235 xe hơi các loại, 1.749 nhà và gian nhà – thì Ban 69 thống kê con số thực tế đã cho đi gồm 533 chuyến tàu, 134.322 đầu người, thu vào 16,181 tấn vàng, 164.505 đô la, 34.548.138 đồng VN, 538 xe hơi các loại, và 4.145 căn nhà. Chính Ban 69 cũng không thể lấy thúng úp voi:
“Nhiều tỉnh cho người đi nước ngoài, khi họ xuống tàu rồi tổ chức bắt thu tài sản (Bến Tre, Quảng Nam-Đà Nẵng). Nhiều tỉnh cho đi sau khi có lệnh cấm tháng 5-79 (Minh Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Cửu Long, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Long An, Sông Bé) do nặng vì lợi ích chính trị và kinh tế của địa phương… Về chủ quan do ta quản lý không chặt chẽ về tư tưởng và do cán bộ hư hỏng. Một số cán bộ công an, cán bộ các ngành có liên quan đến PA2 có sai phạm. Trong lực lượng vũ trang ở mười bốn tỉnh đã có 105 sĩ quan từ thượng tá đến chuẩn úy vi phạm. Bộ Nội vụ quy định chế độ, nguyên tắc, quyền hạn không chặt chẽ, làm cho một số cán bộ tham ô, hối lộ, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, làm quỹ riêng địa phương, buôn bán với nước ngoài, gây thất thoát lớn. Tính hết các khoản trên đây thì chỉ số thất thoát cũng gần bằng số thu được. Con số thất thoát lớn chưa từng thấy… Là công cụ sắc bén của Đảng, của lực lượng chuyên chính vô sản, nhưng tính tổ chức kỷ luật của cán bộ công an làm PA2 rất yếu: cấp dưới không báo cáo đầy đủ lên cấp trên; báo cáo gian dối… Một số cán bộ chủ chốt ở các ty công an sai phạm, cán bộ và lực lượng ngành một số hư hỏng, thoái hóa, tham ô tập thể khá rõ, có nhiều dư luận xấu, nội bộ nghi ngờ nhau. Công an đốt xé, sửa đổi sách vì gian dối số tàu, người, vàng, tiền: Hậu Giang, Kiên Giang, Minh Hải, Bến Tre, Nghĩa Bình, Đồng Nai, Phú Khánh, Thuận Hải, Quảng Nam-Đà Nẵng. Dùng nghiệp vụ để đối phó với kiểm tra: bắt một số người để bịt đầu mối như Kiên Giang, Minh Hải. Có nhiều trường hợp giữ tiền PA2 làm của riêng. Nghiêm trọng hơn, phòng bảo vệ chính trị Ty Công an tỉnh An Giang đã cấp biển xe, chứng nhận họ là nhân viên nhà nước, làm giấy ký hợp đồng với họ về việc tổ chức để cho người Hoa đi lại hoạt động.”
Tóm lại, trong việc buôn bán sự sống con người cho sóng nước, các chính quyền địa phương gây thất thu tài chính như: Hậu Giang 4.866 lượng, Minh Hải 48.195 lượng, Bến Tre 3.789 lượng, Cửu Long 27.000 lượng, Nghĩa Bình 27.000 lượng, Phú Khánh 10.987 lượng, Thuận Hải 1.220 lượng, An Giang 1.445 lượng, chưa kể một số cơ quan cấp tỉnh lập quỹ đen trái phép.
Về khía cạnh đạo đức và nhân đạo của nhà nước, Huy Đức kể rằng do kiểm tra không chặt chẽ về công tác bảo đảm an toàn, đã có chín tàu bị tai nạn làm chết 902 người: Đồng Nai, một tàu; Bến Tre, một tàu, chết năm mươi bốn người; Sông Bé, một tàu hư, tàu Liên Xô kéo vào; Tiền Giang, ba tàu, chết 504 người; Long An, một tàu, chết ba mươi tám người; TpHCM, một tàu, chết 227 người; Nghĩa Bình, một tàu, chết bảy mươi tám người. Vụ chìm tàu PA2 chết hàng trăm người ở Thành phố xảy ra vào giữa năm 1979, gần bến phà Cát Lái, Thủ Đức, nhưng gần như rất ít người sống ở Sài Gòn vào thời bấy giờ nghe nói tới câu chuyện đau lòng này. Đại tá Phạm Ngọc Thế, khi ấy là phó Phòng Hậu cần Công an Thành phố, người đảm trách việc tìm xác và chôn cất các nạn nhân, kể:
“Hôm ấy là ngày thứ 7, đúng giờ G, chủ tàu bắc loa kêu những người đã có danh sách ra đi xuống tàu. Đêm hôm trước họ đã bí mật tập kết ở xung quanh đó, công an canh phòng cẩn mật cho họ ở vòng ngoài. Vì ai cũng sốt ruột chờ đón giây phút ấy nên hàng trăm người tranh nhau xuống tàu rất nhanh. Tàu có ba tầng, những người mua chỗ ở tầng dưới, rẻ hơn, khi tàu chưa chạy thấy ngột ngạt quá leo lên, ngồi cả trên mui, khiến cho con tàu chòng chành. Càng chòng chành, họ lại càng chạy qua, chạy lại, khiến cho tàu nghiêng hẳn và nhanh chóng bị chìm. Ông Thế nói, nếu con tàu ấy không chìm tại bến thì khi ra khơi nó cũng sẽ không chịu nổi vì nó vốn chỉ là một chiếc tàu kéo. Khi ấy Thành ủy phải điều hai cần cẩu sáu mươi tấn từ Vũng Tàu vô để kéo rị rị từng chút. Cũng phải tới ngày thứ ba thì mới đưa tàu lên được.” Theo Đại tá Thế: “có khoảng hơn bốn mươi người sống sót. Cứ mỗi cái xác được đưa ra, chúng tôi chỉ dám để hai mươi phút để bộ phận nghiệp vụ lấy dấu tay rồi chuyển qua ngay cho bộ phận mai táng, vì đã bắt đầu nặng mùi. Cứ hàng chục xác một được xếp lên xe, phủ bạt, rồi chạy từ Cát Lái về mai táng ở khu đất cách đấy chừng ba cây số. Những người sống sót cũng cứ như mất hồn vì chứng kiến xác người thân của mình đang trương lên, phải khó khăn lắm mới đưa ra được khỏi con tàu đã chìm ba, bốn ngày dưới nước.”
