Jean-Marie Dayot Qua Những Bài Viết — Phần 1. Phục Vụ Nguyễn Ánh
Lời nói đầu : Tôi có viết bài « Monsieur Jean-Marie Dayot par les textes » bằng tiếng Pháp, cho đăng vào « Liên Kết Ngoại » (Lien externe) trên Wikipedia tiếng Pháp nói về J.M. Dayot. Bài viết có ý để người Pháp hay người ngoại quốc biết tiếng Pháp đọc, rồi để họ tự suy nghĩ lấy.
Nay tôi dịch thoáng qua bài đó, để độc giả người Việt đọc, nếu có thì giờ ; và nếu có thể, kính xin quý vị cho tôi ý kiến, để tôi được học hỏi thêm. Kính xin đa tạ.
Những trang dưới đây không có ý xem thường ông Jean-Marie Dayot hay những « Người Pháp phục vụ Gia Long »*, mà chỉ có ý lấy lại sự thật lịch sử. Để muốn biết rõ ràng cử chỉ, hành động của J.M. Dayot, tôi trích những đoạn bài viết về J.M. Dayot, của những nhân sĩ hay của những nhà sử học Pháp. Những đoạn trích nầy, ở dưới dạng « chép/dán », thành những lỗi về in ấn, chánh tả, văn phạm…, đều được để y nguyên.
*« Les Français au service de Gia Long », đề tài của những tác giả của Đô Thành Hiếu Cổ Xã (Amis du Vieux Huê).
Trên Wikipedia tiếng Pháp (tháng 05/2016) đã ghi những « thành tích » của J.M. Dayot giúp Nguyễn Ánh [xin đọc bài viết bằng tiếng Pháp của tôi]. Để tiện cho độc giả người Việt, tôi « chép/dán » ra đây những « thành tích » đó trên Wikipedia tiếng Việt (15/06/2017) [Wikipedia tiếng Anh lược dịch Wikipedia tiếng Pháp ; Wikipedia tiếng Việt lược dịch Wikipedia tiếng Anh]:
Jean-Marie Dayot
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jean-Marie Dayot (tên tiếng Việt: Nguyễn Văn Trí, 1759-1809)[1] là một sĩ quan Hải quân Pháp và là một trong những nhà phiêu lưu đã phục vụ Nguyễn Ánh, người mà sau này là hoàng đế Gia Long của Việt Nam.
Xuất thân từ một gia đình gốc Bretagne định cư ở Ile Bourbon, Jean-Marie Dayot sinh ở Port Louis, Ile Maurice. Ông trở thành một đại úy hậu cần trên tàu (auxiliaire Lieutenant de vaisseau) trong Hải quân Hoàng gia Pháp. Ông gặp Bá Đa Lộc tại Ile Bourbon hoặc Pondicherry, và được giao nhiệm vụ chỉ huy một trong hai tàu buôn cùng với các tàu chiến Méduse của Bá Đa Lộc đi đến Việt Nam.[2](1)
Tham gia phục vụ Nguyễn Ánh, năm 1790 ông chỉ huy một đơn vị Hải quân gồm có hai tàu chiến kiểu châu Âu của Nguyễn Ánh. Năm 1792, ông tham gia vào một trận hải chiến chống Tây Sơn, đánh chìm 5 tàu chiến, 90 thuyền kiểu và khoảng 100 tàu thuyền nhỏ hơn. Năm 1793, tại một trận hải chiến ở Quy Nhơn ông thu được khoảng 60 thuyền kiểu khoảng 100 thuyền kiểu Galê của Tây Sơn.[2] (2)
Ngoài ra, Dayot còn thực hiện các công việc trong lĩnh vực thủy văn, làm ra rất nhiều bản đồ bờ biển Việt Nam, mà người vẽ là người em trai của ông, Félix Dayot.[3]
Năm 1795, thuyền của Jean-Marie Dayot bị mắc cạn, vì việc này ông bị kết tột sơ suất và bị phạt gông. Tức giận, ông rời khỏi Đông Dương.[2] (3)
Jean-Marie Dayot sau đó định cư ở Manilla, nơi mà ông buôn bán với México. Ông chết khi thuyền của ông chìm ở Vịnh Bắc Bộ năm 1809. (4) Em của ông, Félix Dayot, chết vào năm 1821 ở Macao
Trên Wikipedia tiếng Anh còn cho thêm:
Born (Sanh): 1759. Port Louis, Ile Maurice.
Died (Chết): 1809. Vịnh Bắc Việt, Việt Nam.
Allegiance (Tuyên thệ trung thành) : Pháp, Việt Nam. (5)
Service/branch (Phục vụ/Binh chủng) : Hải Quân Pháp. Hải Quân Việt Nam.
Rank (Cấp bậc) : Đô Đốc Hạm Đội Nam Hà và Chỉ huy các chiến hạm Pháp của An Nam (6) (Admiral of the Fleet of Cochinchina and Commandant des bâtiments français de l’Anam (sic)).
Battles/wars (Tham dự chiến trận) : Qui Nhơn 1972. (8)
Cũng trên Wikipedia tiếng Việt nói về Olivier de Puymanel, cùng ngày (15/06/2017) có cho :
Puymanel được ghi nhận là đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn,[7] còn Jean Marie Dayot thì lo về thủy quân. Kết quả của nó là việc du nhập kỹ thuật quân sự Châu Âu vào Việt Nam.[8]
Trên Wikipedia tiếng Pháp cho thêm :
Jean Baptiste Marie Dayot (1760-1809)2 était un officier de la Marine française et un explorateur, (et non un aventurier) qui vint au service de Nguyen Anh, futur empereur Gia Long d’Annam (aujourd’hui Viêt Nam).
(Jean Baptiste Marie Dayot 1759-18092 là một sĩ quan Hải quân Pháp và là một nhà thám hiểm, (chứ không phải một nhà phiêu lưu) đã phục vụ Nguyễn Ánh, hoàng đế Gia Long sau nầy của An Nam (Việt Nam ngày nay).
Naissance (Sinh) : 1760, tại Redon, Pháp
Décès (Chết) : 1809, Vịnh Bắc Việt
Allégeance (Thề trung thành) : Vietnam (tháng 05/2016). Sau đó sửa lại Tuyên thệ trung thành : Royaume de France (Vương Quốc Pháp), Việt Nam (tháng 12/2016)].
Grade (Cấp bậc) : Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l’Annam (Đại Đô Đốc của Hạm Đội An Nam và Chỉ huy các tàu Pháp của An Nam
Conflits (Chiến trận) : Bataille de Qui Nhon (1792) (Trận Quy Nhơn (1782)
Distinction (Vinh thăng) : Marquis de Tri Lüoc (Trí Lược Hầu)
Autres Fonctions (Chức vụ khác) : Délégué Impérial (Mandarin) (Khâm sai (Quan)
Famille (Gia đình) : Laurent Dayot, son père. Le Comte d’Ayot, son frère. Thomas Dayot, son oncle (Cha là Laurent Dayot. Anh/Em là Bá tước d’Ayot. Chú/Bác/Cậu là Thomas Dayot)
Bản Đồ Sàigòn
Có đề : Plan de la Ville de Saigon fortifiée en 1790 par le colonel Victor Olivier. Réduit du grand plan levé par ordre du Roi en 1795 par Mr. Brun, ingénieur de sa majesté. Par J.M. Dayot 1799.
(Bản đồ thành phố Sàigòn củng cố bởi đại tá Victor Olivier năm 1790. Thâu lại bởi J.M. Dayot, năm 1799, từ một sơ đồ lớn do ông Brun, kỷ sư của hoàng gia, vẽ theo lệnh Vua, năm 1795.
Jean-Marie Dayot (trái) em trai Félix Dayot (phải)
Bản đồ vẽ cảng Qui Nhơn của Jean-Marie Dayot (1795)
Chú thích
^ Salles, p.199
^ a ă â Mantienne, p.154
^ Mantienne, p.156
Tham khảo
Mantienne, Frédéric 1999 Monseigneur Pigneau de Béhaine, Editions Eglises d’Asie, 128 Rue du Bac, Paris, ISSN 12756865 ISBN 2914402201
Salles, André 2006 Un Mandarin Breton au service du roi de Cochinchine, Les Portes du Large ISBN 291461201X
Trên đây là chuyện «bóp méo lịch sử», nhưng khốn nạn thay, sự «bóp méo lịch sử » nầy được lập đi lập lại, phổ biến rộng rãi, tô màu phóng đại, bịa chuyện đặt điều, thêm sau bớt trước, bởi một số lớn sử gia và tác giả thực dân Pháp. Một số đông sử gia Việt Nam, vì thiếu tài liệu, lại dựa vào đó, lấy xuất xứ để viết bài, viết sách sử.** Nhiều thế hệ học sinh, sinh viên, trong đó có tôi, đã học những điều sai lạc đó. Có lẽ vì trước năm 1975, các vị biết rất ít về các cuốn chánh sử của Việt Nam như Đại Nam Thực Lục Chánh Biên 大南寔錄正編 (ĐNTLCB), gồm trên 10 000 trang. Tác phẩm nầy được dịch ra tiếng việt vào năm 1978, do nhà xuất bản của Viện Khoa Học Xã Hội, Hànội (tái bản lần thứ nhất vào năm 2001 – ĐNTLCB2001 – Thực Lục); hay những cuốn Đại Nam Liệt Truyện 大南列傳 (ĐNLT), Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ*** 欽定大南會典事例 (KĐĐNHĐSL), được dịch sang tiếng việt năm 1993 (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế)…
** Ngay cho một sử gia nổi tiếng, mà nhiều người cho rằng khá trung thực, đã viết một cuốn sử trước năm 1975, tại Sàigòn, và được in lại tại Việt Nam, năm 2007 ; hay một bộ sử mới về Việt Nam gồm 5 tập được phát hành tại Mỹ, năm 2013, cũng đều chịu ảnh hưởng của những tác giả, sử gia thực dân Pháp nói trên.
