Quyền Con người, quyền tự nhiên, quyền cổ điển?
Quyền Tư Tưởng, Quyền Đi Lại, Quyền Thông Tin, Quyền Ngôn Luận, …và nhiều nữa, tất cả những « quyền xưa » ấy, «quyền cổ điển » ấy, « quyền ai cũng biết rồi, khổ lắm nói mãi » ấy, ngày nay ở sống Âu Mỹ, chúng ta hầu như không ai nói đến, không ai nghĩ đến, chúng ta sử dụng các quyền ấy một cách tự nhiên, chúng ta thản nhiên sống với những quyền ấy, trong những sanh hoạt hằng ngày, trong cả những cử chỉ hằng ngày, chúng ta chỉ cảm nhận được , biết được, và chỉ phẫn nộ, hay đấu tranh đòi hỏi, khi một ai đó dám « xâm phạm ».
Trái lại, chúng ta, ngày nay ở Pháp, ở Âu châu, ở Mỹ, đấu tranh, bàn cãi, tranh luận cho các quyền của các thành phần « thiểu số » trong xã hội. Trong các xã hội Âu Mỹ ngày nay, (chỉ có Âu Mỹ, và dỉ nhiên có cả Úc và Tân Tây Lan nữa, xin lỗi các độc giả ở Úc, chúng tôi không quên quý vị đâu khi nói đến Âu Mỹ hay phương Tây !), các xã hội ấy được chia xếp thành nhiều thành phần đa dạng, với nhiều đòi hỏi đặc biệt, với các đặc quyền đặc lợi. Chia theo thứ tự hàng dọc, trên dưới giai cấp giàu nghèo, bằng cấp, « cổ trắng » hay « cổ xanh », nhưng cũng chia theo hàng ngang, theo cộng đồng, tùy mầu da, tùy chủng tộc, tùy thời gian tỵ nạn, tùy hội nhập, cư ngụ tùy vùng…chia theo Tôn giáo, chia theo tập quán tình dục (đồng tình luyến ái) chia theo cả mập ốm, béo tròn … Ngày nay, người Âu Mỹ sợ « kỳ thị » đủ mọi thứ…từ tên tuổi, già trẻ (có những chổ công cộng chống trẻ con, có nơi chống người già, có nơi chống súc vật), đến nhơn danh sức khỏe, cấm hút thuốc, cấm ăn mỡ, cấm uống rượu… Những quyền đặc biệt các thành phần « thiểu số » ấy phải được phát biểu, ít ra phải được đem ra tranh luận, biểu quyết, thậm chí là những đề tài đấu tranh , tranh cử…
Thử thí dụ về « quyền Đàn Bà » (dưới cái đề tài chung chung « Đàn bà », nhiểu tiết mục khác nhau cho nhiều Quyền khác nhau, và đấu tranh khác nhau. Khi thì « Nam nữ bình quyền » đơn thuần : Nam nữ bình quyền trong – nghể nghiệp – lương bổng — chức vụ…Nhưng có khi là những quyền lợi bảo vệ đặc biệt cho cái « đặc biệt » của người Đàn bà : sinh đẻ, nuôi con, quyền thụ thai như ý muốn – lúc nào, thời gian nào – cả quyền phá thai nữa – cả quyền thụ thai có con như không có đàn ông ( Thụ thai Nhơn tạo, từ ngữ dịch sai, thụ thai lúc nào cũng Nhơn Tạo, hổng có Nhơn làm sao có thai ? ) Cùng song song với quyền Phụ nữ, « Quyền Thai nhi », bao nhiêu tuổi thai nhi có quyền, khi mới thụ thai ?, một tuần ?, một tháng ? ) đấy là những đấu tranh, đòi hỏi, tranh chấp, trong thế giới các quốc gia tiên tiến ! …Còn đối với các quốc gia chậm tiến, trong ấy có cả Việt Nam chúng ta, những cuộc đấu tranh nhằm cho những « bảo vệ nhơn phẩm người phụ nữ » chống lại những tập tục hủ lậu các nước chậm tiến : nào là cưởng hôn, tảo hôn, ấu hôn, mua trinh, giá trị của màn trinh, cắt quy đầu âm hộ, may âm hộ, .. ..nào là mua bán phụ nữ… Đấu tranh nhằm bảo vệ vai trò người đàn bà trong gia đình, bịt mặt, bịt đầu, đàn bà không được ra đường một mình, « tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử » của Khổng giáo hủ Nho….Ngày nay nếu Quyền « làm lễ hôn phối giữa người đồng tính » tạo xì căng đan cho mọi xã hội, thì Quyền phải « có nhà ở » cho mọi công dân, Quyền một người ngoại quốc « di trú» được bầu cử, Quyền được « lánh nạn »…là những bước tiến đáng để chúng ta suy nghĩ ! !