Người Việt chỉ nghe tới chuyện “Nạn kiều” của người Hoa ở Việt Nam, nhưng khó có đủ điều kiện để nắm vững chi tiết. Riêng trong cương vị nhà báo, Huy Đức có cơ hội nhận thấy:
“Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất. Nhiều người Hoa đã đến đây từ nhiều đời, đã chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác mình từ đâu. Tất cả đều bị khép vào thành phần phải trở về Trung Quốc. Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đã tự sát bằng cách tự mổ bụng. Ở xã Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đình, chồng là Trần Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái Bình, là người Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người Hoa, nhưng ông chết từ khi anh còn nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: ‘Bị công an yêu cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại vì nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim mình.’”
Trước tội ác dây chuyền của đảng viên như thế, đảng Cộng sản bèn chủ trương tự tha bỗng cho mình:
“Nếu cứ có sai phạm là kỷ luật thì các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, các cấp ủy ở Miền Nam phải chịu. Nếu việc xử lí kỷ luật nhiều cấp ủy, nhiều đồng chí chủ chốt ở các Đảng bộ Miền Nam thì trong lịch sử Đảng ta sẽ để lại một ấn tượng cho thế hệ mai sau. Vì vậy việc xử lý kỷ luật trong thực hiện PA2 cần được cân nhắc theo tính chất đặc biệt của nó”. Thế là huề tiền.
Đổi tiền
Đổi tiền là chuyện dài cướp cạn 3 hồi xảy ra ở Việt Nam, sau 1975, ai cũng biết. Hồi 1, lấy lý do “để tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo, với nhận thức tiền là phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam bằng Chiến dịch X3 ra lệnh trong thời gian hạn định từ 8 giờ sáng đến 11 giờ tối ngày 22/09/1975, mỗi hộ gia đình từ đèo Hải Vân trở vào Nam bất kể bao nhiêu đầu người được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” với tỷ giá 500 đồng tiền VNCH đổi được một đồng bạc cộng sản (tối đa 200 đồng mới); cán bộ nhà nước được đổi mỗi người 15.000đ (30đ mới); mỗi hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi 100.000đ; mỗi tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000đ; và mỗi khách vãng lai được đổi 20.000đ, tiền còn dư phải nộp cho ban đổi tiền, lấy biên nhận về địa phương giải quyết.
Cũng trong ngày nầy, từ lãnh thổ Bình Trị Thiên trở ra Bắc, 1 đồng miền Bắc được đổi thành 0,8 đồng tiền mới của miền Nam. Huy Đức viết trong cuốn 1 Bên Thắng Cuộc rằng “Nhiều người, nhiều gia đình quá uất ức vì tài sản bị cướp một cách trắng trợn nên đã tự tử.” Vừa đổi xong, dân chưa hòan hồn, ngày 3/05/1978 nhà cầm quyền lại đổi tiền thêm lần nữa: 1 đồng tiền miền Bắc đổi thành 1 đồng tiền mới, còn ở miền Nam thì 1 đồng giải phóng (đã đổi ngày 22/09/1975 trước kia) rớt giá xuống còn 8 hào tiền mới. Mỗi đầu người chỉ đổi được 100 đồng tiền mới, hộ có trên 3 người, người thứ ba trở đi chỉ được đổi tối đa 50đ và bất kể hộ ấy đông tới bao nhiêu người, cả gia đình chỉ được đổi tối đa 500đ. Hộ dân quê chỉ được đổi bằng nửa hộ thị thành, tiền dư phải ký gởi cho ngân hàng, khi cần dùng có thể rút ra với điều kiện chứng minh được số tiền đó do sức lao động của mình làm ra chứ không phải hưởng lợi từ sức lao động của người khác.
Lần đổi tiền nầy được nhà nước lấy lý do thống nhất tiền tệ cả nước, nhưng Huy Đức cho hay đồng tiền đổi lần trước vào ngày 22/09/1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” do Trung Quốc in giúp, rồi bị giữ bản kẽm lại, Việt Nam xin mấy lần không được, nên lần nầy Việt Nam bắt đổi lấy một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc. Hồi thứ ba tiến hành vào ngày 14/09/1985 theo mức 10 đồng tiền hiện hành bỗng rớt xuống thành 1 đồng tiền mới. Trước 1975, chính quyền cộng sản đã từng đổi tiền 3 lần sau khi cướp được chính quyền tại miền Bắc. Lần thứ nhất: ngày 15/05/1947, bằng sắc lệnh 48, nhà nước đổi 1 đồng bạc Đông Dương lấy 1 đồng bạc “Tài chính”. Lần thứ hai, với sắc lệnh số 15 do chính Hồ Chí Minh ký, dân miền Bắc phải đổi 10đ tiền Tài chính ăn 1 đồng tiền ngân hàng; cuộc đổi tiền nầy chỉ kết thúc sau 20 tháng, dài nhất trong lịch sử đổi tiền của Việt Nam và khôi hài nhất trong lịch sử tiền tệ thế giới. Lần thứ ba, vào tháng 2/1959, chính phủ bắt dân đổi tiền nữa, với tỷ lệ 1.000đ đổi lấy 1đ tiền mới. Huy Đức ghi xuống trang sách của mình:
“Người dân miền Nam từng nghe những ‘luận điệu’ như Việt Cộng về thì sẽ lấy kìm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai lường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như… đổi tiền.”
Về Hoàng Sa và Trường Sa
Huy Đức đã dành một phần của cuốn sách để phân tích về chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi rõ rệt ghi chiến công đẫm máu của Hải quân Việt Nam Cộng hòa trong trận hải chiến với Trung cộng năm 1974 để bảo vệ lãnh thổ, anh nhắc lại việc “bán nước” của Phạm Văn Đồng khi xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Huy Đức trích lời Trần Việt Phương (một thư ký trong đoàn đàm phán Hiệp định Geneva của Việt Nam) làm chứng rằng “Phạm Văn Đồng có bàn bạc với Hồ Chí Minh và vấn đề còn được đưa ra bàn ở ‘cấp cao nhất’”.
Như thế, hành động dâng hiến Hoàng Sa và Trường Sa là tội của toàn đảng Cộng Sản VN từ chủ tịch HCM trở xuống, chứ không riêng Phạm Văn Đồng – ông thủ tướng của một quốc gia từng thừa nhận “khi Chu Ân Lai nói sông Bến Hải sẽ được lấy làm giới tuyến, ông Phạm Văn Đồng không biết là Việt Nam có con sông ấy.” Từ quan điểm lịch sử ấy, Huy Đức tuyên bố “Về thực chất, không thể coi những tài liệu ấy có đủ giá trị pháp lý để công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trước ngày 30/04/1975, miền Bắc không có thẩm quyền để nói về Hoàng Sa và Trường Sa, bấy giờ đang là phần lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia đang hiện diện ở Liên Hiệp Quốc.”