*** Những cuốn ĐNTLCB, ĐNLT, KĐĐNHĐSL đều viết bằng chữ Hán, nhưng đôi khi xen vào chữ Nôm để đọc được tiếng Việt. Như chữ « gạo » được viết là ?, chữ nầy do 2 chữ Hán : chữ 米 mễ/mǐ (gạo) để cho nghiã, và chữ 吿 cáo/gào (thông tin) để cho âm gạo trong tiếng Việt ; cùng những cấu trúc văn phạm việt nam, như người Việt nói « nhà trắng » 家壯, còn người Trung quốc nói « bạch ốc » 白屋 bái wū (trắng nhà)…
Những cuốn chánh sử trên là những tài liệu gốc đầu tay, được ghi lại một cách trung thực bởi các đại thần khoa bảng, thuộc các đại gia đình nổi tiếng lâu đời. Hiện giờ các sử gia của toàn thế giới đều tham khảo các cuốn sử trên một cách trân quý. Cũng vì vậy mà sau hơn 200 năm, giáo sư Nguyễn Quốc Trị, cựu giám đốc viện Quốc Gia Hành Chánh Sàgòn, đã tố cáo những bịp bợm của các sử gia và tác giả thực dân Pháp viết về sử Việt Nam, trong tác phẩm « Nguyễn Văn Tường (1824-1886) và Cuộc chiến chống Đô Hộ Pháp của nhà Nguyễn », xuất bản tại Maryland, Hoa Kỳ, năm 2013. Ông Nguyễn Quốc Trị đã để ra trên 12 năm để đi khảo cứu tại các thư viện, văn khố ở Mỹ, Âu Châu và nhất là ở Pháp. Ông đã tham khảo trên 400 tài liệu, so đi sánh lại rất tỷ mỷ để viết tác phẩm của ông gồm 2 tập, trên 1 500 trang. Theo chiều hướng đó, bà Thụy Khuê, một nhà khảo cứu về lịch sử và văn học Việt Nam, ở gần Thư Viện Quốc Gia Pháp tại Paris, sau khi đọc tác phẩm của Nguyễn Quốc Trị, cũng khảo cứu thêm và cho phát hành cuốn « Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long », vào tháng 9 năm 2015, tại Paris.
Sau khi các cuốn chánh sử Việt Nam được dịch ra tiếng việt, một số trí thức, như Nguyễn Duy Chính, Triệu Minh Di, Võ Hương An, Nguyễn Văn Lục… đã viết lại sử Việt, dưới dạng những bài viết được đăng trên Internet.
Tôi là dân Pháp rất kính trọng nước Pháp, một nước có một nền văn hóa rất cao, có những người con nổi danh và được kính nể trên toàn thế giới. Nước Pháp không cần những loại sử bịp bợm như trên để được nổi tiếng.
Tôi sẽ cố gắng tuần tự, trong giới hạn hiểu biết của tôi, đánh giá lại những điểm mà tôi đã ghi trên, bằng dẫn chứng các tài liệu của các sử gia, học giả Pháp. Bài viết nầy, một phần lớn dựa vào những tài liệu tìm thấy trong tác phẩm của ông Nguyễn Quốc Trị.
A. J.M. Dayot phục vụ Nguyễn Ánh
I- Đô Đốc (Đại Đô Đốc theo Wikipedia tiếng Pháp)
« Đô Đốc Hạm Đội Nam Hà. Tư Lệnh các chiến hạm An Nam [Wikipedia tiếng Pháp cho Đại Đô Đốc (Grand Amiral) ». Mục (6) và (7) ở trên.
Hãy đọc ông Louis-Eugène Louvet trong cuốn La Cochinchine Religieuse, tome I. Pièces justificatives (Đạo giáo (Kitô giáo La Mã) ở Nam Hà, tập I. Tài liệu chứng minh). Nhà xuất bản Ernest Leroux, Paris, 1885, trang 532-533 :
«Văn bằng (diplôme) [Sắc bổ nhiệm] **** của ông Dagot (sic) (Dayot) do Vua Nam Hà cấp.
Hoàng thượng nhận thấy sự trung thành và lòng sốt sắng trong việc làm của Jean-Marie Dagot (Dayot), quốc tịch Pháp, và đặc biệt chú ý đến thiện chí mà y đã chứng tỏ khi đến từ rất xa để phục vụ trong ngành thủy binh của hoàng gia, Hoàng thượng xét thấy y xứng đáng được chọn, và với văn bằng này, cho làm thủ lĩnh các con tàu của hoàng gia (capitaine de ses vaisseaux) (a) và cùng lúc cho chỉ huy một đơn vị gồm hai con tàu của hạm đội hoàng gia, là tàu Đồng Nai và tàu Le Prince de Cochinchine [tôi không biết tên việt của con tàu nầy] với chức Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu. Hoàng thượng hy vọng sau nầy, khi có dịp, Jean-Marie Dagot (Dayot), sẽ chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh để điều khiển các tàu được giao phó, và sẽ được tin cậy nếu y nghiêm chỉnh áp dụng quân lệnh. Nếu vì phạm lỗi, không đáp ứng những mong đợi trong vị trí quan trọng này của y, thì y sẽ bị nghiêm trị theo luật pháp.
Ngày thứ 15, tuần trăng thứ 5, năm Cảnh Hưng thứ 51, (tại Sài Gòn, ngày 27/6/1790) »
**** Tôi không có Sác bổ nhiệm bằng chữ Hán hay chữ Nôm. Đây là tôi lược dịch đoạn nầy bằng tiếng Pháp trong sách của Louvet nói trên. Bản dịch nầy, tôi có lấy vài câu trong bản dịch của bà Thụy Khuê, vì bà dịch rất hay, rất chính xác, khó mà dịch hay hơn được [Thụy Khuê, chương 16 : IV].
(a) : Louvet viết : « … Sa Majesté l’a jugé digne d’être choisi, et le constitue, par ces présentes, capitaine de ses vaisseaux, lui confiant, en même temps, le commandement en chef de la division de deux de ses bâtiments, le Dong-naï, et le Prince de Cochinchine… ». Đã thủ lĩnh các con tàu của hạm đội, còn đồng thời chỉ huy thêm hai chiếc của hạm đội đó, thì thật là vô nghiã.
Theo Louvet thì «văn bằng » nầy do Olivier de Puymanel dịch từ bản chữ Hán ra tiếng Pháp, nhưng tôi không tin vì những lá thư của Olivier viết, đều đầy lỗi chánh tả và văn phạm [Xem Cadière. Leur Correspondance (Thư từ của các người Pháp giúp Gia Long). BAVH, tập IV, 1926, trang 363 và tiếp theo]
Vô tình hay cố ý, Louvet dịch hai chữ Cai Đội (該隊) thành câu « Capitaine de ses vaisseaux » (thủ lĩnh các con tàu của hoàng gia) [xem (a) ở trên]. Sự sai lầm nầy được linh mục Léopold Cadière, một trong những sáng lập viên và là tổng biên tập của tập san « Đô Thành Hiếu Cổ Xã 都城好古社 » (Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH) sửa lại trong bài Les Français au service de Gia-Long. Leurs Noms, Titres et Appellation annamites, BAVH (Những người Pháp phục vụ Gia Long. Họ Tên, Tước Vị và Tên Việt) tập I, 1920, trang 166, sau khi tham khảo lại văn khố ở tòa Tổng Giám Mục Sàigòn, còn Henri Cosserat thì bỏ luôn chữ « ses » (Capitaine de ses vaisseaux) và câu đó biến thành «capitaine de vaisseau » (Hải Quân Đại Tá) [xem Cosserat. BAVH, Tập III, 1917, trang 179].
Theo Nam Thực Đại Lục Chánh Biên, Thế Tổ Cao Hoàng Đế 大南寔錄正編 世祖高皇帝 tháng 4 năm Giáp Tý (tháng 5 năm 1804) hay Thực Lục, tập 1, trang 545 đến 548, thì các văn, võ quan được liệt vào 9 phẩm trật. Mỗi phẩm trật còn có Chánh, Tòng (tất cả là 18 cấp). Chức Cai Đội thuộc về Chánh Lục Phẩm hay Tòng Ngũ Phẩm, tương đương với cấp Thiếu Úy trong quân đội ngày nay. Lúc bấy giờ, quân đội của Nguyễn Ánh gồm có 5 đạo quân là Trung Quân, Tả Quân, Hữu Quân, Tiền Quân và Hậu Quân, cọng (cộng) với Tượng Quân và đạo Kỵ Binh (trâu được từ từ thay thế bằng ngựa) cùng một hạm đội Hải Quân. Đơn vị cơ bản là Ngũ 伍 gồm có 5 người ; Thập 什 gồm 2 Ngũ (10 người), được cai quản bởi một Đội Trưởng 隊長 ; Đội 隊 gồm từ 4 đến 6 Thập (khoảng 50 người), cai quản bởi một Cai Đội 該隊, đó là trường hợp của J.M. Dayot [Thực Lục, tập 1, trang 233].