Thế giới phương Tây ngày nay đưa nhiều ý kiến, nhiều quan điểm đấu tranh về Nhơn quyền. Nhiều đến một anh bạn người Syrie, tỵ nạn chánh trị không hiểu được, anh bảo, làm sao dân Syrie chúng tao làm cách mạng Dân chủ, đòi hỏi tôn trọng Nhơn quyền được ? Khi tụi bay, (nói chuyện với người viết) bảo Nhơn quyên có cả quyền các con vợ có quyền ngang chồng trong gia đình, dám bàn cải với chồng, không nghe lời chồng. Khi cả các thằng « đồng tình luyến ái » được quyền sống tự do cái mà Chúa cấm (Chúa của Hồi giáo), nay lại đòi làm lễ hôn phối mà tụi cũng không nhốt, không bỏ tù, ở xứ tao là tụi tao treo cổ vì phạm tội Chúa ? Khi mình, người viết trả lời rằng, đàn bà là 50%, có khi 60% nhơn loại, và những người đồng tình luyến ái cũng là con người, cũng là Con Chúa, cũng là anh em chúng ta, và nếu họ cần yêu người đồng tính, họ chỉ tìm hạnh phúc với người đồng giới tính, là biết đâu, đó là do ý Chúa. Nếu thật sự các anh là những người ngoan đạo, thi các anh phải thương yêu tất cả…như tình yêu Thiên Chúa thương yêu tất cả nhơn loại. Anh bạn người Syrie đến nay vẫn không hiểu mình, khi mình nói Dân chủ việc đầu tiên là nghe ý kiến người khác, và nếu mình không đồng ý vẫn tôn trọng ý kiến người khác, Dân chủ là những dị biệt, những bất đồng sống cạnh nhau, không bắt buộc phải hòa hợp với nhau ? trao đổi, thông cảm, tương kính, và phục vụ cho một cộng đồng chung, vì đó là trật tự xã hội.
Người viết xin kể với quý độc giả câu chuyện trên để chứng mình rằng quan niệm Dân chủ còn rất xa vời với nhiều dân tộc, nhiều văn hóa khác nhau. Người bạn Syrie của tôi là một anh chiến sĩ Dân chủ đáng khen, đáng nể phục, chống độc tài Bachar al-Assad, anh thường kể cho tôi biết những giấc mơ Dân chủ của anh, anh có những giấc mơ dân tộc Syrie được những Quyền con người, Quyền công dân, những Quyền « tuy rất xưa của thế giới phương Tây » như « Quyền ngôn luận », « Quyền bầu cử », « Quyền đi lại », quyền , quyền… Nhưng anh không đồng ý với vài cái quyền, anh tranh luận với tôi về « Nam nữ bình quyền », anh chấp nhận « có thể » có đàn bà làm đại biểu, dân biểu Quốc hội, nhưng chỉ « đại diện khối Đàn bà », « đại diện tiếng nói phụ nữ », anh chấp nhận đán bà đi học, có bằng cấp, nhưng chỉ trong những ngành nghề « đán bà », như đàn bà « có thể » làm Bác sĩ « để chửa bịnh, khám bịnh đàn bà », làm Cô giáo, làm cô Hộ sinh…Ráng lắm, anh chấp nhận cho đàn bà làm Tổng Bộ trưởng các Bộ « Đàn bà », các Bộ « Gia đình »…Ráng thêm tý nữa … Bộ « Xã hội » hay Bộ « Y tế » Chứ các Bộ Kinh tế, Quốc Phòng, hay Thủ Tướng thì … Đàn bà biết cái gì mà làm ! Và đến cả ngày nay, anh tỵ nạn ở Pháp, từ hơn 6 tháng nay, sống trong một gia đình người Pháp, rất tiến bộ, …anh vẫn tiếp tục trình bày say sưa những quan niệm ấy, mặc dù anh có kiến thức đại học, mặc dù anh là một chiến sĩ Dân chủ, mặc dù anh đã ở Syrie, độc tài, đánh nhau, vào sinh ra tử … Anh hiện bị thương, cụt một chân, anh về dưởng thương ở một gia đình người Pháp ủng hộ phong trào kháng chiến Syrie quen với chúng tôi. Tôi thường đến thăm gia đình ấy vì cùng họ đạo ( Tin Lành), và do đó làm quen với anh bạn người Syrie nầy. Qua kiến thức anh bạn người Syrie nầy, tôi đo lường được các khoảng cách khổng lồ giữa ý thức chánh trị và quan niệm Dân chủ của thế giới thứ ba chậm tiến và các quốc gia tiên tiến Âu Mỹ. . Cá nhơn chúng tôi tự hỏi: «những đấu tranh chống độc tài, những cách mạng màu các quốc gia cựu Sô Viết, những cách mạng hoa lài, những nổi dậy A rập, những mùa xuân A rập có phải thật sự là những đấu tranh đòi Dân chủ, đòi Nhơn quyền, đòi quyền Tự quyết cho người dân hay chỉ là những bạo động cướp chánh quyền của nhóm nầy chống nhóm nọ, của phe nầy chống phe kia, giành giựt quyền lợi. Dân chủ, Nhơn quyền ? Tự do, Độc lập chỉ là những bánh vẽ, những chiêu bài rỗng tuếch bán cho người dân, những nạn nhơn muôn thuở của muôn cuộc Cách mạng, của muôn cuộc Chiến ?» Hỏi để mong quý vị trả lời giùm.
