Nhà văn Phùng Tất Ðắc (1907-2008)
Viết văn làm báo thời xa xưa
Trong đời dù chỉ được gặp mặt nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc vào một đêm văn nghệ, nhưng là đêm văn nghệ do chính mình đứng ra mời các văn hữu, tôi luôn luôn còn nhớ dịp vui ấy nơi Hầm Gió, đêm ra mắt tác phẩm Hạ Ðỏ Có Chàng Tới Hỏi do Khai Hóa xuất bản và tổ chức.
Hình bìa vài tác phẩm của Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc, in kèm chân dung Phùng Tất Ðắc qua nét phác họa của Tạ Tỵ
Sài Gòn, 1973, đã hơi quá thời của phong trào Hippy, (Hippy a gogo do Trường Kỳ quảng bá), của quần ống chân voi và hoa đại năm cánh màu xanh lá cây, song từ phòng trà Queen Bee của Ngọc Chánh trong khu Eden tới cái quán của ca sĩ Nam Lộc trên đường Võ Tánh lúc nào cũng nhộn nhịp với trai thanh, gái tú, hay một cách cụ thể, từ Rock and Roll qua Psychedelic, với những Jo Marcel, Elvis Phương, Jimmy Joseph, Trường Kỳ, Tùng Giang, Trung Nghĩa, Annie Nga, Cathy Huệ, Thanh Tuyền,… với các ca sĩ nhạc trẻ khác lừng lẫy một thời, Sài Gòn lúc ấy là thiên đường của nhạc trẻ, và Hầm Gió là một điểm hẹn tấp nập. Ðến đó cũng là để nghe những bản nhạc thời đại phát ra từ một hệ thống âm thanh hoàn hảo, trong một không khí ấm cúng, với hình ảnh và tiếng hát của những Jimi Hendrix, Josplin, của những bài Heartbreaker hay Do What You Like. Nhưng đêm ấy đã được Nam Lộc dành cho Viên Linh và tác phẩm mới nhất viết cho tuổi trẻ. Và vào lúc rượu vừa cạn, tối chuyển vào đêm, thì hai nhà văn tên tuổi và đứng tuổi mới bước vào: đó là Mặc Ðỗ của Siu Cô Nương (1958) và Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc của Chơi Chữ (1960), Giai Thoại Làng Nho (1963).
Lúc ấy nhà văn Mặc Ðỗ đã hơn 50 và nhà văn Lãng Nhân đã hơn 60 tuổi. Ðã gặp anh Mặc Ðỗ nhiều lần, tôi không ngạc nhiên, nhưng đó là lần đầu tôi được gặp một tác giả đã từng bỏ tiền ra xuất bản báo Ðông Tây ở Hà Nội từ năm 1931, 1932! Và lúc đó đứng đầu ngành ấn loát tại miền Nam với nhà in có tiêu chuẩn Âu Châu, máy móc tối tân Kim Lai ấn thư quán. Nó vốn là nhà in IFOM của Pháp (Imprimerie Française d’Outre Mer – Pháp quốc hải ngoại). Cũng trong nhà in này, Phùng Tất Ðắc chủ trương nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư, in sách của các tác giả lớp trước, như của Tạ Tỵ, Ðoàn Thêm,… và nhất là các trước tác của chính ông, đã trở thành những tác phẩm cổ điển, bề thế: Chơi Chữ, Giai Thoại Làng Nho, Hán Văn Tinh Túy, Nhớ Nơi Kỳ Ngộ, Thơ Pháp tuyển dịch, Chuyện Cà Kê. Khoảng năm 1972, Lãng Nhân đã viết một bài dài về nghề làm báo thời tiền chiến.