Cấp bậc chính thức do Cadière tìm được ở văn khố tòa Tổng Giám Mục Sàigòn là Khâm Sai Cai Đội Trí Lược Hầu quản chiếu tàu nhị chích 欽差該隊智略侯管照艚二隻. Linh mục Cadière dịch là Đại Đội Trưởng (Đại Đội – Compagnie, gồm khoảng 240 người ; thật ra là Tiểu Đội – Section, gồm khoảng 60 người [Xem Grades et Unités de l’Armée Française en 1914, trên Internet]), Đại Diện Hoàng Gia, Trí Lược Hầu, chỉ huy 2 con tàu (Commandant de compagnie, délégué royal, marquis Trí Lược, commandant de 2 navires). Chữ Tàu 艚 là chữ Nôm, gồm chữ Hán 舟 (Chu = tàu) cho nghiã và chữ Hán 曹 (Tào = công sở) để cho âm Tàu trong tiếng việt ; người Việt nói là « quản chiếu » (cai quản), người Trung quốc nói là « chiếu quản » 照管 (zhào guăn) [Từ Điển Trung-Pháp. Chine-Nouvelle.com, trên Internet].
Hai chữ «Khâm Sai » (người vua sai đi) (mục (10) ở trên) được ban cho những người nhận lệnh trực tiếp của vua hay hoàng đế, nhất là những người có dịp tiếp xúc với người ngoại quốc, như trường hợp của J.M. Dayot hay những người Âu Châu khác, vì họ nói được tiếng ngoại quốc như tiếng Anh, Pháp, Bồ, Y Pha Nho, và được đua đi ra nước ngoài để buôn bán, trao đổi hàng hóa : bán những sản phẩm quốc nội để đổi hay mua những khí cụ về quân sự (chiến hạm, súng ống, thuốc súng…).
Cùng ngày 27/06/1790, Nguyễn Ánh còn bổ nhiệm 4 người Pháp khác, đặt dưới quyền của J.M. Dayot, và giao cho họ một công tác. Bốn người nầy là Philippe Vannier, Cai Đội Chấn Thanh Hầu, thuyền trưởng chiếc Đồng Nai ; Julien Girard de l’Isle Sellé, Cai Đội Long Hưng Hầu, thuyền trưởng chiếc Le Prince de Cochinchine ; Jean-Baptiste Guillon, Phó Cai Đội Oai Dõng Hầu và Guillaume Guilloux, Phó Cai Đội Nhuệ Tài Hầu. Hai người sau cũng thuộc thủy thủ đoàn của hai chiếc tàu nói trên [Louvet, sđd, trang 534 – 538].
Chắc độc giả lấy làm ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Ánh phong tước « Hầu » (mục (9) ở trên) cho những người Pháp mới được bổ nhiệm với chức Cai Đội, Phó Cai Đội mà phẩm hàm thì chỉ tới Tòng Ngũ Phẩm là cùng, trong khi Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao của Louis XVI chỉ có tước Bá (Comte de Montmorin) hay Bá Tước Conway, Thống Đốc các cơ sở Pháp tại Ấn Độ và Ile de France năm 1789… Chuyện là do tuyên truyền chính trị : Kẻ địch của Nguyễn Ánh là Tây Sơn, mà Tây Sơn lại phong chức tước Đô Đốc, Đại Đô Đốc rất rộng rãi cho hải phỉ trong vùng, vì họ là đồng minh của Tây Sơn. Chẳng những tước « Hầu » mà còn những tước cao hơn như « Vương », « Công », như Lương Khuê Hiệp với chức Đô Đốc, tước Hiệp Đức Hầu hay Mo Guan Fu 莫觀扶 (Mạc Quan Phù) với chức Đại Đô Đốc, tước Đông Hải Vương 東海王[Xem Murray, Dian H. Pirates of The South China Coast 1790-1810. Calif : Stanfort University Press, 1987, trang 33 đến 36, và Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, 歷朝憲章類誌 của Phan Huy Chú (do Viện Sử Học Hànội dịch, tái bản lần thứ 5, năm 2005), trang 610, cùng Việt Thanh Chiến Dịch. Vai trò của Hải Phỉ trong chiến thắng Kỷ Dậu của Nguyễn Duy Chính, 02/2004, trên Internet].
Lúc bấy giờ, Việt Nam có những tước như sau (từ trên xuống dưới) là Vương, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Những tước đó không được cha truyền con nối, mà phải tự mình làm những việc phi thường, ích quốc lợi dân. Chính Nguyễn Ánh cũng thừa nhận vì phải cạnh tranh với Tây Sơn, nên phong tước « Hầu » cho rất nhiều người, nhưng những tước Công (có ba bậc : Quận Công, Công và Quốc Công) thì chỉ để phong cho các đại thần và võ tướng có rất nhiều công trạng. Cũng vì thế Nguyễn Ánh đã quy định lại sự phong tước năm 1804 [Thực Lục, tập 1, trang 545 đến 548]. Dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, tước chỉ được phong cho các đại thần, danh tướng, từ tam phẩm trở lên và có công trạng lừng lẫy, như Tướng Nguyễn Tri Phương với rất nhiều công trạng và chiến tích, được bổ nhiệm làm Công Bộ Thượng Thư với tước Tráng Liệt Tử và sau khi vua Thiệu Trị băng hà, Ông được chỉ định làm Phụ Chánh Đại Thần với tước Tráng Liệt Bá [Thực Lục, tập 7, trang 39]. Linh mục Cadière nói dưới triều Nguyễn Vương, tước « Hầu » tràn đầy khắp nơi (les marquis semblent avoir pullulé sous Gia Long) [Cadière. BAVH, tập I, 1922, trang 169].
Các tước « Hầu » được phong cho những « người Pháp phục vụ Gia Long » đã làm hoa mắt các sử gia và các tác giả thực dân Pháp, nên họ thần thánh hóa những hành động và cử chỉ của những người nầy.
Thời đó, Tây Sơn và Nguyễn Ánh phong tước cho nhiều người, nên thường lệ lấy tên của người đó rồi thêm vào một mỹ tự để phong tước cho họ. Hầu hết tên người Việt đều có nghiã. Cha mẹ thường chọn những tên hay cho con cái, như Anh, Dũng, Huy… Trí là tên việt của J.M. Dayot (Nguyễn Văn Trí), rồi thêm vào chữ Lược để thành ra Trí Lược Hầu. Thât ra tước Trí Lược Hầu không gì to tát, đặc biệt cả.
Một số sử gia và tác giả Pháp cho rằng J.M. Dayot được Nguyễn Ánh ban cho họ của nhà vua. Thật ra không phải thế. Người ta ước chừng 40% người Việt mang họ Nguyễn. Họ Nguyễn của Dayot không phải là họ của nhà vua. Họ của nhà vua, lúc bấy giờ, không cho phép người dân dùng tới. Họ của hoàng gia là Nguyễn-Phúc/Phước 阮福, chữ 福 có hai âm, âm Phúc từ Thanh Hóa trở ra Bắc, và âm Phước từ Thanh Hóa (gồm cả Thanh Hóa) trở vào Nam. Nguyễn Ánh là tên người Pháp đặt cho, và một số sử gia Việt Nam cứ theo đó mà gọi. Tên thật của Nguyễn Ánh là Nguyễn-Phước Ánh 阮福映. Những tên Tỉnh, Phủ, Huyện được dùng để phong cho những người trong hoàng gia, như Công Tử (sau được phong là Hoàng Tử) Nguyễn-Phước Hạo (anh cả của Nguyễn Ánh) mất ở trận tuyến, đưọc phong tước Tương Dương Quận Công. Tương Dương là một trong bốn huyện của phủ Trà Lân, thuộc tỉnh Nghệ An. Các sử gia và tác giả thực dân đã thổi phồng tước « Hầu » của Dayot (và của các « người Pháp giúp vua Gia Long ») để đưa anh ta lên cương vị Đại Đô Đốc [theo wikipedia tiếng Pháp, tháng 05/2016].
Một Cai Đội với phẩm hàm cao nhất là Tòng Ngũ Phẩm [thứ 9 trong 18 phẩm cả thảy], không thể là một Đại Đô Đốc của Hạm Đội Nam Hà ! Ngay cho một sĩ quan cao cấp chỉ phụ trách 2 chiến hạm cũng không thể là Đại Đô Đốc. Vậy chức vụ nào để gọi một sĩ quan cao cấp phụ trách 10 hay 100 chiến hạm ? Thủy Sư Đô Đốc lúc bấy giờ là Tướng Nguyễn Văn Trương, chỉ huy trưởng toàn thể hạm đội của 5 dinh (trên 1 000 chiếc) với hàm Tòng Nhất Phẩm : Giám Quân Trung Dinh, Chưởng Cơ, quản Thủy Binh 5 doanh [Thực Lục, tập 1, trang 410]. Ông được bổ nhiệm làm Tổng Trấn Bắc Thành năm 1803, và Tổng Trấn Gia Định Thành, năm 1805 [Thực Lục, tập 2, trang 144]. Ông được thờ tại Hữu Tòng Tự trước Thế Miếu và được phong tặng là Tá Vận Công Thần, Đặc Tấn Tráng Võ, Đại Tướng Quân, Đô Thống Phủ Chưởng Phủ Sự, Thái Bảo, Đoan Hùng Quận Công, 佐運功臣 特進壯武 大將軍 都統府掌府事 太保 端雄郡公 [Xem Léon Sogny. Les Associés de Gauche (đúng ra là de Droite) au culte du Thế Miếu. BAVH, tập II, 1914, trang 135].
II. Phục vụ cho Nguyễn Ánh
Trở lại mục (1) ở trên : Ông trở thành một đại úy hậu cần trên tàu (auxiliaire Lieutenant de vaisseau) trong Hải quân Hoàng gia Pháp. Ông gặp Bá Đa Lộc tại Ile Bourbon hoặc Pondicherry, và được giao nhiệm vụ chỉ huy một trong hai tàu buôn cùng với các tàu chiến Méduse của Bá Đa Lộc đi đến Việt Nam.[2] (1).