Ấy là chúng tôi, người viết không dùng chữ « tự do », đi với chữ « quyền » vì đối với cái suy nghĩ của những công dân các quốc gia tiên tiến, dùng thêm từ « tự do » với từ « quyền » biến thành điệp ngữ « pléonasme », đúng hơn là điệp ý. Việt Nam ta đấu tranh đòi Tự do Ngôn luận, Tự do Tư tưởng…Đòi như vậy, Nhà nước Cộng sản cầm quyền sẽ trả lời, và đã trả lời rằng « Người dânn Việt Nam có quyền chứ ! có tát cả mọi quyền, nhưng không được tự do lung tung đó thôi. Quan niệm vả từ ngữ « lề phải » xuất phát do từ đấy. Để so sánh Nhà cầm quyên Việt Cộng ưa dùng từ ngữ « Dân chủ Đa nguyên », để nói họ vẩn Dân chủ nhưng họ vì Đảng nên Độc Đảng thôi ! Dân chủ phải là Đa Nguyên, Đa Ý, Đa quan điểm, Đó là cái tự nhiên ! Nói Dân chủ Đa nguyên là điệp ý và tai hại hơn mở cửa cho Việt Cộng náo bướng nói láo, cãi chầy cẫi cối ! Như vậy :
Đòi Quyền, là đủ rồi… Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhơn Quyền đã nói chữ quyền là đủ rồi. Quyền là cái điều tự nhiên của Con Người. Tại sao phải thêm chữ Tự do, chỉ vì anh cấm cái quyền tự nhiên của tôi.
Lịch sử Nhơn Quyền
Hôm nay, ta ôn cố để nói rằng những cái « quyền mà ta cho là xưa » là cổ điển ấy, cũng không tự nhiên mà có. Nó là cả một gia tài trong một gia phả đấu tranh, một lịch sử dài phát xuất từ gốc judéo-chrétien – do thái cơ đốc giáo, và đặc biệt do các cuộc đấu tranh của các phái Cơ đốc Tin lành.
Những người đầu tiên đòi nhơn quyền, đòi quyền tự do tư tưởng cho những người ngoài Thiên Chúa giáo là những nhà truyền giáo người Tây Ba Nha, Giòng Tên – Jésuites, Thiên Chúa giáo La mã, trong thời kỳ xâm chiếm các thuộc địa ở Nam Mỹ : Anton de Montesinos, Francisco de Vittoria và đặc biệt Bartolomé de Las Casas, ba vị ấy lập ra nhóm « Trường phái Salamanque ». Chính ba nhà truyền giáo ấy đã đứng ra bào vệ những thổ dân Nam Mỹ ( Indios-Việt Ngữ dịch sai là Mọi Da đỏ) không để các nhóm di dân gốc Âu châu khai thác họ và biến họ thành những người nô lệ. Những Quyền mà Vittoria bảo vệ và đòi hỏi cho thổ dân Nam Mỹ là Quyền được (tự do) đi lại, Quyền tư hữu, Quyền có thể tậu nhà, tậu gia sản, đất đai, Quyền bình đẳng như một công dân khác và Quyền không được một ai đuổi họ ra khỏi nơi họ cư ngụ, nhà vườn, tài sản ( rf thử so sánh : chuyện Đoàn Văn Vươn ở Việt Nam ngày nay)
Những tư tưởng của Vittoria đã giúp linh mục Giòng Tên – Jésuite Francisco Suarez (1548-1617), một nhà hiền triết, một nhà thần học, một luật gia, được người đời thường so sánh với Saint Thomas d’Aquin (1225-1274). Francisco Suarez với Luận án Tractatus de Legisbus ac de Deo legislatore – Luân về Luật và Chúa, Người làm Luật, Ngài được xem là cha đẻ của Luật Quốc tế, Ngài cũng tuyên bố rằng các lãnh thổ của dân bản địa Indio từ nay là đất bất khả xâm phạm, không một vương quyền nào kể cả Vua Y Pha Nho, kể cả ông Giáo Hoàng, không một di dân gốc Âu châu nào có quyền xâm phạm, người bản địa Indio sanh đẻ trên đất nước mình có mọi Quyền như một di dân Âu châu Thiên chúa giáo.
Anh Quốc, Mỹ Quốc, Pháp Quốc
John Locke (1632 -1704), một nhà triết học, hưởng tinh thần và giáo huấn của cha mẹ, một gia đìnhTin lành ngoan đạo, ủng hộ phe ông hoàng Tin Lành Anh Giáo Guillaume d’Orange-Nassau (1650-1702) trong cuộc tranh chấp Ngai Vua Anh Quốc từ 1660 đến 1689. Khi lên được ngôi năm 1689 Ngài lấy tên là Vua Guillaume III. Trước đó Ngai Vua Anh quốc do Charles II 1660-1685 và Jacques II 1665-1688, gốc Thiên Chúa Giáo La mã.
John Locke phục vụ cho Vua mới, đặt những viên đá đầu tiên cho một « Nhà Nước Pháp Trị » : « mỗi người đều được hưởng những quyền do xã hôi do Nhà Vua (Nhà Nước) tạo lập, tôn trọng và khởi xướng ». Tư tưởng của John Locke đã giúp đở tạo thành Bản Tuyên Ngôn Nhơn Quyền đầu tiên của lịch sử nhơn loại, năm 1689 : the Bill of Rights.