Ai phải ra đi?
Có thể nói mặt tích cực và điểm son của cuốn 1 bộ Bên Thắng Cuộc là những đoạn xoáy vào thực tế bầm dập mà đảng Cộng sản lèo lái đất nước lên xã hội chủ nghĩa. Ở một trong những lúc gay cấn vì phải trực diện với sự thật, thay vì màu mè đẽo gọt hay nguỵ trang, Huy Đức viết:
“Bên ngoài thì giặc dã, bên trong thì bức bối, đói kém, không khí càng trở nên ngột ngạt, nhất là từ giữa năm 1978. Lượng người bỏ nước ra đi càng lúc càng tăng, cỗ xe như đang lao xuống dốc mà không ai nhìn thấy chân phanh ở đâu. Ông Võ Văn Kiệt quyết định gặp gỡ giới trí thức Thành phố. Với hy vọng có được sự chia sẻ từ những người Sài Gòn vốn được coi là có cảm tình với ‘Cách mạng’, ông Kiệt đã nói khá chân thành: ‘Anh em cố gắng ở lại, trong vòng ba năm nữa, nếu tình hình vẫn không thay đổi, tôi sẽ đưa anh em ra phi trường’. Cả hội trường im lặng. Rồi, giáo sư Nguyễn Trọng Văn đứng lên: ‘Chúng tôi sẵn sàng ở lại, nhưng nếu ba năm nữa mà tình hình không thay đổi thì tôi cho rằng người nên ra đi phải là các anh’”.
Phần thiếu sót mà Huy Đức không viết ra là, sau khi đã dìm đất nước xuống bùn, chẳng có anh Việt Cộng nào ra đi cả. Nếu họ đi, còn băng đảng nào trụ lại để diễn tuồng hài chuyên chính vô sản?
Chuyện “học tập”, chuyện thăm nuôi
Nói về “đạo đức cách mạng” của cán bộ quản giáo trong hàng ngũ thắng cuộc, Huy Đức viết:
“những người trực tiếp giáo dục lại các ‘ngụy quân và ngụy quyền’ là những người lớn lên trong một xã hội hoàn toàn khép kín. Những giai thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài Gòn giàu có, đã giữ tư thế cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa bằng cách khoe: ‘Ngoài đó, ti vi tủ lạnh chạy đầy đường’, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt thự, cao ốc, nhìn thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau vào, giật nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: ‘Bọn tư bản nó gài bẫy’ cũng không hẳn là tiếu lâm chính trị. Hầu hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Họ được dạy rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc trong ngày 30/04/1975 còn ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những thanh niên lầm đường lạc lối. Không ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của miền Nam đã nhận ra sức hiểu biết của mình đang ở đâu. Cũng có những người vì mặc cảm đã dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung thành với những gì được dạy. Sự say sưa làm ‘thầy’ của họ đã tạo ra không ít tình huống trớ trêu. Không chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lý giải vì sao những người chiến thắng lại giam giữ những đối thủ đã đầu hàng mình lâu như vậy.”
Mỗ xẻ não trạng và trình độ của bên thắng cuộc, Huy Đức không quên đưa ra nhận xét về thành phần quản giáo trại giam, ban ngày vô cùng hắc ám nhưng khi đêm xuống đã hèn hạ tìm gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tý mỡ”. Trong khi đó vợ con tù cải tạo ở nhà thì phải đối phó với các quan cách mạng địa phương. Anh viết về những điều mà đảng và nhà nước tìm cách lấp liếm:
“Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Có những người vợ đã phải đi bán thân. Có những người vợ đã phải sử dụng thế mạnh của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và trẻ em, lại phải tìm cách qua mặt công an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ thất ngay cả trên đường xa… thì không thể nào trách những người phụ nữ ấy. Chuyện một bà tứ tuần có mang với anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ trời cặp với anh lính cũ của chồng mình… cũng không có gì bất ngờ khi nó được đưa vào trại.” Huy Đức kể chuyện cán bộ kiêu hùng mắng tù: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ gia đình, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các anh!”, rồi kết luận: “nếu có ai mất vợ thì cũng chỉ vì thời thế” và ghi thêm: “Vợ của nhà thơ Tạ Ký đã đi lấy chồng ‘Việt Cộng’ khi ông còn bị giam ở trại T6, Long Khánh”.
Kinh tế mới
Những người miền Nam may mắn rời Việt Nam vào năm 1975 không có cơ hội nếm trải khí thế cách mạng mà Huy Đức gọi là “được lãnh đạo bởi người mới từ trong rừng ra”, mang theo sự “quá tay” và “nhầm lẫn” cũng như nhập cảng các hình thức cai trị của các nước Cộng sản đàn anh để đày đọa đồng bào mình. Một trong các chính sách ấy là kinh tế mới. Tác giả kể:
“Ngày đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối đuôi nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con rất vui vì sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm thì hết đường. Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu thì tiến vào tới đó. Chập tối, đoàn xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn nghìn con người giữa rừng. Hôm sau, các gia đình được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ con đều phải đi chặt cây làm nhà. Đó là một khu vực đêm đêm Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người Thượng và dân kinh tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông Ana, cách đấy hàng cây số. Ông Tư Kết, thư ký riêng của ông Mai Chí Thọkể không có báo cáo nào là không nói về tình hình người tự tử… Nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay buôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn… Ăn hết tiền, hết gạo, nhiều người dân lục tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không còn, do đã bán đi trước đó hoặc do bị coi là nhà ‘vắng chủ’ đã bị ‘Cách mạng 30-4’ nhảy vào ‘chốt’ mất.”