Trong cuốn Les Français en Cochinchine au XVIIIe Siècle : Mgr Pigneau de Béhaine, Evêque d’Adran. Pièces Justificatives (Người Pháp tại Nam Hà vào thế kỷ thứ 18 : Giám Mục Pigneau de Béhaine. Tài liệu chứng minh), Nhà Xuất Bản Augustin Challamel, 1891 Paris, trang 201, tác giả Alexis Faure rất mơ hồ về chức vụ của Dayot*****. Tên của ông ta không nằm trong danh sách những thủy thủ bị đưổi hay đào ngũ, của 12 chiếc tàu chạy trên các biển Ấn Độ, Việt Nam (Đông Hải) và Trung Hoa, mà Faure đã kiểm lại trong thời đó. Faure viết Dayot là Hải Quân Đại Úy dự bị/phụ tá thuộc địa (Lieutenant de Vaisseau auxiliaire du cadre colonial) (b) (Pondichéry ?), nhưng Dayot chỉ huy những thương thuyền nhỏ. Chúng ta cũng biết sĩ quan thuộc địa, nhất là dự bị/phụ tá, được đào tạo một cách sơ sài, cốt để chỉ huy các lính người bản xứ, vì thiếu sĩ quan, Những Trung Sĩ (Second-Maître) hay Trung sĩ Nhất « Maître », có thể trở thành sĩ quan cấp Úy thuộc địa [Xem Voir Recueil général des lois, décrets, ordonnances, etc: depuis le mois de Juin 1789 jusqu’au mois d’Août 1830. Odilon Barrot. Tome 6. Editeur : A l’Administration du Journal des Notaires et des Avocats, rue Condé, n° 10, 1839, Paris, trang 280]. Một sĩ quan hay cho là thuyền trưởng một tàu cận duyên không thể nào có đủ chuyên môn để trở thành Hải Quân Đại Úy. Thôi thì cứ cho Dayot là Hải Quân Đại Úy dự bị/phụ tá thuộc địa (Pondichéry ?).
***** Cả Philippe Vannier và Julien Girard de l’Isle Sellé cũng thế [Faure. Les Français en Cochinchine, sđd, trang 217. Vannier tự xưng mình là « nhân viên của Hải Quân Pháp » [Salles. BAVH, sđd, tâp II, 1935, trang 143].
(b) : Officier auxiliaire = Sĩ quan dự bị/phụ tá là những sĩ quan thương thuyền, thường là những Capitaine au Long Cours (văn bằng Hàng Hải Thương Thuyền cao nhất thời đó) được Hải quân tuyển dụng, vì thiếu sĩ quan do môt lý do, hoàn cảnh nào đó, vào cấp bậc Enseigne de Vaisseau de 1ère Classe Auxiliaire (Hải Quân Trung Úy Dự Bị/Phụ Tá), sau 2 năm được lên cấp Lieutenant de Vaisseau Auxiliaire. Không thấy những người có bằng Hàng Hải Thương Thuyền thấp hơn được bổ làm sĩ quan (officier) [Xem Les Annales Maritimes et Coloniales publiées par MM Bajot et Poirré. Depuis l’origine jusques et y compris 1841. Imprimerie royale. Paris, Juillet 1843].
Nhân cơ hội nầy, tôi xin nói sơ về các sĩ quan Hàng Hải Thương Thuyền của Pháp :
Trước khi đào tạo những sĩ quan đa ngành (cùng một sĩ quan mà vừa điều khiển tàu, vừa lo về máy), sĩ quan được chia la làm hai ngành, sĩ quan điều khiển tàu và sĩ quan lo về máy. Trên các thương thuyền viễn dương (au long cours), các sĩ quan phải có bằng Capitaine au Long Cours (điều khiển tàu) và Officier Mécanicien de 1ère Classe (lo về máy), trên nguyên tắc có thuyền trưởng, phó thuyền trưởng (phải trực ban (faire le quart) 3 giờ một ngày) và 3 sĩ quan (đệ nhất sĩ quan, đệ nhị sĩ quan và đệ tam sĩ quan – 1er lieutenant, 2e lieutenant, 3e lieutenant). Mỗi sĩ quan phải trực ban 7 giờ trong một ngày. Ở dưới hầm máy thì có trưởng máy, phó trưởng máy, và 3 sĩ quan về máy. Còn trên các thương thuyền cận duyên (cabotage) thì các sĩ quan điều khiển tàu có thuyền trưởng, phó thuyền trưởng và một sĩ quan, đôi khi có 2 sĩ quan (đệ nhất, đệ nhị sĩ quan – 1er lieutenant, 2e lieutenant) với bằng Capitaine de la Marine Marchande hay bằng Chef de Quart và các sĩ quan lo về máy với bằng Officier Mécanicien de 2e Classe hay Officier Mécanicien de 3e Classe. Thuyền trưởng, phó thuyền trưởng và sĩ quan đều phải trực ban (faire le quart) hết. Laurent Barizy là đệ nhị sĩ quan trên các tàu cận duyên [BAVH, tập IV, 1926, trang 398]. [Chú thích riêng của tác giả hay http://www.afcan.org/dossiers_reglementation/hydrosup.html. Réglementation et sécurité maritime à bord des navires].
Hãy đọc Maybon trong cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de M de la Bissachère, missionnaire français (1807) (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông de la Bissachère, thừa sai Pháp (1807). NXB Librairie ancienne Honoré Champion, Paris, 1920, trang 27 :
« … Jean-Marie Dayot, gốc người xứ Bretagne… Năm 1786 là thuyền trưởng một chiếc tàu buồm nhỏ, l’Adélaïde, trang bị tại Ile de France để đi mua thuốc súng (salpêtre = Nitrat Kali) và gia vị ở Pointe-de-Galles và ở Mascate, ông bị kẻ cướp người dân mahratte bắt… ».
Hai chiếc Đồng Nai và Prince de Cochinchine là hai thương thuyền, có thể trang bị vài khẩu đại bắc, để phòng hải tặc.
Về mục (1) ở trên :
«và được giao nhiệm vụ chỉ huy một trong hai tàu buôn cùng với các tàu chiến Méduse của Bá Đa Lộc đi đến Việt Nam.[2] (1) ».
Hãy đọc giám mục Pigneau de Béhaine [Xem Launay. Histoire de la mission de Cochinchine 1658-1823, Volume III, Documents historiques 1771-1823 (Sử hội truyền giáo ở Nam Hà 1658-1823. Tập III. Tài liệu lịch sử). NXB C. Douniol et Reteaux, Paris, 1925, In lại bởi Les Indes Savantes, năm 2000, trang 210] :
« … vua, bà mẹ, bà vợ, cả gia đình, nói tóm lại là cả triều thần, khó nói lên được sự vui mừng mà họ cảm thấy khi gặp lại chúng tôi (hoàng tử Cảnh và giám mục). Chỉ có một điều làm dịu bớt niềm vui vô biên đó là tôi về với chỉ một chiếc tàu (La Méduse) và chiếc tàu nầy phải lập tức đi Manille… »
Vậy ta thấy rõ là Dayot không chỉ huy một con tàu buôn nào theo về với vị giám mục.
1. Công tác đầu tiên của J.M. Dayot và 4 người Pháp (Vannier, se l’Isle Sellé, Guillon, Guilloux) do dụ ngày 27/06/1790 (dụ nầy rất chi tiết, ở đây tôi chỉ kể lướt qua. Xin xem chi tiết đầy đủ trong bài viết bằng tiếng Pháp của tôi).
«Lệnh cho Cai Đội Jean-Marie Dayot quản 2 con tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine cùng quan Trung (tên hay chức vụ ?) làm trọn những nhiệm vụ sau đây:
1° Chở 3 900 tạ gạo (theo từ điển Littré 1 picul = 62,5 kg) sang Macao bán với giá được nhất.
2° Trả 3 848 đồng, lương 8 tháng cho thủy thủ đoàn. Số tiền còn thiếu sẽ trả khi tàu về lại bến, như đã thỏa thuận.
3° Đến ngày 01/08 đưa cho người quản lý thực phẩm trên tàu, 300 đồng mỗi tháng, để cung cấp lương thực cho 2 con tàu, khi tàu chưa về bến.
4° Tìm tất cả mọi cách để đòi ở Macao, số tiền 5 000 gốc cau, với giá 3 đồng một gốc mà Antoine-Vincent de Rosa đã nợ nhà vua cùng số nợ cũ là 6 208 đồng ; với 1 908 gốc cau, giá mỗi gốc là 3 đồng mà Antoine Milner đã nợ nhà vua : tất cả là 26 933 đồng 4 phân (4 condorins). [condorin = 1 phân là 1/100 lượng] [Xem Traité des monnaies d’or et d’argent của Pierre-Frédéric Bonneville, trên Internet, và Hệ đo lường trên Wikipedia tiêng Việt]. Từ số tiền đó, Dayot lấy ra 3 848 đồng trừ đi 1 quan để lo những việc nói trên, số tiền còn lại thì giao cho quan Trung giữ.
Sau đó thì đi Manille, nếu cần thì xin phép thống đốc ở đây, để sửa chữa 2 con tàu, sắm lại buồm, dây và dụng cụ cần thiết ; mua 500 tạ lưu huỳnh và chở đầy gạo để sang lại Macao bán như lần tước. Với số tiền còn lại và phải làm sổ sách thật đúng, rồi mua 1 000 cái cuốc sắt, 500 cái cuốc đinh đủ loại lớn nhỏ, mua súng hạng tốt và đại bác với loại đạn 12 cân (cân Anh khoảng 0,5 kg) hay lớn hơn nữa.