Bill of Rights nhìn nhận một số quyền cho người công dân và người thường trú trong một nền quân chủ lập hiến và quan trọng hơn cả, ngăn chận một phần các quyền hạn của Nhà Vua để trao trả cho người dân qua nhóm đại diện là Quốc hội.
Nếu chúng ta có dịp đọc kỹ bản văn Bill of Rights nầy, chúng ta sẽ thấy sự ảnh hưởng sâu xa của cuộc nội chiến Tôn giáo đã xâu xé lịch sử Anh Quốc suốt thế kỷ thứ 17. Thật vậy đây là một bản văn do phe ttắng trận viết. Cũng vì phe thắng trận là phe Tin Lành, nên người Tin Lành nhấn mạnh rằng từ nay, sẽ không chấp nhận những đàn áp Tôn giáo do Triều đình ( bất cứ Tôn giáo nào) đàn áp người Tin Lành ( Tự do Tôn Giáo, Tự do Thờ phượng). John Locke rất chú ý, và nhấn mạnh nhiều lần những điểm nầy.
Bản văn Bill of Rights nầy làm nền tảng cho Tuyên Ngôn Virginia tháng 6 năm 1776, cho Tuyên Ngôn Độc Lập Huê kỳ ngày 4 tháng 7 năm 1776, do Thomas Jefferson thảo và Tuyên Ngôn Quyền Con người và Quyền Công dân Pháp tháng 8 năm 1789.
Những Tuyên Ngôn Huê kỳ đều do hậu duệ hay chính những thuyền nhơn của chiếc thuyền Mayflower cặp đất Mỹ Tự do, tỵ nạn năm 1620, gồm toàn là những Giáo dân Tin lành người Anh. Những dân tỵ nạn người Anh nầy đấu tranh để được độc lập đối với Mẫu quốc Anh. Họ đòi Vương triều Anh phải tôn trọng họ, trao cho họ Quyền Ngôn luận, Quyền Tôn giáo và Tâm linh. Bản kêu gọi lòng bao dung Tôn giáo và sự đãi ngộ ôn hòa đối Tôn giáo trong văn phong, trong lời lẽ của bản kêu gọi phản ảnh sự lo lắng của nhóm Tin lành đối với thái độ gây hấn và đàn áp người Tin Lành của Vương Triều Anh lúc xưa . Làm như Nhơn quyền và những Quyêné Con người chỉ được nói đến trong một không khí đàn áp đầy sợ hãi ! Làm như phải nói đến, phải đấu tranh, phải bảo vệ Nhơn quyền, chỉ khi nào Nhơn quyền bị xâm phạm.
Nhưng ngày hôm nay, Nhơn quyền được nói đến nhiều. Nhiều Hiệp hôi quốc tế được ra đời để bảo vệ Nhơn quyền, để quan sát xem ở đâu Nhơn quyền bị xâm phạm. Và cũng như thành ngữ « Quét nhà ra rác ». Càng quan sát, càng bảo vệ Nhơn Quyền, càng nhận thấy Nhơn quyền bị đàn áp mỗi ngày một nhiều, và ở những nơi chúng ta không tưởng tượng được.
Nhưng Giáo hôi Vatican chống
Năm 1776, khi các Tuyên Ngôn Huê kỳ được công bố, Tòa Thánh Roma. Roma phản ứng chống ngay, cho đấy là Tà giáo. Roma cho đấy là kết quả của Tin Lành, chống lại Nhà Thờ La mã. Cũng vì lý do đó mà Tòa Thánh Roma kết án ngay bản Tuyên Ngôn Pháp ngày 12 tháng 7 năm 1790. Chính cái điều số 10 là cái điều nguy hiểm nhứt đối vơíi Giáo hội La mã : Điều 10 Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Công dân Pháp cho phép công dân Pháp có quyền Tôn giáo và Tín ngưởng không bị ràng buộc bởi Nhà Nước. Giáo hôi Thiên Chúa Giáo La mã chỉ chấp nhận Quyền Tín ngưởng nầy sau Công đồng Vatican II ngày 7 tháng 12 năm 1965.
Còn Việt Nam?
Là một nước Cộng sản chủ nghĩa và Xã hôi chủ nghĩa, Việt Nam không biết Nhơn quyền là gì cả. Cả người công dân Việt Nam cũng không biết « quyền công dân » của họ có những gì, gồm những gì. Chế độ độc tài, đặt Đảng trên cả Luật lệ , Hiến Pháp, Quốc hôi , Nhà Nước… thì là sao biết quyền công dân, quyền con người là gì.
Chế độ Xin/Cho. Mỗi mỗi chuyện, mỗi phải làm đơn Xin . Khi Xin thì được Phép, tức là Cho Phép. Nếu không Xin được thì Mua, mua bằng đút lót, muabằng bao thư, tất cả đều có giá nói tóm lại tham nhũng.