Trước khi Huy Đức lên tiếng báo động về hình thức thanh trừng nầy, nhà báo Pháp Michel Tauriac cho biết ông đã từng đặt chân tới khu kinh tế mới Nhị Xuân, chỉ cách Sài Gòn 28 km về hướng tây bắc:
“Một con kênh giả tạo, cặp theo mỗi bờ kênh là các mái nhà lá rập khuôn nhau xếp hàng dài như được dàn dựng để lên ảnh. Chỉ còn thiếu hàng rào kẽm gai để giống tạc như một trại trừng giới. Không nước sạch, không điện. Còn chung quanh, sa mạc và cô lập. Từ năm 1979, hai ngàn con người bị ném vào đó. Đất đai khô cằn, nước phèn chua chát, nơi người ta thử trồng dứa và mía, để rồi thất bại. Đây là nơi lính Mỹ gọi là vùng oanh kích tự do, chưa một loài cây thực vật nào có thể đâm chồi. Nhưng những người Cộng sản có một đức tin: không có một định luật tự nhiên nào mạnh hơn Đảng. Ngót một triệu rưỡi hecta đất hoang phải làm thục, cho dù khoa thổ nhưỡng học muốn hay là không muốn. Cho dù bàn tay con người có thể hay bất khả. Không cần biết đám người nầy đã hay không hề được chuẩn bị thứ công việc đồng áng ấy.” (Hồ sơ đen của Cộng sản Việt Nam, ấn bản 08/2001 của NXB Plon, trang 70). Như thế, nếu Michel Tauriac gặp tác giả Bên Thắng Cuộc, hẳn ông phải đồng ý với Huy Đức khi nghe phát biểu: “Kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ không thể nào sống được”.
Đỉnh cao trí tuệ
Người Cộng sản mỗi khi mở miệng nói về mình, họ thường dùng 2 hình tượng, một, tự cho mình là hậu duệ của loài khỉ, và hai, họ là đỉnh cao trí tuệ – những nhà lãnh đạo đất nước mà “việc dự trữ lương thực của một thành phố như Sài Gòn có lúc chỉ còn đủ ăn vài ngày”.
Ở tiểu mục “Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng”, Huy Đức thuật lại lời cán bộ Vũ Đình Liệu: “Máy móc thu được của các nhà tư sản không những không tiếp tục làm ra của cải mà bị vất vào kho để cho tới khi hư hỏng”. Điều nầy được Trần Hồng Quân xác nhận:
“Khoảng cuối năm 1978, trung ương nhờ trường Đại học Bách Khoa cho sinh viên vào kho ‘hiện vật cải tạo’ để xem những máy móc trong đó có cái gì còn dùng được. Nhưng sinh viên thì chỉ biết mấy cái máy tiện, máy phay, những máy móc dùng trong công nghiệp nhẹ thì chưa bao giờ được tiếp xúc, nên không thể làm gì. Cuối cùng, trung ương ra lệnh tháo rã những chiếc máy đó ra, thu hồi những vòng bi làm phụ tùng, còn phần lớn thì dùng như phế liệu”. Bản cáo trạng “Bên Thắng Cuộc” viết: “Đây là những máy móc mà trước giải phóng đã giải quyết việc làm cho hàng vạn công nhân và làm ra biết bao của cải cho xã hội.”
Tháng 9-1975, cán bộ Nguyễn Quang Lộc được điều từ miền Bắc vào để nắm giữ các nhà máy của tư sản miền Nam. Được phân công tiếp quản hãng Bột giặt Viso của ông Trần Văn Khôi, ông Lộc đã tâm sự: “điều tôi lo nhất là những cán bộ từ miền Bắc vào”. Là kỹ sư, nhưng ông Lộc thú nhận chưa bao giờ nhìn thấy một dây chuyền sản xuất như ở Viso, ngoài ra, vào từ miền Bắc thiếu thốn, thấy cái gì trong nhà máy cũng có giá, không tránh khỏi thèm thuồng. Nhưng thay vì học hỏi, không ít kẻ ở đỉnh cao trí tuệ nầy lại tự cao, tự đại, chuyên môn chưa áp dụng được đã lo mót của. Cán bộ đã thế, nhà nước còn hơn thế. Ông Lộc nhìn nhận tình trạng cướp cạn:
“Nhà máy đã bị cơ chế quản lý xé nhỏ, các bộ cắt dọc, địa phương cắt ngang. Sáu mươi xe tải của Viso giao cho Bộ Giao thông Vận tải, hai máy phát điện giao Bộ Điện lực, khu liên hợp sản xuất nguyên liệu hóa chất giao cho Tổng cục Hóa chất, dây chuyền đóng gói bột giặt giao cho Bộ Công nghiệp nhẹ”.
Khi cần mấy cái bồn dự trữ nhiên liệu, thợ bậc bảy ngoài Bắc vào làm không được. Ông Lộc đành phải gọi một ông thợ người Hoa. Ông nầy bảo “Ngộ làm được. Cho ngộ năm thợ phụ, hai thợ hàn, hai thợ gò, mỗi ngày cho thêm hai bữa phụ bằng xôi và mấy két nước ngọt”. 15 ngày sau, toán thợ miền Nam nầy dựng xong 4 cái bồn đứng.
Trước 30 tháng Tư, Tái Thành Kỹ Nghệ là nhà máy dệt có công nghệ tân tiến nhất Sài Gòn. Chiếm được miền Nam, cộng sản đổi tên thành nhà máy Dệt Thành Công. Chưa tới hai năm sau, Thành Công đứng trước bờ vực thất bại, một số công nhân phải kiếm sống bằng cách tận dụng vải vụn, tơ rối để chế biến thành găng tay, búp bê nhồi, đan mũ, đan tất và làm đồ chơi hình thú nhồi vải vụn. Số lớn còn lại kể cả công nhân lành nghề, kỹ sư, thợ điện phải xuống Long An gặt mướn, ra Long Thành chăn bò, về Cà Mau làm ruộng, lên Đồng Nai, Sông Bé phá rừng làm rẫy trồng củ mì. Trong nội thành Sài Gòn, cán bộ cao cấp cỡ Tư Kết được chia chác tư dinh ở số 21 đường Duy Tân – cơ ngơi của tổng giám đốc hãng Esso – để ngài thư ký riêng của Mai Chí Thọ phá vườn bông trồng rau muống và dùng hồ bơi làm chỗ nuôi cá rô phi. Tất nhiên, mẩu chuyện nầy chỉ là một trong ngàn lẻ một chuyện có tên “giải phóng”.
Tiếu lâm tân thời
Dù không chống trả lại được miền Bắc vì Mỹ cắt quân viện, và dù tổng thống Dương văn Minh đã tuyến bố đầu hàng, không phải tất cả dân miền Nam đều đã đầu hàng như tổng thống của mình, hay quy phục đám người rừng mà Huy Đức gọi là “bên thắng cuộc”. Không vũ khí, dân miền Nam bèn chống Cộng bằng sự miệt thị đối phương. Không phải quá nhọc công, tác giả đã nghe tràn tai, và ghi lại ở hơn một chỗ trong sách, nên những mẩu chuyện bỉ ổi và bần cùng của miền Bắc lẽ ra nên được bưng bít đi, thì Huy Đức đã phơi bày lên giấy để làm bằng chứng lịch sử.