Các người phải rời Macao và về lại bến, chậm nhất là vào giữa tháng giêng năm tới. Nếu thấy có một con tàu lớn và tốt, trang bị đầy đủ và có thể chở được ít nhất 40 ngàn canjus (?), thì cho phép mua với giá không quá 40 000 đồng, với điều kiện là trả bằng 3 lần : Lần đầu trả tiền mặt 10 000 đồng ; lần thứ hai trả 5 000 tạ gạo (xem chữ picul ở trên) khi tàu về bến ; lần thứ ba, số tiền còn lại sẽ trả vào tháng sáu tới.
Các người phải thi hành đúng những điều khoản trên, nếu chểnh mảng hay phạm lỗi, không thi hành đúng nhiệm vụ, thì xem đó là phạm một lỗi rất nặng.
Ngày 15 tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 51 (Sàigòn 27/06/1790)
Dấu triện của Hội Đồng. [Xem Louvet, sđd, trang 533,534).
Công tác nầy được Dayot nghiêm túc thi hành.
2. Công tác thứ nhì năm 1792. Lần nầy J.M. Dayot thụt quỹ.
Lần nầy cũng giống như lần trước, nhưng lần này Dayot lại biển thủ công quỹ. Hãy đọc thư của Le Labousse gởi cho ông Letondal, quản lý hội Truyền Giáo ở Macao, ngày 17 tháng 6 năm 1792, trong cuốn Histoire de la mission de la Cochinchine 1658-1823 (Lịch sử hội truyển giáo ở Nam Hà), tập III, sđd, của Adrien-Charles Launay, trang 296 :
« Chuyến đi khốn nạn qua Macao và Manille của ông Dayot với sổ sách tiền bạc quá mức làm cho vua khinh tởm, chẳng thèm nói một lời. Trong lúc tức giận vua đuổi hết cả thủy thủ đoàn, ngay cả sĩ quan. Những sĩ quan nầy không đợi vua đuổi, đã xin phép ra đi và được chấp thuận liền… »
Và thư của Le Labousse gởi cho ông Boiret, ngày 20 tháng 6 năm 1792 [Launau, sđd, trang 296] :
« …Sự ra đi của tất cả những người Pháp, đã xin phép và được chấp thuận, đã làm Đức Giám Mục (Pigneau de Béhaine) quyết định xin vua rút lui. Vua chấp nhận ; nhưng sau đó vua hối hận và đổi ý… »
Từ khi trở về Nam Hà, giám mục Bá Đa Lộc nằm trong một tình thế khó khăn:
Giám mục đã thất bại trong việc cầu viện Pháp. Ông là cha tinh thần của một lũ phiêu lưu Pháp vô kỷ luật, buông tuồng hỗn độn (incontinence et désordre) [Launay, sđd, trang 209 và Cadière. BAVH, tập IV, 1926, sđd, tarng 365], đã làm khó chịu giới chức trách địa phương. Ông còn muốn nhúng tay vào chuyện chính trị và quân sự mà Nguyễn Ánh từ chối. Có lúc ông xúi Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn, để cho các thừa sai của ông, rộng đường truyền đạo trên dải đất mà Tây sơn đã chiếm lấy [Xem Launay, tâp III, sđd, trang 296,297]. Sau hết, chuyện thúc dục giám mục phải bỏ Nam Hà là tin vua Quang Trung sắp đánh lấy Gia Định qua ngả Lào và Campuchia [Xem hịch Quang Trung, trong cuốn của Maybon, sđd, trang 173 đến 176]. Ông muốn tránh Quang Trung để sau nầy về lại được Nam Hà, nếu Nguyễn Ánh thua và ông cũng biết nếu lần nầy gặp ông, thì Quang Trung không tha cho ông cũng như những « người Pháp phục vụ Gia Long » được ông che chở. Vua Quang Trung mất một cách đột ngột vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (tức 15 tháng 9 Dương Lịch 1792).
Còn người Pháp, họ được mời ra khỏi Nam Hà vì những hành vi của họ không đứng đắn. Họ chê lương ít, mặc dầu lương của họ hơn 3 lần lương của những đồng nghiệp người việt (150 đồng/tháng thay cho 50 đồng/tháng ; ngay cho cả gạo cũng thế [Maybon. Ký Sự Bắc Hà…, sđd, trang 95] ; đồng thời, họ có thể dùng một phần của các con tàu được giao cho họ, để chở hàng buôn bán riêng cho họ [Xem Cadière. Thư của Barizy, Chaigneau… BAVH, tập IV, trang 363 và tiếp theo], cũng vì họ muốn làm giàu tức thì. Và cuối cùng, với tin Quang Trung đánh Nam Hà, họ không muốn chết cho một trận chiến mà họ chẳng có liên hệ gì cả.
Nhưng tình hình quân sự rất căng thẳng. Tây Sơn thì có đồng minh là hải phỉ và người thiểu số miền thượng du [Xem Murray. Pirates of The South China Coast, sđd và Nguyễn Duy Chính. Việt Thanh Chiến Dịch. Vai trò của Hải Phỉ trong chiến thắng Kỷ Dậu, sđd]. Trong hoàn cảnh nầy, để có biện pháp thích ứng, Nguyễn Ánh phải tỏ ra mình cũng có người Âu Châu làm đồng minh, dầu chỉ một nhóm nhỏ dân phiêu lưu, để trấn an lòng dân Nam Hà, vì họ rất sợ sự tàn ác của Tây Sơn. Thật thế, Tây Sơn với đồng minh của họ đã giết trên 10 000 dân lành mà một số lớn là người gốc Hoa (để trả thù cho tướng Phạm Ngạn bị giết ở Gia Định), vào tháng 5 năm 1782, khi Tây Sơn đánh Gia Định vào tháng 4 cùng năm [Thực Lục, sđd, tập1, trang 188]. Đây chỉ là tuyên truyền quân sự, và Nguyễn Ánh sẽ phạm một lỗi chính trị lớn, nếu để tất cả người Pháp ra đi. Nguyễn Ánh phải làm hòa với vị giám mục và làm ngơ về sự thụt quỹ của Dayot. Nhưng thay vì sai anh ta ra ngoại quốc để buôn bán, thì bổ anh ta cùng 4 người Pháp dưới quyền, dùng 2 con tàu nói trên vào nhiệm vụ tiếp tế lương thực cho các chiến dịch.
3. Nhiệm vụ tiếp tế lương thực cho các chiến dịch
Hãy đọc Georges Taboulet trong cuốn La Geste (Nghiã cử) Française en Indochine (Nghiã cử [danh từ quá trịch thượng !] của Pháp tại Đông Dương). NXB Adrien-Maisonneuve. 1955, Paris, trang 250,251 :
«Làm việc trong hải quân của nhà vua và chỉ huy những chiến hạm Âu Châu (anh ta tự đề cao, vì sự thật, Dayot chỉ chỉ huy 2 con tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine), là lực lượng chính của quân đội Nam Hà, tôi phải theo tất cả các chiến dịch, thường trải dài từ tháng 5 cho đến tháng 10. Trong 5 năm liên tiếp, tôi đi khắp miền duyên hải, từ Bắc chí Nam, từ Nam chí Bắc với quân đội. Một số rất lớn thuyền bè đi theo quân, để cung cấp lương thực cho họ ******và cả bộ binh, thường đi dọc theo bờ biển. Chiều lại, chúng tôi phải neo để tập họp đoàn thuyền, nhiều khi trên ngàn chiếc [Chiến thuyền và thuyền chở quân đi đổ bộ]. Đôi khi chúng tôi phải ở lại một nơi trong nhiều ngày, đợi bộ binh để cung cấp lương thực cho họ… »****** (Ký sự của Dayot. Văn khố của bộ Hải quân…, đề ngày 01/11/1807).
******Thường thường trong việc tải luơng và quân cụ cho những chiến dịch kéo dài vài tháng, đều có Thượng Thư và Tham Tri bộ Hộ điều hành. Xin xem ở dưới].
Dayot viết lắt léo nên khó dịch (xem ký sự của Dayot trong bài viết bằng tiếng Pháp của tôi), để rồi Tạ Chí Đaị Trường viết « Chính đội này dắt theo sau cả hàng ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính -cả lính bộ- có khi phải ghé lại một bến đến vài ngày để chờ bộ binh tới lãnh lương » [Lịch Sử Nội Chiến, trang 270] và Thụy Khuê phê bình Tạ Chí Đại Trường « Khổ quá! Dayot đâu có nói thế…Mà ai lại chở lương trên cả ngàn chiếc thuyền như thế ! Vậy thuỷ binh của Nguyễn Ánh phải có tới cả vạn thuyền à? » [Thụy Khuê. Chương 16 : IV].
Vì Dayot phục vụ trong việc tiếp tế tải lương, thì làm sao mà anh ta dự trực tiếp trận Thị Nại vào tháng 7 năm 1792 được (xem mục (2) và (8) ở trên). Vả laị trận Thị Nai 1792 là một chiến dịch « chớp nhoáng » chỉ trong 10 ngày [Thực Lục, tâp 1, trang 258] và quân nhân được trang bị đầy đủ lương thực cùng khí giới, đạn dược cho 15 ngày. Hơn nữa, lần nầy Nguyễn Ánh không chỉ định các đại thần về việc tiếp tế [Thực Lục, tập 1, trang 258], như các chiến dịch Quy Nhơn từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1793, hay chiến dịch Diên Khánh từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1794 [Thực Lục, tâp 1, trang 163 và 277].