700 tờ báo, 700 cách để phát biểu ý kiến, nhưng không một tờ báo tư nhơn nào. Tất cả do Đảng Cộng sản kiểm soát. Kiểm soát Ngôn luận, kiểm soát Thông tin chưa đủ, kiểm soát cả Tư tưởng. Thư riêng, blog là những phát biểu ý kiến riêng không có tầm vóc thông tin cũng bị kiểm duyệt, đi tù. Trung Cộng và Việt cộng là hai Nhà cầm quyền đàn áp các người sử dụng mạng thông tin tin học. Đàn áp quyền ngôn luận, đàn áp quyền tư tưởng, đàn áp cả quyền tín ngưởng . Những Nhà thờ Tin lành miền Thượng du Nam Việt, các Linh mục, các Mục sư, các tu sĩ Hòa Hảo, các tu sĩ Phật giáo đều bị kiểm soát, kiểm duyệt, sai trái có thể đi tù… Kiểm soát các Chùa , kiểm soát các Nhà Thờ, các Nhà Nguyện … buộc phải tu hành một kiểu, cúng kiến một kiểu… Thặm chí Trung Cộng đánh như thế, hạ nhục Nhà Nước Việt cộng như thê, mà người Việt Nam tử tế vẫn không có quyền bàn tán, có thái độ, tỏ thái độ, phát biểu thái độ, bất mãn, biểu tình phản đối chốngb Tàu là bị « dùi cui », là đi tù, là lãnh án. .
Nói tóm lại từ ngày 30 tháng tư 1975, dưới chế độ cầm quyền của Cộng sản, tất cả những quyền con người vắng bóng hoàn toàn trên dãi đất Việt Nam. Người dân chi có những bổn phận đối với Nhà nước Cộng sản, chỉ biết làm ăn, để sanh tồn, để sanh sống. Kiếm ăn, kiếm sống, sanh tồn qua bửa, qua ngày chả khác chi một loài thú vật. Công dân một đất nước không có quyền Trung thành với đất nước, với Tổ quốc, mà chỉ Trung thành với Đảng. Vậy thi quyền công dân ở đâu ?
Tình hình kinh tế, vật giá đang leo thang, lạm phát phi mã, dân càng ngày càng nghèo, càng đói.. Bất mãn, chống đối càng ngày càng nhiều, nhưng phong trào đấu tranh cho Nhơn quyền vẫn chưa rầm rộ, trái lại phong trào yêu nước càng ngày càng dâng cao, Trung Cộng càng làm nhục ta, lòng dân càng bất mãn. Bất mãn Tàu chưa đủ, phải bất mãn cả với Việt Cộng đã quá hèn kém, không bảo vệ được đất nước, không bảo vệ được dân, để dân ta bị nhục.
Mong rằng nỗi nhục sẽ đưa đến đấu tranh đòi Nhơn quyền, đòi Dân chủ lật đổ Cộng quyền.
Hồi Nhơn Sơn, tháng tư đau nhục 2013.
Phan Văn Song
2 Comments
Dân trần
Kỳ thi tốt nghiệp Phổ Thông Trung Học ở Việt Nam hiện nay ; chỉ luẩn quẩn sáu môn trong các môn học được chỉ định để chọn: Văn, Toán, Ngoại Ngữ, Lý, Hóa, Sinh, Sử và Địa .
Môn căn bản nhất thuộc về con người : CÔNG DÂN ; có học nhưng không bao giờ được chỉ định để chọn thi tốt nghiệp.
Môn học có tính hiện đại phát triển : TIN HỌC , có học nhưng cũng không được chỉ định để chọn thi trong kỳ thi tốt nghiệp Trung học .
Ngoài ra còn một số môn học khác trong chương trình chính thức như : Quốc Phòng, ngoại ngữ 2, thể dục..
Học thì nhiều, thi tốt nghiệp chỉ chốt ba môn chính : Văn, Toán, Ngoại Ngữ !
Còn : Sinh, Lý, Hóa, Sử, Địa . Thông thường trong năm môn này thì chọn 3 ; đa phần Sinh thì chắc chắn, còn chọn Lý thì bỏ Hóa, chọn Sử thì bỏ Địa . và ngược lại .
Lại, môn rất “nguồn cội” là môn SỬ ; vài năm liên tiếp không được chọn, và sự kiện năm nay thấy được – học sinh một trường Trung Học Cấp 3 đã xé nát đề cương môn SỬ , chỉ sau khi biết kết quả các môn được chọn thi tốt nghiệp 2013 là không có môn Sử ! Một trận mưa giấy giải tỏa tâm lý – thoát nạn học và ôn thi môn Sử !!!!Mưa giấy trắng sân trường !!!
“Tất cả vì học sinh thân yêu” !!!
Học sinh là tương lai của đất nước mà không cần biết đến nguồn cội – Lịch sử , cũng chẳng ý thức được công dân là gì ? Thì thật xa vời với khái niệm ” quyền công dân ” !
Metamorph
Tại sao có những con người không cần nhân quyền?
Tưởng tượng một bộ lạc người thiểu số vùng sâu vùng xa đâu đó miền ngược trên đất nước ta. Hãy gọi là làng thay vì bộ lạc cho có vẻ tôn trọng họ. Theo truyền thống, cả làng bầu ra một ông tù trưởng, thì cũng gọi là trưởng làng cho nó có vẻ lịch sự. Toàn ngôi làng cách biệt hẳn với đồng bằng nơi có vô số người Kinh, còn gọi là người Việt ở. Khác với chúng ta, họ không biết ánh sáng điện lực. Ngay cả xe đạp cũng ít người được nghe nói tới, nói chi được xem, được sờ tận mắt. Từ những mẩu chuyện kháo nhau, cái xe đạp được mô tả thành nhiều phiên bản. Kẻ thì nói xe đạp là 2 cái bánh xe, phải cần 1 người đẩy mới chạy được, người thì nói cái xe đạp giống cái kiệu rước thành hoàng, phải cần 2 người khiêng. Rốt cuộc, chẳng ai có một hình dung rõ rệt cái xe như thế nào.