Năm 1987, trong cuốn Nỗi buồn Chiến tranh, Bảo Ninh, nhà văn bộ đội xuất ngũ từ tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn 10 thuộc mặt trận B-3 Tây Nguyên là người đầu tiên xác nhận chuyện cán bộ miền Bắc vào Nam hốt của cải, xẻ vụn, nhét đầy ba lô cõng về Bắc:
“Trên tàu Thống Nhất chuyến ấy [vào cuối mùa thu năm 76] toàn là thương phế binh và lính về vườn. Ba lô ken dày trên giá, võng chăng dọc ngang lòng toa biến đoàn tàu thành một bãi khách. Cảnh chợ chiều nhốn nháo, nháo nhào không khác gì lại một thứ tùy nghi di tản. Đã thế lại còn kiểm tra lên, kiểm tra xuống, lục lọi săm soi từng cái túi cóc ba lô tuồng như người ta cho rằng một núi của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư hao thất thoát, bị xâu xé, tranh đoạt, bị hốt vơ cào xúc cho đến sạch sành sanh là bởi anh bộ đội chứ không phải bởi bọn người nào khác…” Nếu Bảo Ninh khui việc chở cả núi của cải của miền Nam ra Bắc chỉ để thanh minh là hành động của các bộ đảng và chính quyền chứ không phải của lính tráng, thì Huy Đức phân tích kỹ càng hơn, khi viết “cuộc chiến tranh được nói là ‘giải phóng miền Nam’ đã nối nền kinh tế bị nhốt kín suốt hai mươi năm của miền Bắc với nền kinh tế thị trường ở miền Nam. Cuộc ‘Bắc tiến’ ngoạn mục của những chiếc quạt bàn, tủ lạnh, xe máy Honda đã phần nào giải phóng tư duy cho chính những người đã lãnh đạo chiến tranh…”
Không chỉ là thực tế không mấy thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần trong chiến tranh, chủ yếu bằng vải sợi xanh, cũng như hiếm phụ nữ nào có được cái quần lụa và chiếc áo bằng vải phin Hong Kong, tác giả còn phơi bày:
“Ước mơ của người Hà Nội trong thập niên 1970 là một chiếc xe đạp Thống Nhất, một cái quạt tai voi hay một đôi dép nhựa Tiền Phong. Tiêu chuẩn của các cô gái Hà Nội cũng thật là đơn giản: ‘Một yêu anh có may ô, Hai yêu anh có cá khô ăn dần, Ba yêu rửa mặt bằng khăn, Bốn yêu anh có chiếc quần đùi hoa’. Chỉ những người đạt các danh hiệu thi đua mới có thể được phân phối xe đạp. Xe đạp muốn lưu hành cũng phải đăng kí xin cấp giấy chứng nhận sở hữu và biển số xe. Cho đến cuối thập niên 1970, người dân miền Bắc muốn sở hữu radio cũng cần giấy phép.”
Chiếm xong miền Nam, bộ đội giải ngũ hoặc về phép thăm nhà ngoài Bắc, của cải tay xách tay mang ào ạt đến nổi thủ tướng chính phủ phải chỉ thị việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc cần được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề miền Bắc vào Nam vơ vét từ cái quạt máy đến đồng hồ, xe đạp được dân miền Nam cập nhật nhạc phẩm Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn thành “Từ Bắc vô Nam tay cầm bó rau; Tay kia cầm sợi dây, để bắt con cầy”, làm ông Lê Duẫn phải phân bua “con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới, đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”, cho dù trợ lý của thủ tướng Phạm Văn Đồng làm thơ phủ nhận giá trị của bất cứ gì ở phía tư bản, thậm chí, “Trăng Trung Hoa tròn hơn trăng nước Mỹ, Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ”.
Nhờ đức tính bình tĩnh, Huy Đức đã lắng nghe được các câu thơ và bài vè dân gian về chế độ. Ví dụ hồi tháng 8/1975 khi nhà nước đổi tên đường ở Sài Gòn, dân chúng đã nhanh chóng truyền khẩu câu thơ “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”, hay nói về quyền lực của công an: “Các-mác mà đến Việt Nam, Râu dài tóc rậm công an bắt liền. Các-mác cầu cứu Ăng-ghen, Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu. Truyền cho bốn biển năm châu: [Đến Việt Nam thì nhớ] Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin”, và về thực trạng cuộc sống nhân dân trăm bề khó khăn dưới sự lãnh đạo của đảng: “Cây đinh phải đăng ký, Trái bí cũng sắp hàng, Khoai lang cần tem phiếu, Thuốc điếu phải mua bông, Lấy chồng phải cai đẻ, Bán lẻ chạy công an, Lang thang đi cải tạo, Hết gạo ăn bo bo, Học trò không có tập…”, rồi đến tình hình tù chính trị về từ các trại cải tạo không thể xin việc làm trộn lẫn với sĩ quan cách mạng thất nghiệp: “Đầu đường đại tá bơm xe, Giữa đường trung tá bán chè đỗ đen, Cuối đường thiếu tá buôn kem…” một tình trạng thê thảm mà Huy Đức đành kết luận rằng “tinh thần của dân chúng dường như không còn có khả năng gượng dậy” và dẫn chứng bằng giai thoại tiếu lâm nầy:
“Một hôm, ba nhà lãnh đạo cao nhất của đảng đi chung một chuyến chuyên cơ, ngó xuống hạ giới thấy dân tình nheo nhóc, đói khát, mặt mũi thiểu não. Bỗng một người hỏi: ‘Bây giờ mình ném cái gì xuống thì đám dân ấy mới tươi tỉnh lên được nhỉ?’. Bác Đồng nói trước: ‘Chắc họ đang đói. Hãy ném cho họ mấy bữa cơm không độn’. Bác Chinh cho rằng: ‘Điều họ thiếu là lý tưởng. Hãy ném cho họ lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội’. Bác Duẩn lắc đầu: ‘Không phải! Không phải! Họ cần làm chủ tập thể’. Trong khi ba bác còn chưa thống nhất được nên ném gì cho dân thì anh phi công lái chuyến chuyên cơ rụt rè đề nghị: ‘Dạ thưa, cháu có ý kiến được không ạ?’. Ông Lê Duẩn nói ngay: ‘Tại sao không? Cứ phát huy dân chủ’. Bấy giờ anh phi công mới nói: ‘Dạ, muốn cho đám dân tình dưới đó reo vang hạnh phúc thì chỉ có cách là ném cả ba bác ra khỏi máy bay thôi ạ’.”