Tên của Dayot không ghi trong Đại Nam Thực Lục Chánh Biên nói về trận Thị Nại năm 1792 và trận Quy Nhơn năm 1793. Thực Lục ghi mọi sự kiện lịch sử, nhưng vắn tắt một vài hàng bằng chữ Hán lẫn với chữ Nôm. Thực Lục có tả trận Ngã Bảy, năm 1782, có nói đến Mannuel/Emmanuel Mạn Hòe (chữ Nôm 幔槐). Mạn Hòe được bổ làm Khâm Sai Cai Cơ (chánh tam phẩm) An Hòa Hầu, chết tại chiến trường. Thần chủ được thờ ở điện Hiển Trung tại Sàigòn, và được phong tặng chức Chưởng Vệ [Tòng Nhị Phẩm, tương đương với Chuẩn Tướng ngày nay] Hiệu Nghĩa Công Thần Phụ Quốc Thượng Tướng Quân 掌衞效義功臣輔國上將軍 [Thực Lục, sđd, tập1, trang 188 và 555].
Nếu Dayot có dự vào trận Quy Nhơn 1793, thì anh ta nằm trong đôi tiếp tế lương thực dưới quyền của Hộ Bộ Phan Thiên Phước và Tham Tri Nguyễn Đức Chí, còn trận Diên Khánh 1794, thì dưới quyền Hộ Bộ Trần Đức Khoan và Tham Tri Nguyễn Văn Mỹ [Thực Lục, sđd, tập 1, trang 277].
Trận Thị Nại năm 1792 được tả trong Thực Lục, trang 257, 258 như sau:
«Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đóng nhiều chiến thuyền để ở cửa biển Thị Nại, mưu toan vào cướp, kẻ gián điệp báo tin. Vua muốn ra đánh trước để chặn giặc, mới dụ cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ thuộc Trung quân chỉnh bị lương thực súng ống khí giới như phép hành quân, định ngày thử các chiến hạm ở ngoài biển (thuyền đại hiệu và thuyền ô 128 chiếc). Bèn sai Chưởng Tả quân dinh là Tôn Thất Huy, quản Hậu quân dinh là Võ Tánh, Giám quân Trung quân là Tống Phước Đạm lưu giữ kinh thành, Chưởng Tiền quân dinh là Tôn Thất Hội đi Vĩnh Trấn và Trấn Định kiêm quản tướng sĩ hai dinh, quản Hữu quân dinh là Nguyễn Hoàng Đức đi Bà Rịa hiệp đồng với Tán lý Chiêu đóng giữ.
Thuyền vua ra từ cửa biển Cần Giờ, gặp khi gió nam thổi mạnh, thuận chiều thẳng đến Diên áo [Vũng Diên], bắt được du thuyền của giặc, biết ở Thị Nại không có phòng bị, bèn bí mật định ước thúc, trao kỳ hiệu và khẩu hiệu cùng cơ nghi hành động, nói là do Thiếu phó quận công Tôn Thất Huy điều bát tướng sĩ. Sai quản Tiên phong dinh là Nguyễn Văn Thành tiến trước, kế đến quản Ban trực tả là Phạm Văn Nhân tiến thứ nhì.
Giám quân Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ giá, Đô đốc Nguyễn Kế Nhuận tiếp sau. Khi quân đến ngoài cửa biển Thị Nại, thì trước hết sai quân tinh nhuệ đổ bộ phóng lửa đốt thủy trại giặc. Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành dùng thuyền Long và Phụng thẳng vào, các quân tiến theo. Đô đốc giặc là Thành (không rõ họ) thấy đại quân chợt đến, bỏ chạy, thuyền ghe và khí giới bị quân ta bắt được hết (thuyền chiến lớn 5 chiếc, thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc). Lại sai tìm bắt bọn giặc biển Tề Ngôi, bắt được 3 chiếc thuyền. Vua đóng ở chợ Thị Nại, dựng cờ chiêu an phủ dụ dân chúng, cấm quân sĩ không được cướp bóc. Rồi ra lệnh rút quân về. Chiến dịch này, từ lúc xuất quân đến lúc khải hoàn chỉ hơn 10 ngày. Người ta cho là thần binh. »
Maybon trách Thực Lục không nói đến người Pháp dự trận nầy, nhưng thật ra không có người Pháp dự vào cuộc viễn chinh quân sự nầy, thì làm sao Thực Lục phải ghi ? Một ước mơ, tham vọng, mộng tưởng mà Maybon ấp ủ trong lòng là tất cả chiến thắng quân sự của Nguyễn Ánh đều phải do người Pháp đảm đương.
Ba con tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi được giao cho người Pháp chỉ huy là Chaigneau, Vannier và Godefroy de Forçanz vào đầu năm 1800, họ ở dưới quyền của Nguyễn Văn Trương [Thực Lục, sđd, tập 1, trang 368]. Họ có dự trận Thị Nại năm 1801 [Thực Lục, sđd, tập 1, trang 392], nhưng không trực tiếp tham chiến, vì họ được lệnh bảo vệ Bộ Chỉ Huy, hộ giá Nguyễn Ánh cùng được lệnh tháp tùng những chiến hạm vào, nhưng sau đó Nguyễn Ánh giữ họ lại, như linh mục Cadière viết [Documents relatifs à l’époque de Gia Long (Tài liệu thuộc thời kỳ Gia Long. BEFEO, trang 46] :
… « Những sĩ quan Pháp, các ông Chaigneau, Vannier và de Forçanz, chỉ huy 3 con tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, có mặt trong chiến dịch nầy. Tàu của họ được trang bị đầy đủ để hộ giá nhà vua, và chính họ được lệnh đưa (tháp tùng) các chiến thuyền vào, nhưng vua giữ họ lại để bảo vệ vua (Bộ Chỉ Huy), trong lúc hai bên đánh nhau… »
… (Les officiers français, MM. Chaigneau, Vannier et de Forçanz, qui commandent les trois vaisseaux, le Dragon, le Phénix et l’Aigle, furent de cette expédition. Ils accompagnèrent le Roi chacun avec un bateau bien armé, et ce fut eux qu’il chargea de faire entrer toutes les galères. Mais il les retint pour sa garde pendant qu’on se battait…)
Những sử gia và tác giả thực dân Pháp chỉ nhắc đến 3 con tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, vì chúng được người Pháp chỉ huy, còn thì im hơi lặng tiếng về sự hiện diện những chiến hạm khác trong các chiến dịch, vì chúng không do người Pháp chỉ huy.
Nên nhớ là 2 chiến hạm Phượng Phi và Bằng Phi, trang bị khoảng 20 đại bác, đã được Nguyễn Ánh đóng hay mua lại, và chúng đã do người Việt chỉ huy, trước ngày 09/04/1785, ngày mà Nguyễn Ánh và tùy tùng lánh nạn sang Xiêm (Thái Lan), nghiã là trước khi người Pháp đến Nam Hà. [Thực Lục, sđd, tập 1, trang 199].
Sau đây là một số chiến hạm (tàu đồng/đồng tàu ; cuivrés theo danh từ của Cadière) mà Nguyễn Ánh có trước năm 1785 : Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Trì, Chính Nghi và sau năm 1785 : Long Phi, Long Ngự, Long Hưng, Long Thượng, Long Đại, Long Nhất, Long Nhị, Long Tam, Phượng Đại, Phượng Nhị, Hồng Đại, Hồng Nhị, Hồng Tam, Loan Đại, Loan Nhất, Loan Nhị, Bằng Đại, Bằng Nhất, Bằng Nhị, Bằng Tam… [Thực Lục, sđd, tập1, trang 182 đến 199].
Hơn nữa, theo linh mục Cadière, trong Documents relatifs à l’époque de Gia Long (Tài liệu thời Gia Long), BEFEO, sđd, trang 73, ghi chú số 1, ta thấy :
« … những dịch vụ mà anh em Dayot làm cho vua Nam Hà hầu như hoàn toàn về mặt thương mại. Tài liệu lưu trữ tại Chủng Viện Paris, tâp 312, chứa nhiều bức thư của họ [thường ký tên J.M. và Fékix Dayot], nhưng chỉ là những mảnh giấy nói về chuyện tiền bạc… »
Trên Wikipedia tiếng Pháp (tháng 5 năm 2016) nói Dayot đặt ra những cuộc viễn chinh « Giặc Mùa ». Thật ra là « Gió Mùa » mà người Việt đã biết từ ngàn xưa để buôn bán và đánh trận, đâu cần đợi Dayot « dạy » cho hiện tượng thiên nhiên nầy.
Gió Mùa là gió Đông Bắc thổi mạnh từ tháng 12 đến tháng tư và gió Đông Nam thổi mạnh từ tháng sáu đến tháng 10. Tây Sơn và Nguyễn Ánh đều dùng hiện tượng thiên nhiên nầy trong những chiến dịch xâm lược nhau, như những trận đánh Gia Định của Tây Sơn vào tháng hai năm 1777, vào tháng tư năm 1782, vào tháng hai năm 1783, vào tháng hai năm 1785… Còn Nguyễn Ánh thì những chiến dịch Thị Nại, Quy Nhơn, Phú Xuân vào tháng 7 năm 1792, tháng 6 năm 1793 và tháng 6 năm 1801.
4. J.M. Dayot làm đắm tàu và trốn sang Macao (xem mục (3) ở trên.
Vừa đúng lúc Nguyễn Ánh dựng kế hoạch đi cứu thành Diên Khánh vào tháng tư 1795, bị Tây Sơn vây từ tháng hai cùng năm, thì con tàu do Dayot lãnh trách nhiệm, bị đắm. Anh ta bị bắt và bị tù để đợi triều đình xét xử.