Đời sống người dân ở đây quanh năm vất vả. Họ phá rừng làm rẫy. Phụ nữ cũng địu con ra rẫy. Cho nên mới sinh ra cho đến già 50 tuổi cũng phải lao động mà vẫn không đủ ăn vì mùa màng hoàn toàn lệ thuộc vào mưa mà mưa nắng thì thất thường nào ai biết trước được. Đói khát triền miên cộng với thuốc men chả có nên chẳng ai sống quá 50 tuổi. Cả làng chỉ có vị trưởng làng là không lao động. Ông ta ở cái nhà to nhất, cũng dùng làm nơi hội họp mỗi khi có lễ hội, ma chay hay công việc cần thông báo cho mọi người biết. Ông cũng là người có nhiều trâu bò nhất vì từ lâu trong “hiến pháp” của làng, mọi vi phạm lệ làng được quy thành trâu bò gà vịt nộp cho ông. Cũng theo “hiến pháp” làng, ngôi vị trưởng làng dành cho người cao tuổi nhất và cứ thế làm trưởng làng cho đến chết.
Người giàu có thứ hai là thày mo làm nhiệm vụ y sĩ. Con người ai chả bịnh? Ở cái nơi không có ánh sáng văn minh, dĩ nhiên thuốc men tây phương làm gì có. Mỗi khi có bịnh, dân làng chỉ vào rừng tìm những lá cây gì đó có dược tính giã nát làm thuốc. Chữa không khỏi thì phải sắm sửa trâu bò lễ vật đến gặp thày mo. Không phải tiêu cực như dưới xuôi đâu. Chuyện này cũng thường thôi. Ai bịnh mà không tốn kém? Kể ra thày mo cũng chữa được hầu như các chứng bịnh. Ai gặp thày mo cũng đều nói bịnh đã khỏi hay tệ lắm cũng bớt nhiều. Thày mo không phải bầu, cũng không được lệ làng quy định ra sao mà chỉ là nghề cha truyền con nối. Mỗi ba tháng thày lại đi vào rừng luyện thuốc. Thực ra, thày đi bộ xuyên rừng sang Lào mua thuốc phiện. Đặc tính thuốc phiện là giảm đau rất kiến hiệu. Sau một buổi cúng kiến trừ tà, thày cho bịnh nhân một viên thuốc phiện, kèm theo một lá bùa đốt thành tro uống với nước suối. Chẳng cần cúng kiến với bùa ngải, chỉ thuốc phiện không cũng đủ làm bịnh nhân tỉnh táo, mọi bịnh tình thuyên giảm ngay lập tức. Cứ như thế từ bao nhiêu trăm năm qua, bao thế hệ nối tiếp nhau, cả làng vẫn sống yên ổn và cái chế độ của làng ấy không có vấn đề gì gây bất mãn, cần phải thay đổi.
Một hôm, làng mở một cuộc họp bất thường. Có một cái gì đó hằn lên gương mặt vị tù trưởng và ông thày mo khiến ai nấy cũng có thể đoán được sự nghiêm trọng của buổi họp. Đó là bọn người Kinh muốn phóng một con đường qua làng và mang điện lực vào làng. Sau khi loan báo tin này, vị trưởng làng cao giọng lên án âm mưu thâm độc của người Kinh. Luận điểm chính của vị trưởng làng rằng trước mắt, mở một con đưởng thì mỗi nhà phải mất ít nhiều đất, có nhà phải bị phá hủy lấy chỗ làm đường. Đất là của ông cha, tại sao bọn người Kinh lại cướp trắng? Mở đường cho xe cộ người Kinh chạy chứ cả làng lấy đâu ra xe mà chạy? Ai hưởng lợi, ai mất đất?
Vị thày mo tiếp theo với lập luận hùng hồn hơn. Ông nói tổ tiên ta cả ngàn năm nay không cần điện, cớ sao ta phải nhường đất ông cha ta cho bọn người Kinh vì điện. Không có điện thì đã chết ai? Cả làng không ai hiểu sự thật rằng, các ông ấy sợ mất địa vị. Có điện nước, có giao thông tất có thuốc tây, thày mo thất nghiệp. Có chính quyền người Kinh, tất có bầu cử thì già yếu như lão trưởng làng chắc chẳng ai bầu. Trẻ em được đi học tất dần dà sẽ hiểu quyền lãnh đạo không phải Trời ban riêng cho ai, mà chỉ có toàn dân ban cho bằng cách đầu phiếu. Chưa ai thấy được văn minh nên không cảm thấy cần nó. Chưa ai mặc quần bao giờ nên vẫn thấy cái khố là truyền thống. Để cho xôm tụ và đẩy mạnh phong trào chống “thế lực thù nghịch”, trưởng làng và ông thày mo hoạch định một lễ hội dự thi “khố truyền thống” có 1 con trâu làm giải thưởng, có sự giúp vui của giàn chiêng cồng của làng và mời cả thanh niên thiếu nữ làng bên tham dự. Năm nay dù chưa tới mùa gặt, làng tổ chức sớm hơn một tháng và linh đình hơn mọi năm. Nếu có sự quan sát nào đó thì người ta có thể nói lễ hội không thuần túy văn hóa mà nhuốm màu sắc chính trị, vì cái không khí lễ hội hừng hực lòng căm thù bọn “thế lực thù nghịch”, bọn người Kinh âm mưu cướp đất dưới danh nghĩa mở đường, dẫn điện.