Kẽ hở của Bên Thắng Cuộc
Điểm son lớn nhất trong sách của Huy Đức là dám viết những gì mà người khác không dám viết, những điều mà dưới chế độ tàn bạo của Cộng sản, người ta chỉ dám thầm thì vào tai nhau. Qua Bên Thắng Cuộc, tác giả đã dùng ngòi bút điêu luyện của mình để lật ngữa những điều cấm kỵ, đẩy Lê Đức Thọ và Phạm Văn Đồng vào cương vị vật tế thần, để thần tượng hóa hai nhân vật Võ Văn Kiệt và Lê Duẫn – bằng cách dẫn lời của những người chứng khác. Nhưng, dẫn lời của người khác để làm lập luận cho mình khi không có điều kiện để kiểm chứng và suy luận là cửa ngõ mở rộng cho kẽ hở, sai sót. Cũng như bên thắng cuộc, sách Bên Thắng Cuộc đã không tránh được kẽ hở và sai sót.
Nhỏ, như tên của một vài tên tuổi miền Nam mà ai cũng biết: chủ nhà sách Khai Trí ở số 62 Lê Lợi, Sài gòn, do ông Nguyễn Hùng Trương thành lập năm 1952 cho đến khi bị “cách mạng” tước đoạt năm 1976 và đốt 60 tấn – chứ không là Nguyễn Văn Trương. Ông Trương bị bắt vào tháng 04/1976, vào nhà tù Chí Hòa nhiều năm, rồi xuất cảnh sang đoàn tụ với con trai ở Sugar Land, ngoại ô Houston. Năm 1996, cả tin vào chính sách đổi mới của chính quyền Việt Nam, ông đã quay về lại ở căn nhà số 237 Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) gần ngã tư Hai Bà Trưng để chờ nhà nước trao trả nhà sách – lời hứa không bao giờ được thực hiện – và mất ngày 11/03/2005. Sai sót nhỏ khác ở đoạn viết về họa sĩ tài danh Nguyễn Hải Chí: tên của người con gái ông Chu Tử được Huy Đức viết sai, chứng tỏ tác giả không hề tiếp cận nhân vật sống đang làm chủ căn nhà ở số 104 Công Lý, cũng không có dịp gặp Chóe trước khi anh ấy xuất cảnh đi chữa bệnh và mất trong vòng tay bè bạn tại thành phố Fairfax, Virginia, Hoa Kỳ. Nếu tìm hiểu lại, Huy Đức sẽ biết con gái của ông Chu Văn Bình (vợ họa sĩ Đằng Giao) tên thật là Chu Vị Thủy, thay vì Chu Thị Thủy.
Sai sót về địa danh: ở đoạn nói về người vợ tù cải tạo đi thăm nuôi, Huy Đức viết “May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước Tài thì đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.” Sau 30/04, người thua cuộc nầy có thời gian dài kiếm sống bằng nghề lơ xe, nhưng chưa hề nghe tới tên Phước Tài mà tác giả viết. Có lẽ Huy Đức muốn nói tới ngã ba Phú Tài ở Qui Nhơn, nơi Quốc lộ 1A có lối rẻ qua Quốc lộ 19 để đi Pleiku. Huy Đức có thể tự bào chữa rằng đó chỉ là các lỗ nhỏ. Vâng. Người Pháp nói lỗ nhò làm đắm thuyền. Nếu lỗ quá nhỏ so với công trình vĩ đại của tác giả, thì xin kể tiếp những mãng sai sót lớn hơn – những sự kiện được Huy Đức trích từ những nguồn bất khả tín để làm giảm giá trị một tác phẩm mà tác giả dày công tìm hiểu, ghi chép, suy nghĩ và chắt chiu.
Ở tiểu mục “Nhất Biên Đảo”, ngay bên dưới câu chuyện kể về văn bản hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại cho Khmer Đỏ được ký kết giữa Trung tướng Vương Thượng Vinh, phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, với Son Sen tại Phnom Penh ngày 10-2-1976, Huy Đức viết về việc chính phủ Hà Nội đánh mất cơ hội bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ rất sớm, sau khi Sài Gòn thất thủ chưa tới 2 năm.
Sách Bên Thắng Cuộc viết “Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock.” Nhà báo lừng danh gốc Ấn Độ Nayan Chanda không đồng ý như thế. Ở trang 139 của cuốn Huynh đệ Hận thù, ấn bản đầu tiên năm 1986, Chanda kể lại cuộc phỏng vấn mà Leonard Woodcock dành cho ông vào ngày 17/08/1984 tại Washington, rằng chính Nguyễn Duy Trinh dẫn xác tới nhà khách chính phủ vào tối hôm trước nơi Woodcock ở, để gặp người Mỹ.
Cũng may, chi tiết mà Huy Đức thuật lại lời ông Trần Quang Cơ cho rằng “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm phán là do chúng ta cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh” rất chính xác. Thái độ cứ gặp mặt người Mỹ là vòi vĩnh mà nhà văn Duyên Anh gọi bằng chữ “Giặc Ô kê”, xảy ra ngay trong lần Nguyễn Duy Trinh tới tìm, và nghe ông Woodcock mời mọc:
“Tôi hy vọng vào cuối cuộc viếng thăm của chúng tôi, chúng ta sẽ có thể đề ra căn bản cho một quan hệ bang giao gần gũi hơn”.
Nhưng ông ngoại trưởng, một con người miệng nhỏ như miệng cá và cặp mắt sắc sảo, là một mẩu người cứng rắn, đã trả lời cụt ngủn rằng không chung tiền theo tinh thần Hiệp định Paris thì không tin tức gì cả về người Mỹ mất tích. Woodcock chẳng vừa. Ông nầy phản pháo lại ngay rằng Hiệp định Paris đã bị khai tử từ khuya và vấn đề nên được giải quyết theo tinh thần nhân đạo:
“Chúng tôi không lặn lội từ nửa vòng trái đất phía bên kia tới đây để tham dự một cuộc khẩu chiến”.
Cuộc gặp gỡ đã kết thúc như thế.