Hãy đọc thư của linh mục Lavoué gởi cho ông Letondal, quản lý hội Truyền Giáo Hải Ngoại tại Macao, ngày 27/04/1785 [Launay, sđd, trang 302] :
… « Vua nổi nóng và tức giận những người Âu đang phục vụ dưới trướng và giam tù 2 người : ông Dayot và ông thượng sĩ của ông ta (son premier maître), vì con tàu của họ bị đắm và hư hại rất nhiều ; người ta cho vua hay là con tàu không dùng được nữa làm vua nổi nóng và trong cơn giận, vua đã có những lời khó nghe đối với người Âu, nhưng sau đó vua đã hối, và có thể là đang còn hối, vì từ lúc nầy công việc của vua càng ngày càng tệ hơn »… (?)
Sự vượt ngục của Dayot, rất có thể, là do những người Pháp giúp, như ta thấy trong thư của linh mục Le Labousse gởi cho ông Letondal, ngày 22 tháng 6 năm 1795 [Cadière. Documents relatifs…, sđd, BEFEO, tập 12, 1912, trang 35] :
… « Thế là vua (Gia Long) đang ở trong thế không may… Thế là người Âu bỏ đi hết. Tôi e đây là chuyến đầu tiên của chúng ta (trong bài tiếng Pháp dùng hai chữ avant-garde)… Người ta cũng chuẩn bị cho Đức Cha (Bá Đa Lộc) một con tàu tốt…
Ngài sẽ thấy ông Olivier [Olivier de Puymanel] với ông Dayot sẽ đến Macao. Ông Dayot phải trốn khỏi tàu của ông ta, khi ông ta ra đến cảng Vũng Tàu. Vua có thể trả một giá rất đắt vì chuyện trốn nầy »…
Olivier de Puymanel là một tình nguyện viên binh nhì trên chiếc la Dryade, đào ngũ ngày 19/09/1788, taị Côn Sơn (Poulo Condor) [Xem Faure. Les Français en Cochinchine, sđd, trang 242]. Anh ta đi cùng tàu la Dryade với thế tử (sau được phong thái tử) Nguyễn-Phước Cảnh và giám mục Bá Đa Lộc, trên đường từ Pháp về lại Nam Hà (tàu rời bến Lorient ngày 27/12/1787). Anh ta có học sơ qua về đại bác với một đội pháo binh trên tàu. Anh ta đào ngũ tại Côn Sơn và được linh mục Hồ Văn Nghị, người tay chân của giám mục Bá Đa Lộc, đón và giới thiệu cho Nguyễn Ánh vào đầu năm 1789. Nguyễn Ánh bổ anh ta làm Cai Đội, và có lẽ được phong Hầu, Tín…Hầu (những tài liệu mà linh mục Cadière có, không thấy nói đến tước của anh ta. Tín là tên việt của Olivier). Anh ta được trao nhiệm vụ đặt các đại bác trong các hải cảng và trên các chiến hạm. Sau đó anh ta được thuyên chuyển về ban thường trực phong hậu quân Thần Sách. Anh ta có dự trong các đội pháo binh cho nhiều chiến dịch ; trong các xưởng đạn dược ; trong việc buôn bán với các lân bang để mua các thiết bị quân sự. Anh ta được thăng đến chức Vệ Úy (chánh tam phẩm) vào tháng 7 năm 1792 (tương đương với cấp Đại Tá ngày nay) [Cadière BAVH, tập I, 1920, trang 168], và phục vụ dưới quyền của Tiền Phong Quân Tôn Thất Hội, Hậu Quân Võ Tánh, Hữu Quân Nguyễn Huỳnh Đức, Tiền Quân Nguyễn Văn Thành (đều có cấp bậc là chánh nhất phẩm) [Thực Lục, sđd, tập 1, trang 257,258]. Olivier phục vụ cho Nguyễn Ánh trong 10 năm (đến năm 1799) và mất vì bịnh kiết lỵ, ngày 23/03/1799, tại Malacca, trong một chuyến công tác đi Singapore (Tân Gia Ba) để mua súng ống [Faure. Les Français en Cochinchine, sđd, trang 200]. Chính Olivier de Puymanel cứu J.M. Dayot tại Vũng Tàu, trong một chuyến công tác đi Macao.
5. J.M. Dayot làm gián điệp cho Anh quốc để chống lại Nguyễn Ánh
Trong Cadière, Documents relatifs à l’époque de Gia Long (Tài liệu thời Gia Long), BEFEO, sđd, trang 58, ghi chú 1, ta thấy :
« Dayot trở thành bỉ ổi đối với Gia Long, người ta kể anh ta là gián điệp cho người Anh. Chúng tôi được biết chuyện nầy trong một là thư của ông Audemar, thừa sai tại miền Hậu Giang, gởi cho quản lý hội Thừa Sai ở Macao [Tài liệu Hội Thừa Sai, 801, trang 1253] ».
6. Cư trú tại Manille
Sau khi trốn sang Macao, hai anh em Dayot đến ở Manille, do Y Pha Nho chiếm đóng, để tự buôn bán làm ăn lấy.
7. Công tác do Thống Đốc Manille gởi sang Việt Nam
Năm 1804, Manille bị nạn đói lớn, thống đốc Y Pha Nho Manille, sai Dayot sang Việt Nam mua gạo. Đối với Nguyễn Ánh Manille là một bạn hàng tốt, đổi hàng hóa (Nam Hà) để lấy vũ khí (Tây phương), nên Nguyễn Ánh, một lần nữa, phải làm ngơ sự có mặt của Dayot trên đất nước mình, vào tháng tư năm 1804. Thực Lục, tập 1, trang 540 có nói:
« Lữ Tống (Manille) bị đói, xin đong gạo ở Gia Định. Lưu trấn thần không muốn bán, đem việc tâu lên. Vua nói rằng : « Bờ cõi dù khác nhau, nhưng lấy lòng chung mà thương nhau, sao nỡ không ngó đến ». Bán cho 50 vạn cân gạo » [Một cân có khoảng 600 g, vậy tất cả là khoảng 300 tấn]
Trong thư của giám mục La Bartette gởi cho ông Foulon, quản lý hội Thừa Sai ở Macao, ngày 15/04/1804:
« Có phải đây chàng Dayot nổi tiếng, mà vào thời giám mục Ba Đa Lộc đang còn ở Đồng Nai, đã phục vụ lâu năm cho vua Nam Hà, rồi sau đó bỏ đi vì vài sự bất bình với nhà vua ; có phải, tôi tự hỏi, là anh ta mới đến Đà Nẵng, cách đây khoảng 10 ngày ? Anh ta do thống đốc Manille gởi đi trên con tàu Y Pha Nho La Princesse Royale, để thương lượng một hợp tác quan trọng về thương mại có lợi cho hai quốc gia…. Ông Dayot xin mua gạo ; vua đã cho phép anh ta đi Đồng Nai chở đầy tàu. Vua tỏ vẻ bằng lòng về sự hợp tác do thống đốc Manille đề nghị… » |Tài liệu hội Thừa Sai, 802, trang 1041, 1042. Cadière Documents reletifs à l’époque de Gia Long, sđd, trang 58].
8. Cái chết của J.M. Dayot, năm 1809 (mục (4) ở trên.
Trong Documents relatifs de l’époque de Gia Long, sđd, trang 61, linh mục Cadière có cho cái thư của ông Audemar :
« XLIV – Thư của ông Audemar,
Nam Hà, ngày 18/04/1811.
« Cách đây một năm rưỡi ông Dayot bị đắm tàu và chết đuối, ở gần nơi đây, với bà vợ và khoảng 20 người khác. Đây là lỗi của ông ta, vì ông ta đã đến gần một cảng nhỏ (gần Quảng Trị), khi cơn bão mùa thu thình lình ấp tới. Một cơn bão khủng khiếp. Người ta muốn đưa tàu vào cảng, nhưng ông ta rất kỳ cuc, ông ta đã làm gì ? Tay cầm kiếm, ông ta đòi chém người cầm lái, nếu anh ta đưa con tàu vào cảng. Trong khoảng khắc tàu bị ngập. Có khoảng 7 người trong thủy thủ đoàn bơi được vào bờ. Đáng sợ là cái chết cũng như cuộc sống của ông ta là vô tín ngưỡng! Ông Forsans cũng vừa mới chết, ông ta chết cũng đầy lỗi lầm ; ít nhất chúng ta không có một phỏng đoán nào để tin linh hồn ông ta được cứu rỗi» [Tài liệu hội Thừa Sai, 801, trang 1342J].
Trong một ghi chú của Faure [Les Français en Cochinchine au XVIIIe Siècle : Mgr Pigneau de Béhaine, sđd, trang 201], Faure viết « …Ông (J.M. Dayot) chết đuối ở vịnh Bắc Việt vào năm 1809, trong khi ông đang còn nhiệm vụ phục vụ cho vua Nam Hà » là sai.
Theo ông Nguyễn Quốc Trị, J.M. Dayot không dám vào bờ, vì sợ lần nầy Nguyễn Ánh khó tha cho ? [Nguyễn Quốc Trị, tập 1, trang 391].
Ông Audemar cho cuộc sống và cái chết của J.M. Dayot là vô tín ngưỡng, còn bà Thụy Khuê gọi là « vô luân ». [Thụy Khuê. Chương 16 : IV-Jean-Marie Dayot).
Trong 5 năm « phục vụ Gia Long », J.M. Dayot đã tạo rất nhiều thiệt hại cho Nguyễn Ánh, chủ của anh ta.
Các danh từ « tức giận » (mục (3) ở trên) hay « ghê tởm (dégoûté) », « buồn nôn (écœuré, danh từ của Taboulet) » áp dụng cho J.M. Dayot hay cho Nguyễn Ánh ?