Cách xa làng này nửa ngày đạp xe đạp, có một làng khác thuộc miền xuôi. Ngược xuôi xuôi ngược không cách xa bao nhiêu về không gian, mà chỉ cách nhau về mức độ văn minh thôi. Hễ cứ thiếu văn minh thì dù chỉ cách nửa ngày đường, thì được liệt vào miền ngược. Có một anh chàng đang ngồi đan sọt bên vệ đường làm cản trở lưu thông bị công an bắt về huyện. Thời xửa thời xưa cách bây giờ non ngàn năm, khi cả nước chuẩn bị đánh giặc Mông, cũng có 1 anh hùng đan sọt. Giời sinh cái quân xâm lăng đến hay. Chúng toàn lấy tên ở chỗ kín con người. Chẳng Háng cũng Mông. Lạ thế chứ. Thời nay, đan sọt không còn là anh hùng nhưng máu yêu nước vẫn còn. Yêu nước có lẽ cũng tốt nhưng yêu nước có đính kèm cái thất học sinh ra dễ bị lợi dụng. Thời Mao Trạch Đông bên Tàu, bọn yêu nước thiếu i ốt được dùng trong việc các đồng chí thanh toán nhau. Ngoài chuyện tàn phá đất nước, hãm hại người lành, có lẽ loại người này chẳng làm được tích sự gì cả. Ta gọi đó là hồng vệ binh. Trong cách mạng, khi các đồng chí lãnh đạo ngày càng giàu có thì hồng vệ binh lại nghèo sút móng. Chẳng ai chịu đoái hoài ban cho chúng ít tiền ăn cháo cầm hơi để phục vụ cách mạng. Nghề đan sọt thời nay cũng vậy. Thời mở cửa, biết bao ngành nghề thi nhau phất, riêng nghể đan sọt vẫn nghèo sặc máu. Vậy thì anh chàng đan sọt yêu nước thiếu i ốt này nghèo kép, double nghèo. Trên con đường bắt giải về huyện, cái bụng chửa bao giờ được no, cứ sôi ùng ục. Đói quá!
Nhân lúc huyện thiếu một chân làm công tác dân vận miền ngược mà các đồng chí chẳng ai chịu đi, một phần vì dân trên ấy chẳng có tiền mà hối lộ, một phần dân trên ấy phản động lắm, họ đánh chết như chơi. Tóm được một tên cản trở lưu thông mắc tật yêu nước thiếu i ốt là dịp để cách mạng lợi dụng. Thế là Năm Lùn, chàng thanh niên đan sọt trở thành một đồng chí tuyên huấn mới toe, được lệnh trên công tác giáo dục làng này. Phải làm sao cho dân làng vui lòng hiến đất cho đề án phóng một con lộ qua làng. Rồi đây, làng sẽ được nâng cấp thành huyện. Có khu du lịch, có trường học, bịnh viện. Lúc ấy ai cũng giàu có, chẳng lo gì đói kém nữa. Nhận công tác, Năm Lùn chẳng được “Trên” cấp cho gì cả. Ngân sách không, ăn uống ngủ nghỉ tự túc, chỉ có một cái loa mượn của huyện và một cái xe đạp. À quên. Còn 1 cái điện thoại di động, phòng khi bọn yêu nước yêu làng đánh thì còn có chỗ cầu cứu.
Giời sinh cái điện thoại thật thần diệu. Thoạt tiên, nó chỉ là một tiện nghi dành cho giới dư tiền dư bạc người Kinh. Dần dà nó là một thiết yếu, không có không được. Này nhé! đi trong rừng chẳng may mất phương hướng, bị lạc, đã có GPS. Nếu không dùng GPS định vị, ta có thể gọi người thân đến đón người bị lạc. Có nó trong tay, ta yên tâm hơn có công an bảo vệ vì cái điện thoại giống như nắm được luật pháp dù đơn độc một mình giữa rừng. Trộm cướp thường e dè khi thấy một người đang áp cái điện thoại vào mặt vì nó có nghĩa, nạn nhân có thể gọi công an đến ngay lập tức. Vắng cái điện thoại một ngày, không, chỉ vắng một lúc thôi, ta cảm thấy như ta yếu đuối đi nhiều lắm. Tiếng nói không còn truyền đi xa. Pháp luật cũng vắng bóng. Bạn bè hàng trăm đứa dù bình thường sát bên tai, chỉ cần ấn vài con số bỗng cách xa vời vợi. Ốm đau làm sao gọi bác sĩ? Làm sao tâm sự với người yêu. Không có nó mới biết không có là không được. Năm Lùn hiểu lờ mờ rằng trên đời có những thứ thật là cần thiết với điều kiện chỉ khi có nó, làm quen với nó, mới biết nó cần thiết, không có không được Thiếu nó cầm bằng sống đấy mà như chết. Hiểu như thế nhưng còn lơ mơ lắm vì ngoài cái TV, cái điện thoại di động, cái xe đạp hắn chẳng còn biết có cái gì thực sự cần thiết cho hắn nũa.