Chưa đầy một tuần sau khi sách Bên Thắng Cuộc được phổ biến đến người đọc, tác giả đã vấp phải phản ứng mảnh liệt của các cựu quân nhân TQLC và Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa do đoạn mà Huy Đức trích lời của Phan Xuân Huy. Sáng 29/04/1975, binh sĩ TĐ12 Dù do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Nghiêm và thiếu tá tiểu đoàn phó Nguyễn Trọng Nhi chỉ huy vẫn chống trả quyết liệt ở khu vực ngã tư Hàng Xanh sát cầu Sài Gòn.
Ở mặt trận nầy không có đơn vị Biệt Động Quân như Phan Xuân Huy hư cấu. Thiếu tá Nghiêm cho biết
“Sau khi Dương văn Minh kêu gọi đầu hàng lúc 10:45 AM, Nguyễn Trọng Nhi lái xe vào trong thành phố để xem sao và cho biết đầy hổn loạn; Phú Lâm, Ngã tư Bảy Hiền đã xong. Không có ông Thiếu tá tên Chỉnh nào cả, cũng không một ai bén mảng đến gần cầu để tiếp xúc với chúng tôi. Chúng tôi quyết định không phá sập cầu. Sau đó tất cả chúng tôi rời vị trí lúc 12 giờ trưa ngày 30/04/1975.”
Chuyện cầu Sài Gòn đã không bị giật sập là thế. Việc dân biểu miền Nam Phan Xuân Huy tự gắn huy chương cho đóng góp của mình vào chiến thắng của tướng Văn Tiến Dũng bằng việc cộng tác với cụm điệp báo an ninh A10 của phía Cộng sản là chuyện để đảng Cộng sản xem xét lại. Nhưng biết bài phóng sự của Phan Xuân Huy đăng trên Tin Sáng “khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn từ ‘R’ về hoặc từ Bắc vào” mà vẫn trích, Huy Đức tự xếp mình thành cá mè một lứa với phịa sử gia Phan Xuân Huy khi cho phép tác phẩm của mình có những chi tiết sử liệu vô căn cứ như “phỏng vấn bà ‘LQL’, người vừa trở lại Sài Gòn sau chuyến thăm chồng là ‘Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến Ngụy’… ‘Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27/03 vừa qua’”.
Trong chiến tranh, tôi theo chân nhiều đơn vị VNCH, nhưng chiến trường rộng, khả năng giới hạn, chưa được gặp và quen thiếu tá Lê Quang Liễn, TĐ Phó TĐ7/TQLC. Tới Mỹ, tôi được hội thiện nguyện YMCA xin cho một chân lao động phổ thông ở hảng bào chế dược phẩm Alcon. Một năm sau, thêm một người tị nạn nữa được đưa vào phòng của tôi, đó là cựu quân nhân Lê Quang Liễn. Sau 18 năm, ông Liễn đã nghỉ hưu cách đây 2 năm. Khi kể lại đoạn văn Huy Đức nói về Lê Quang Liễn đầu hàng cho các bạn đồng sự người Việt ở hảng Alcon đọc, không ai tin ông Liễn là mẩu người chịu khuất phục kẻ khác vì bạo lực hay vũ khí. Ngay sau đó tôi đã tìm cách liên lạc với anh Phạm Cang, cựu tiểu đoàn trưởng TĐ7/TQLC, là cấp chỉ huy trực tiếp của ông Liễn, và với anh Phạm Vũ Bằng, cựu bác sĩ quân y TQLC, để kiểm chứng việc “toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27/03”. Các chi tiết xảy ra tại tọa độ 16° 32′ 19.56″ vỹ Bắc và 107° 41′ 22.81″ kinh Đông tức bãi biển thôn An Dương, xã Phú Thuận, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – nơi nhà báo Phan Xuân Huy và người vợ cũ của ông Liễn không có mặt là thế nầy: chiều hôm 25/03, TQLC giao tranh ác liệt với địch để dành các cao điểm sát bờ biển.
Trong trận nầy phía TĐ4 có đại đội trưởng Tô Thanh Chiêu tử trận, phía TĐ7 có 2 trung đội trưởng tử thương. Bản thân TĐ trưởng Phạm Cang cũng bị mảnh pháo 82 ly ghim vào mặt. Một số thường dân chạy theo lính đã trúng đạn chết, trong đó có sinh viên Lê Quang Thể 19 tuổi là em ruột ông Liễn. Sáng hôm sau, một quân vận đĩnh LCM vào gần bờ đón thương binh, TĐ trưởng Cang phân nhiệm cho TĐ phó Liễn hướng dẫn anh em đưa thương binh và tử sĩ của đơn vị xuống tàu tản thương. Dưới trận mưa pháo dày đặc của địch, tàu kéo cửa và lùi ra khơi trong khi Liễn còn kẹt trên tàu, chưa kịp mang xác em trai mình lên. Để thoát nạn, ông Liễn chỉ việc ở lại trên quân vận đĩnh với đồng đội bị thương, nhưng tiểu đoàn phó đã quyết định nhảy xuống nước, lội vào bờ, để tiếp tục chiến đấu với đồng đội.
Trên đường vừa đánh vừa rút xuôi Nam về phía cửa Tư Hiền, quân nhân TQLC lần lượt bị bắt sau khi hết đạn, không có chuyện đầu hàng như Phan Xuân Huy dựng đứng. Ngoài ra, khi nói lính TQLC “đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An”, Phan Xuân Huy tự chứng tỏ mình không có cả khái niệm sơ cấp nhất về hệ thống quân giai: các đơn vị TQLC triệt thoái không thành công khỏi cửa Thuận An là những người lính thuộc quyền của trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân đoàn 1 tại Huế. Vào những giờ phút dầu sôi lửa bỏng ấy của TQLC, chính ông Thi tự khai trong cuốn Thế kỷ Dài 25 Năm in tại Texas năm 2001:
“Tôi dùng trực thăng chở vợ tôi qua phi trường. Bà ấy đã cùng gia đình của tướng Khánh, tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân, đáp một trong những chuyến bay quân sự cuối cùng rời Đà Nẵng, dưới sự hộ tống dày đặc của quân cảnh. Đêm đó, quân Bắc Việt bắt đầu pháo vào thành phố và phi trường” (trg 361).
Có người đã công minh nhận định rằng câu nói bất hủ “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm” của ông Nguyễn Văn Thiệu đã được Huy Đức sử dụng như kim chỉ nam, và còn hơn thế. Qua sách Bên Thắng Cuộc, chúng ta thấy Huy Đức là mẩu người vừa nghe Cộng sản nói, vừa xem xét những gì Cộng sản làm. Đáng tiếc, khi phân tích về chế độ, xã hội và chính trị của miền Nam trước và sau ngày 30/04, Huy Đức đã dành rất nhiều đoạn, một cách trang trọng, để trích dẫn Đoàn Kế Tường như một nhân chứng lịch sử khả tín.