“Sở dĩ tôi hàm làm báo là vì từ trước vẫn nghe nói chuyện về những thiên tài Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh và đức cần cù của Trần Trọng Kim, nên muốn được học hỏi nơi các ‘thần tượng’ ấy. Ðến khi lên Hà thành, gặp ông Phạm Quỳnh ở Hội Khai Trí, tôi không ưa lối cao ngạo, nhưng phải phục đức tính chịu khó của ông: ông ngồi văn phòng mùa nóng nực, mồ hôi nhễ nhại mà vẫn cặm cụi viết, hoặc đọc sách đến đoạn nào đắc ý, lại lom khom đứng dậy ghi ngay vào fiches [thẻ]. Nguyễn Văn Vĩnh thật có thiên tài… hồi ông dịch tiểu thuyết Pháp, buổi trưa sau bữa cơm, ông nằm trên ghế dài, hai bên hai người ngồi chép, ông dịch một lúc hai bộ tiểu thuyết, cứ đọc một câu cho bên phải lại quay đọc một câu cho bên trái. Ông lại là người rất tình cảm, khi dịch Mai Nương Lệ Cốt, hễ xong vài chục trang lại cho người đem cho bà vợ đầm xem ngay trước rồi mới đưa in. Ông có tài đọc rất nhanh, tôi từng thấy ông cầm quyển Nho Giáo mới xuất bản, lật lật từng tờ, đưa mắt qua loa, độ một giờ sau là ông cầm bút viết bài phê bình trên báo Annam Nouveau. Trần Trọng Kim là người cần cù khổ học. Ông có một cái bàn viết thật độc đáo, cả bàn ghế cả đèn đều đặt trong một chiếc màn lớn để tránh muỗi, đêm nào dù đi yến tiệc ở đâu cũng cứ 22 giờ là về, chui vào làm việc cho đến 2 giờ sáng.” (Văn, 10.1.1975)
“Nhiệm vụ thường xuyên của tôi (ở báo Ðông Tây) là đứng ở nhà in coi đặt bài vào khuôn, đoạn nào thừa thì cắt đi, khoảng nào trống thì trám vào.”
“Báo chí buổi ấy ở dưới chế độ kiểm duyệt. Ðứng đầu Sở Kiểm Duyệt là Vayrac, một ông tây thâm nho… Khoảng năm 1930 chính quyền Pháp bổ ông Vi (Văn Ðịnh) về tổng đốc Thái Bình,… ông Vi dùng hết cơ tâm để săn bắt những người làm quốc sự, lại sáng chế ra một cách tra tấn thần hiệu là dùng chày nện vào các khớp xương. Ðược tin ấy, Ðồng Giang cư sĩ ở Nam Ðịnh gửi lên báo Ðông Tây một bài thơ vịnh chày, lấy chày làm độc vận… Hồi bấy giờ lệ kiểm duyệt cho đưa từng bài lẻ chứ không phải đưa ra cả trang báo lớn, nên khi ráp các bài đã được phép in thành một trang, tòa soạn trưng hình ông Vi lên trang nhất, và ngay bên dưới, đóng khung bài thơ chày, đã có dấu kiểm duyệt:
CHÀY
Khen ai đã khéo tạc nên chày
Ðau đớn cho ai chỉ vị chày
Ở chốn rừng xanh trơ xác lõi
Về nơi dân đỏ béo thân chày
Trông ra tròn trặn trơn lì gỗ
Dùng đến hung hăng giã nặng chày
Ðầu có nhọn đâu mà cổ thắt?
Ngàn thu còn nhớ mãi tên chày.
(Cụ lớn vốn là người mạn ngược đầu tiên được cử về trị nhậm ở vùng xuôi, cũng nhờ cái tiếng hét ra lửa.)
Báo phát hành, quả nhiên tiếng chày vang rộn rã trên khắp các tỉnh miền Trung châu, và từ đó về sau, cái hình phạt “chày” cụ lớn không cho dùng đến nữa.
Ðông Tây là tờ báo bán chạy nhất hồi đó, và qui tụ những tên tuổi lớn như Phan Khôi, Trần Tuấn Khải, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Vi Huyền Ðắc, Thiết Can, Hoàng Ngọc Phách. Tờ báo có khuynh hướng chính trị, ủng hộ những người và những việc chống Pháp, cũng như đả kích những người thân Pháp. Sau bài thơ Chày, tờ báo bị rút giấy phép vào ngày 25 tháng 7, 1932. Sau đó Phùng Tất Ðắc viết cho rất nhiều báo, cả Pháp ngữ lẫn Việt ngữ, như Cri de Hanoi, Nhựt Tân, Ích Hữu. Ông đã lấy vợ lần đầu năm 17 tuổi, đến năm 1935 lấy vợ lần nữa. Năm 1940 đắc cử chức nghị viên trong Nghị Viện Bắc Kỳ, năm 1945 bị Nhật bắt nhưng được ông bạn làm báo lúc trước là Trần Trọng Kim, lúc này là thủ tướng nước Việt Nam, cứu ra khỏi tù. Năm 1954 Phùng Tất Ðắc di cư vào Nam, năm 1975 di tản qua Anh quốc, cư ngụ ở Cambridge, và từ trần tại đây ngày 29 tháng 2, 2008, thọ 101 tuổi. Bài này được viết nhân cái giỗ thứ tư của vị đàn anh trong văn giới và báo giới Việt ngữ.