9. Công tác phục vụ của J.M. Dayot cho nước Pháp (mục (5) ở trên).
Trên Wikipédia tiếng Pháp, tháng 5 năm 2016, đề « Allégeance : Vietnam », sau đó sửa lại « Allégeance : Royaume de France, Vietnam », vào tháng 12 năm 2016.
Trước hết, vào thời đó, Việt Nam không phụ thuộc vương quốc Pháp ! Sau là J.M. Dayot đã dùng tài sản của Nam Hà (2 con tàu giao cho anh ta cùng thủy thủ đoàn, những dụng cụ đo lường…) để vẽ bản đồ bờ biển Việt Nam cho nước Pháp !
Hãy đọc bức thư của J.M. Dayot do Maybon trích trong cuốn Relation sur le Tonkin…, sđd, trang 30,31 và 32 :
… « Trong những chuyến đi đi lại lại dọc theo bờ biển Việt Nam, không những phải theo quân đội, mà còn công tác cho việc tiếp tế, anh em Dayot dấn thân trong một việc làm rất vẻ vang : vẽ các bản đồ hàng hải về bờ biển và hải cảng việt nam. Chính Renouard de Sainte-Croix đã đem những bản đồ nầy về Pháp. Trong một bức thư mà Doyot viết ngày 15/11/1807, có lẽ là sau khi Sanite-Croix rời khỏi thành phố (Macao), ta có thể đợc những hàng lý thú : « Với tài mọn của tôi, tôi không dám ước ao làm một thông tín viên cho một viện bác học (Viên Lưu Trử Hàng Hải), nhưng tôi sẽ vui mừng nếu thành quả những việc làm của tôi được công nhận. Tôi có thể gởi những nhận xét có ích về nhiều vấn đề của một xứ mà có thể nói là chưa ai biết đến và chúng vẫn sẽ luôn luôn có ích bởi những vật thể của nước nầy, nếu tôi không lầm do kiến thức nhỏ bé của tôi. Với lại, anh de Sainte-Croix thân, tôi tin vào sự cẩn thận chăm lo của anh cho tôi ; chúng biểu lộ sự ân cần và tế nhị. Tôi trao cho anh thành quả của việc làm khá gay go của tôi trong 6 năm, những điều anh sẽ làm giúp tôi đều tốt hết, ngay cho có sự trở ngại vì tình bạn mà anh muốn giúp tôi hay vì tôi ước ao làm được điều hữu ích cho tổ quốc tôi, thì cũng không giảm bớt lòng biết ơn cùng cảm tình sâu đậm của tôi suốt đời đối với anh ».
Sainte-Croix đã thành thật gởi đi. Chính phủ quyết định tặng Dayot một dụng cụ hàng hải (cercle astronomique), năm 1820, nhưng phần thưởng nầy đến quá muộn, vì Dayot đã chết từ năm 1809. Anh ta cũng không được thấy những bản đồ của anh ta vẽ do Viện Lưu Trử Hàng Hải ấn loát năm 1818, cùng sự đánh giá rất cao của Abel Rémusat… ».
Dưới triều Tự Đức (chắt nội của Nguyễn Ánh), liên minh Pháp-Y, đã dùng các bản đồ nầy, mà Nguyễn Ánh chưa bao giờ thấy đến, để tấn công Việt Nam, trong những năm 1858-1860. Câu hỏi được đặt ra : J.M. Dayot đã thề trung thành với Việt Nam hay với Pháp ? [Xem Wikipedia tiếng Pháp vào tháng 05/2016].
Tiếp nối Phần 2 : Nguồn Gốc Các Bịp Bợm
TS. Nguyễn Vĩnh-Tráng
Tiết Mang Thực năm con Gà.
205 062 017 nvt*ttl*
Trận chiến Thị Nại 1792
[Nguồn : Google Internet]
Tài Liệu Tham Khảo
– Barrot Odilon. Recueil général des lois, décrets, ordonnances, etc: depuis le mois de Juin 1789 jusqu’au mois d’Août 1830. Tome sixième. Editeur : A l’Administration du Journal des Notaires et des Avocat s. Rue Condé N° 10 – 1839 – Paris.
– Barrow John. Voyage à la Cochinchine, par les îles de Madère, de Ténériffe et du Cap Vert, Le Brésil et l’Ile de Java. (Traduit de l’Anglais, avec des notes et additions par Malte-Brun). 2e Tome. Editeur Arthus-Bertrand. Paris, 1807.
– Cadière Léopold. Documents Relatifs à l’époque de Gia-Long, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, BEFEO. Tome 12. Paris, 1912.
– Cadière Léopold, Cosserat Henri, Salles André, Sogny Léon. Bulletin des Amis du Vieux Huê, BAVH 1914, 1917, 1920, 1926, 1934, 1939.
– Faure Alexis. Les Français en Cochinchine au XVIIIe Siècle : Mgr Pigneau de Béhaine Evêque d’Adran. Pièces Justificatives. Editeur Augustin Challamel. Paris, 1891.
– Launay Adrien, Histoire de la mission de Cochinchine. Documents historiques 1771-1823. Editeur C. Douniol et Retaux, Paris, 1925, réédité par Les Indes Savantes (Missions Etrangères de Paris). Volume 3. Paris, 2000.
– Louvet Louis-Eugène. La Cochinchine Religieuse, tome I. Editeur Ernest Leroux. Paris, 1885.
– Maybon Charles B. Histoire Moderne du Pays d’Annam (1592-1820). Librairie Plon. Paris, 1919.
– Maybon Charles B. La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de M. de La Bissachère, missionnaire français (1807). Librairie ancienne Honoré Champion. Paris, 1920.
– Monnier Marcel. Le tour d’Asie, Cochinchine, Annam, Tonkin. Librairie Plon. Paris, 1899.
– de Montyon Jean-Baptiste. Exposé statistique du Tunkin, de la Cochinchine, du Camboge, du Tsiampa, du Laos et du Lac-Tho. 2 volumes. Imprimerie de Vogel et Schulze, 18 Poland Street. Londres, 1811.
– Murray Dian H. Prirates Of The South China Coast 1790-1810. California, Stanford University Press, 1987 (Ngô Bắc dịch).
– Taboulet Georges. La Geste Française en Indochine. Editeur Adrien-Maisonneuve. Paris, 1955.
– Đại Nam Thực Lục Chanh Biên, 大南寔錄正編. Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hanoi, (Tái bản lần thứ nhất năm 2001, 10 tập).
– Đại Nam Liệt Truyện, 大南列傳, 4 tập. NXB Thuận Hóa., Huế, 1993.
– Le Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ 欽定大南會典事例, 15 tập. NXB Thuận Hóa, Huế. 1993.
– Đào Duy Anh. Hán Việt Từ Điển, 漢越辭典. NXB Trường Thi, Saigon, tái bản lần thứ 3, 1957.
– Nguyễn Duy Chính, Việt Thanh Chiến Dịch. Vai trò của Hải Phỉ trong chiến thắng Kỷ Dậu. Trên Internet.
– Nguyễn Quốc Trị. Nguyễn Văn Tường (1824-1886) và Cuộc chiến chống Đô Hộ Pháp của nhà Nguyễn, 2 tập, phát hàng năm 2013 tại Maryland, USA.
– Phan Huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, 歷朝憲章類誌. Viện Sử Học Hànội dịch, 1960, tái bản lần thứ 5 năm 2005, tập 1.
– Sử Ký Đại Nam Việt. Tái bản lần thứ tư. Imprimerie de la Mission. Tân Định, Saigon, 1903.
– Thụy Khuê. Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long, phát hành vào tháng 09/2015, Paris.
– Trịnh Hoài Đức. Gia Định Thành Thông Chí. NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2010.
– Vũ Văn Kính. Đại Tự Điển Chữ Nôm 大字典 字宁 喃. NXB Văn Nghệ, TPHôchiminh, 1999.
2 Comments
Võ Văn Rân
Kính Dr Nguyen Vinh Trang
Tôi vô cùng kính phục Dr, tuy tuổi tác đã cao, nhưng đã bỏ ra nhiều công sức để viết về Lịch sử cận đại bằng hai thứ tiếng Pháp, Việt, bài viết bằng tiếng Pháp tôi có đọc qua, chỉ hiểu sơ sơ, có lẻ Dr thuộc giòng họ cuả Vua, nên biết nhiều về lịch sử. Viết sử vô cùng khó khăn, nhiều nhân vật, nhiều thời điểm, nhiều vị trí nếu viết sai là không giá trị, như Dr đưa những ví dụ người Pháp đã viết sai. Tôi cũng thường viết về Toán với nhiều số, nhưng những con số cuả tôi, nó theo một quy luật nào đó, còn ngày tháng bên lịch sử không theo quy luật nào cả, khó là như vậy.
Kính chúc Dr và gia đình sức khỏe đồi dào, và viết thêm nhiều bài về Lịch sử cho con cháu mai sau học hỏi, nghiên cứu cho các Luận án …
Võ Văn Rân
Nguyên Vinh-Trang
Kính GS Toán Học Võ Văn Rân,
Tôi được GS cùng một số Trí Thức nổi tiếng (tôi không dám đưa tên của những vị trí thức nổi tiếng nầy ra đây, vì tôi chỉ nhận được thư riêng của các vị đó, và tôi cũng chưa xin phép các vị cho đăng tên) đã khuyến khích và có nhã ý khen ngợi tôi đã công phu viết bài. Đây là một phần thưởng tinh thần vô giá đối với tôi, sau một thời gian dài tìm đọc những tài liệu thiết yếu để viết bài nầy.
Tôi rất lấy làm hân hạnh được GS cùng quý vị Trí Thức trình trên đã để ý đến tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn GS rất nhiều, và qua GS quý vị Trí Thức đã có thư riêng cho tôi.
Kính,
Nguyễn Vĩnh-Tráng.