Vừa mới đạp xe tới cổng làng. Gọi là cổng vì lệ thường làng nào cũng có cổng chứ thực ra làng này chỉ có 2 bụi tre 2 bên con đường mòn làm cổng. Chẳng thấy ai ra tiếp đón, chỉ có lũ trẻ suốt đời chưa thấy xe đạp chạy theo, reo hò ơi ới trong mờ ảo bụi đường. Một lũ thanh niên tay dao tay thước như đã chực sẳn, giăng hàng ngang chặn lại.
– Ê thằng lùn. Mày đi đâu đây?
Dựa cái xe vào bụi tre, Năm Lùn toét miệng cười. Vợ hắn vẫn khen nụ cười tươi như hoa, dễ lấy cảm tình. Giá mà chịu khó đánh răng có nhẽ còn dễ nom hơn.
– Ấy chào bà con. Em ở dưới xuôi có chút quà biếu bà con.
Vừa nói vừa tháo cái túi ni lông đựng mấy gói mì, mấy cái quần sà lỏn mắc trên ghi đông vì hắn cho rằng ở miền ngược quen đóng khố chắc thích quần sà lỏn. Mì gói cũng thế. Thứ này ở đây làm gì có.
– Sư bố mày. Cút nghe chửa. Định cướp đất phỏng? Này thì cướp.
Sau khi nghe một tiếng bốp nháng lửa vào gáy, đầu Năm Lùn cúi gục, lưng chúi xuống như dáng điệu của người muốn …xin thêm phát nữa. Tiếp theo là một trận mưa rào đấm đá, gậy gộc giáng xuống đầy chất lượng. Chỉ vài phút hắn chẳng còn biết gì nữa. Chắc là họ đánh nhiều lắm nhưng may là họ không “triển khai” dao với rựa. Đến xẩm tối, Năm Lùn tỉnh dậy. Cái loa mượn trên phường bẹp dí giờ nom giống cái niêu bị ô tô chẹt. Khắp người đau như dần. Cái bẹn ươn ướt như có máu. Khiếp thiếu gì chỗ dễ đánh mà lại đánh cả vào bẹn. Rõ là quân man rợ. Cái điện thoại đâu rồi?
Một thanh niên yêu làng yêu nước thấy cái điện thoại chả biết là cái gì nhưng cũng mang về làm …chày đâm tiêu. Riêng cái xe đạp chúng để lại vì không biết cỡi. Nhạc rừng đêm bắt đầu trổi. Ếch nhái, tiếng cú ăn đêm, tiếng côn trùng inh ỏi. Không còn điện thoại mà đêm hôm khuya khoắt giữa rừng, không khéo chúng nó mò ra tẩn cho một mẻ nữa có mà bỏ mẹ. Năm Lùn nhăn mặt, dựng cái xe, cắm đầu đạp xuống dốc. Bụi tre cổng làng xa dần, bóng một con người lùn tịt cong lưng đạp xe trong đêm nom quái đản như hình ảnh mụ phù thủy cỡi chổi bay dưới ánh trăng halloween kinh dị. Giờ đây hắn thấu hiểu giáo dục bọn người bán khai man rợ thật là vô ích. Họ chưa thấy điện, họ không cần điện. Họ không có xe hơi, họ không cần làm đường lộ. Với con mắt hồng hoang của họ, mọi lòng tốt được nhìn thấy như là những âm mưu ăn cướp của thế lực thù nghịch.
Hiểu! Hiểu rõ rồi. Hắn cũng hiểu thêm rằng, ở miền xuôi, nơi hắn ở, cũng còn có những con người không cần nhân quyền, kể cả hắn cũng không cần, đơn giản chỉ vì họ chưa từng hưởng nhân quyền bao giờ. Với họ, nhân quyền chỉ là vỏ bọc của những mưu đồ đen tối của thế lực thù nghịch. Giống như cái điện thoại, cái xe, cái con lộ dự phóng có dùng rồi mới biết nó cần thiết. Nhân quyền cũng vậy. Đối với người chưa từng hưởng nhân quyền bao giờ, ta thấy nó không cần thiết. Cho nên việc chính quyền đánh chết bố mẹ của ta là chuyện bình thường, có lẽ chính quyền ở đâu trên thế giới cũng đều làm thế, phản đối làm chó gì cho rách việc.
Đã tới ngã ba Huỳnh Ngọc Sĩ. Đạp dấn một đỗi nữa đến miếu thờ ngài Sầm Đức Xương là tới trụ sở huyện. Ấy đấy, ngày nay người ta đặt tên đường tinh những tay tham nhũng, hiếp dâm trẻ con. Giờ này chắc các đồng chí vẫn còn bàn việc nước …ôm. Đã có bia ôm, cà phê ôm tất phải có làm việc nước ôm bên mâm nhậu. Năm Lùn ư ử hát:
– Tổ quốc ơi, con đã về đây…
Metamorph