Viên Linh
(2.2012)
Phùng Tất Đắc
NGUỒN: WIKIPEDIA
Phùng Tất Đắc sinh ngày ngày 20 tháng 6 năm 1907 tại Hà Nội, cũng là nơi ông trải qua thời thờ ấu. Lớn lên, Phùng Tất Đắc theo học trường Bưởi. Trong năm học thứ ba của ông ở trường, một giám học người Pháp đánh bạt tai một học sinh người Việt Nam và miệt thị người học trò này là “sale Anamite” (đồ dân An Nam bẩn thỉu). Việc này khiến học sinh toàn trường bất mãn và tổ chức bãi khóa. Sau nhiều ngày dàn xếp không có kết quả vì viên giám học không chịu xin lỗi, cuộc bãi khóa tiếp tục và nhà trường quyết định sử dụng biện pháp mạnh tay để đàn áp: đuổi học một số học sinh, trong đó có Phùng Tất Đắc và một người bạn ông sau này cũng trở thành nhà văn Lê Văn Trương.
Trong số những học sinh bị đuổi học, sau này có vài người tìm cách trốn sang Pháp, mấy người khác đổi tên họ để đi làm cho nhà nước thuộc địa. Lê Văn Trương sang Lào tìm vàng và viết tiểu thuyết phiêu lưu. Phùng Tất Đắc cũng theo bạn định trốn đi ngoại quốc, nhưng bị ông cụ thân sinh gọi về Nam Định, bắt lấy vợ. Là con trưởng, ông phải tuân theo lời cha và lấy vợ năm mới 17 tuổi (1924). Nhưng rồi cuộc hôn nhân này không bền và hai người đã xa nhau sau khi có một cô con gái. Năm 1945 bà vợ này và người con gái qua đời vì bạo bệnh.
Đóng góp văn học, thời kỳ ngoài Bắc
Vào khoảng năm 1928-1929, Hoàng Tích Chu, một nhà báo tiên phong ở Bắc Kỳ từ Pháp trở về nước nhận lời làm chủ bút cho Hà thành ngọ báo. Năm 1929 (có tài liệu nói năm 1930), Hoàng Tích Chu xuống Nam Định rủ Phùng Tất Đắc, đang làm thư ký cho Tòa đốc lý Nam Định, lên Hà Nội cùng làm báo. Phùng Tất Đắc, khi đó 22 tuổi, mang theo 4.000 đồng tiền của nhà, lên Hà Nội cùng với Hoàng Tích Chu, Phùng Bảo Thạch và Tạ Đình Bính xuất bản tờ báo Đông Tây, đặt trụ sở ở số nhà 12, phố Nhà Thờ, Hà Nội. Lúc đầu, tờ Đông Tây chỉ có hai người viết là Hoàng Tích Chu, ký bút hiệu Văn Tôi, và Phùng Tất Đắc.
Dần dần tờ báo quy tụ nhiều tay viết có tư tưởng canh tân như Phan Khôi, Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình Bính, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Nam Sáu, Tô Ngọc Vân,Trần Quang Trân, Lê Phổ, Đỗ Mộng Ngọc, Vi Huyền Đắc, Trịnh Đình Rư, Thiết Can, Hoàng Ngọc Phách. Tờ Đông Tây mang nặng tính chính trị, thể hiện sự thông cảm với thất bại của khởi nghĩa Yên Bái và các lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, phê phán chủ thuyết quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh, tố cáo những viên tham quan như Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định… Tờ báo được công chúng ủng hộ mạnh mẽ và trở thành tờ báo bán chạy nhất Bắc Kỳ thời đó. Tuy nhiên, cuối năm 1932, vì bài thơ Cái chày ám chỉ Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định dùng chày đánh vào đầu gối phạm nhân mà Đông Tây bị thu hồi giấy phép với tội danh “vu khống người nhà nước”. Số cuối cùng của Đông Tây là ngày 25 tháng 7 năm 1932.