Huy Đức viết:
“Năm 1969, nhân Đại hội Văn – Nghệ – Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường nhờ Chu Tử xin cho về lại Sài Gòn làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều nhân vật có thế lực, đã nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường cuối năm ấy về Sài Gòn làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm cho báo Điện Tín. Tường kể: ‘Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám’” và ‘Ở Chí Hòa, tù nhân Đoàn Kế Tường đã từng tổ chức biểu tình ‘đòi đi tắm’ hay ‘Họ bị cai ngục dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Hòa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì” hoặc “Ông Tường kể tiếp: ‘Có lẽ những người ca ngợi sự kiên cường của tôi khi còn ở trong Chí Hòa muốn tôi mãi mãi là người hùng trong mắt họ. Còn những người ở phía khác thì cũng nhìn tôi khinh miệt như nhìn một kẻ chiêu hồi.’” hay “Tôi [ĐKT] trốn trình diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục quốc”.
Đoàn Kế Tường là một cựu thiếu sinh quân, năm sinh 1950. Tháng 7/1972, sau bài tường thuật trận đánh Phú Thứ sau lưng phi trường Phú Bài, Đoàn Kế Tường được đưa về Sài Gòn ra mắt tòa soạn Sóng Thần. Ở đây, Tường gặp Triều Giang, một ký giả của tờ báo, và 2 người lập gia đình với nhau. Triều Giang là con nuôi của ông Chu Tử. Nhờ vợ mình, Tường được ông CT giúp, vận động để được thuyên chuyển từ Tiểu đoàn 33 Pháo Binh thuộc Sư đoàn 3 đóng ở Vùng 1 Chiến Thuật, về thẳng Sài Gòn. Báo Đời không là báo quân đội. Đứng tên Chu Tử, nhưng người gồng gánh tờ tuần báo lại là Đỗ Qúy Toàn. Báo Sóng Thần do nhóm Hà Thúc Nhơn xuất bản, đứng tên nhà văn nữ Trùng Dương làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, và nhà văn Uyên Thao làm Tổng Thư Ký. Ông Chu Tử chỉ đứng tên làm chủ biên, và chịu trách nhiệm mục “Ao Thả Vịt”. Những hôm ông Chu Tử không viết, nhất là trong thời gian Chu Trọng Ly, con trai ông, quyên sinh, ông chỉ viết bữa đực bữa cái, và Uyên Thao là người viết Ao Thả Vịt.
Là người có thể trực tiếp đến nhà tù Chí Hòa để xin phỏng vấn, nếu Huy Đức thành tâm tìm hiểu, anh cứ hỏi và sẽ được cán bộ trại giam cho biết lịch sử người hùng duy nhất kiên cường “tổ chức biểu tình” đòi đi tắm trong tù là có thật, hay chỉ là sản phẩm giả tưởng của một tay khoác lác. Ngoài ra, cho dù ái mộ Đoàn Kế Tưởng, chẳng ai chứng minh được người hùng Chí Hòa nầy tìm đâu ra mấy năm để trám vào chỗ trống thời gian tính từ khi “người” rời trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, đi quân trường để trở thành sĩ quan, và ra đơn vị làm thiếu úy Biệt Kích, rồi đào ngũ để đầu thai làm hạ sĩ của tiểu đoàn 33 Pháo Binh 105 ly Tân lập dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Nguyễn Bảo Cường. Cứ vào văn khố quốc gia lục tìm các số báo Sóng Thần phát hành từ giữa tháng 6 đến cuối tháng 7/1972 độc giả sẽ thấy những tấm ảnh đầu tay do ĐKT chụp bằng máy ảnh Minolta SRT-101 ngoài chiến trường Trị Thiên, và lật lại các số báo Công an Tp HCM phát hành vào tháng 6/1986, để thấy rõ chân tướng của nhân vật nầy khi nhận đơn đặt hàng của Huỳnh Bá Thành để viết bài nói xấu sau lưng vợ mình (đã liều chết dẫn con vượt biên). Sau khi Tường rời Chí Hòa, nhiều người – trong đó có Ông Khai Trí – luôn cảnh giác và tìm cách tránh mặt “người hùng biểu tình trong khám đường Chí Hòa”, để khỏi bị công an bắt như Huỳnh Bá Thành đã còng tay Chóe.
Dù để dìm các nhà lãnh đạo Lê Duẫn và Võ Văn Kiệt xuống ngang với Phan Xuân Huy và Đoàn Kế Tường, hay để thăng hoa loại tầm thường lên ngang vai với tổng bí thư đảng Cộng Sản, tác giả Huy Đức cũng đã đầu tư quá nhiều, nhiều đến phải lấp liếm các tội ác của đảng Cộng sản trong việc thảm sát dân thường ở Huế hồi Tết Mậu Thân 1968, trên Đại lộ Kinh Hoàng hồi tháng 5/1972 và trên Liên Tỉnh Lộ 7B hồi trung tuần tháng 3/1975.
Chẳng ai cấm một đảng viên Cộng sản dành ra 20 năm trường kỳ mai phục và khổ luyện, nay nhận lệnh xuống núi viết sách để tuyên truyền cho chế độ, phong thánh bên thắng cuộc, và phỉ báng những người thua cuộc. Đáng tiếc, sứ mạng của nhà văn đã không trọn vẹn yêu cầu của đảng và nhà nước. Nếu khéo kết hợp chiêu thức khổ nhục kế và tinh vi hơn trong chiến thuật ngụy trang, không chừng Huy Đức đã thành công, để độc giả khó phát hiện được tham vọng của tác giả qua tác phẩm Bên Thắng Cuộc: vừa lừa dối người đọc, vừa tự lừa dối mình. Một nửa khúc bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thực không còn là sự thực. Lần nầy, đảng và chính phủ Việt Nam đã tính sai một nước cờ, khi hạ lệnh cho Huy Đức khai hỏa một trận Điện Biên Phủ mới, bằng bộ sách được tiền hô hậu ủng ồn ào, nhưng rốt cục chỉ làm người đọc thấy mình bị lừa phỉnh.
NgyThanh
One Comment
Nguyen Ngoc Bich
Xin cam on tac-gia Ngy Thanh ve mot bai diem sach that sac sao va kha cong-bang.