Phùng Tất Đắc cùng vài người bạn khác lại sang làm cho tuần báo Duy tân, nhưng tờ báo này cũng yểu mệnh sau khi ra được 22 số.
Ngoài ra Phùng Tất Đắc từng đóng góp bài vở cho các báo chí khác ở Bắc Kỳ như Cri de Hanoi, Fléchettes, Nhựt Tân, Hải Phòng Tuần báo, và Ích hữu. Ông là tác giả hai vở truyện Trương Chi, Bích Mã Lương và nhiều bài nghị luận được đăng dài hạn.
Sau đó là một thời gian chừng ba, bốn năm, Lãng Nhân đi giang hồ vào miền Trung. Ông lần lượt đặt chân đến Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, rồi vào cả miền Nam. Trong giai đoạn này, Phùng Tất Đắc có lúc làm thư ký cho luật sư Dương Văn Giáo ở Quy Nhơn, có hồi vào Sài Gòn viết báo, trong số chủ báo có ông Diệp Văn Kỳ.
Năm 1935, Phùng Tất Đắc quay về Nam Định và lấy vợ lần nữa. Bà vợ hai của ông làm nghề buôn sợi nên gia đình rất khá giả. Nhờ thế Phùng Tất Đắc có một cuộc sống khá phong lưu, từng được dân Nam Định gọi là “công tử thành Nam”. Năm 1940, Phùng Tất Đắc ra ứng cử chức nghị viên trong Bắc Kỳ nghị việnvà giữ chức này cho tới khi xảy ra cuộc đảo chính của quân đội Đế quốc Nhật Bản vào Tháng Ba năm 1945. Phùng Tất Đắc bị vu cáo giữ vàng cho người Pháp nên bị quân Nhật bắt giữ và tra tấn để khảo vàng. Ông may mắn được một đại tá người Nhật cứu ra rồi đến lánh nạn ở nhà ông Trần Trọng Kim, lúc bấy giờ là thủ tướng chính phủ Việt Nam.
Sự nghiệp trong Nam
Sau Cách mạng tháng Tám, ông đi tản cư được một năm thì lại đem gia đình trở về Hà Nội và lại sống thong dong nhờ bà vợ đảm đang làm đại lý nhiều cửa hàng buôn sợi. Năm 1954, ông đưa gia đình di cư vào Nam đến Sài Gòn rồi được một người bạn là ông Phan Cao Phái nhờ trông coi nhà in Taupin do Pháp để lại; cơ sở này là hậu thân của nhà in lớn IFOM (Imprimerie Française d’Outremer) thời Pháp thuộc để trở thành Kim Lai ấn quán. Thời gian từ 1954 đến 1975, Phùng Tất Đắc phụ trách nhà in Kim Lai và các nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư, in sách của chính ông và một số thân hữu, như Đoàn Thêm, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tạ Tỵ… Tên tuổi ông được biết đến nhiều nhất là qua các tác phẩm biên soạn vào thập niên 1960 như Giai thoại làng Nho, Chơi chữ, và Hương sắc quê mình. Đây cũng là thời kỳ sung mãn nhất trong sự nghiệp viết văn của ông với nhiều biên soạn và trứ tác.
Năm 1975 ông sang tỵ nạn tại Cambridge, Anh và mất ngày 29 tháng 2, 2008.
Tác phẩm
- Trước đèn – 1939
- Chuyện vô lý – 1942
- Chơi chữ – 1960
- Cáo tồn – 1963
- Giai thoại làng nho – 1963
- Hán văn tinh túy – 1965
- Thơ Pháp tuyển dịch – 1968
- Chuyện cà kê – 1968
- Khổng Tử – 1968
- Tư Mã Quang, Vương An Thạch – 1968
- Nguyễn Thái Học – 1969
- Tôn Thất Thuyết – 1969
- Nghiêm Phục – 1970
- Hương sắc quê mình
- Nhớ nơi kỳ ngộ