Đau đớn thay phận đàn bà
Nguyễn Du
Người đàn bà đẹp đầu tiên tôi gặp trong đời là bà ngoại tôi. Khi tôi có trí khôn thì bà ngoại tôi đã ngoài sáu mươi tuổi. Ở tuổi đó, người bà vẫn thẳng, tóc dài gần chấm đất, tuy đã muối tiêu nhưng vẫn còn óng ả, lướt thướt. Bà có chiếc mũi dọc dừa, gò má cao, cặp môi mỏng và cong, rất hiếm thấy trên những khuôn mặt phụ nữ thuần túy Việt Nam.
Bà ngoại tôi pháp danh là Tĩnh Tâm. Tên thật của bà là Hương Quế. Xứ Huế đã đặt cho đàn bà những cái tên đẹp lạ lùng: Dạ Khê, Tiểu Bích, Tú Thiềm, Phiến Tuyết, vân vân.
Mọi người chung quanh cho rằng bà ngoại tôi là một người đàn bà khó tính, khắc nghiệt và lạnh lẽo Bà có một chứng bệnh không bác sĩ nào chữa được. Đó là bệnh nóng cổ. Cổ bà nóng và rát, làm bà ray rứt, khó chịu, ăn ngủ không được, người đâm bẳn gắt. Bà ngoại tôi rất chiều con cháu, nhưng hay la mắng, rầy rà gia nhân. Mẹ tôi là con độc nhất của bà. Gả mẹ tôi cho ba tôi là người Bắc, bà ngoại tôi luôn luôn mang nỗi buồn phải xa đứa con một.
Tôi chưa hề thấy bà ngoại tôi khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Bà ngoại thích coi cải lương, say mê. Nhiều khi xúc động, khóc sụt sùi . Con người tình cảm ấy không thể nào khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Khi bà la mắng người làm, giọng bà như độc thoại, buồn như một điệp khúc than thở, không hề có tính cách đay nghiến của một người chủ thiếu lòng nhân. Lúc về già, người độc nhất mà bà cằn nhằn là ông ngoại tôi. Nhiều khi không duyên cớ. Ông ngoại tôi người nhỏ bé, tính vui vẻ, hồn nhiên. Bà con gọi đùa là Lão Ngoan Đồng như trong truyện kiếm hiệp. Khi bà ngoại tôi càu nhàu, ông ngoại tôi chỉ phớt tỉnh, ngồi đọc báo.
Mẹ tôi kể cho tôi nghe cuộc đời bà ngoại. Bà chỉ có một người chị gái. Hai chị em con quan xứ Huế, gia đình phong lưu trưởng giả. Người chị gái, bà Ấm, lấy chồng đông con nên vất vả. Bà ngoại tôi lấy ông ngoại tôi là con quan, được đủ miếng ăn thì lại phải chịu những đau đớn khác.
Ngoài cảnh làm dâu trong chế độ gia đình phong kiến, bà ngoại tôi là một người mẹ xấu số. Đẻ ba con trai đều chết cả ba. Mẹ tôi thì èo uột, hay đau ốm. Bà ngoại phải đem cho chùa, đổi tên, cho thần thánh khỏi bắt đi. Vì không có con trai, bà phải cưới vợ hầu cho ông ngoại rất nhiều lần. Mẹ tôi kể có lần bà phải nằm giường sát phòng hợp cẩn của ông ngoại và người hầu trẻ. Ông ngoại tôi là một thứ “ông phán” phong nhã, hào hoa, có không biết bao nhiêu vợ hầu vợ lẽ. Không có con trai, bà ngoại tôi phải nuôi con nuôi, hoặc con trai của những người vợ hầu. Những người con trai này lớn lên (trừ người con út) đều phụ công nuôi dưỡng của bà ngoại tôi mà đi.
Thuở nhỏ tôi không hiểu được lòng ưu uất của người vợ lớn là bà ngoại tôi, cũng như nỗi cô đơn của bà. Ở tuổi thơ ấu, tôi không hiểu được căn bệnh nóng cổ của bà. Mẹ tôi bảo bà tưởng tượng ra bệnh. Tôi thì cho rằng bà nóng cổ vì hay hút thuốc Cẩm Lệ.
Tôi lớn lên trong lòng thương và tình quyến luyến của bà ngoại. Có lẽ tôi đã lây tính đa sầu, đa cảm, hay khóc thương phận người của bà. Tuy trí óc non nớt, tôi cũng biết bà ngoại là người hay phiền muộn. Bà thích tôi ngồi coi cải lương với bà, một điều mà bố tôi cấm đoán. Tôi tự cho mình là người bạn nhỏ của bà. Tôi tự nguyện lớn lên sẽ làm cô giáo, mua nhà ở Huế cho bà ngoại ở.
Tôi nhớ mãi có lần tôi bắt gặp bà ngoại tôi nhỏ lệ, không phải vì tuồng cải lương hay vì giận ông ngoại nước mắt bà thấm ướt mái tóc dài. Tay bà run rẩỵ Bà kể cho tôi nghe về một hình ảnh mà lâu lâu bà vẫn thấy trong một giấc mộng đã ám ảnh bà cả đời. Bà dặn dò tôi đừng kể cho ai nghe, kể cả mẹ tôi.
Trong giấc mộng ấy, bà ngoại tôi, người đàn bà đẹp xứ Huế mang tên Tĩnh Tâm, ngồi một mình bên một dòng sông tĩnh lặng. Có thể là dòng Hương Giang, có thể là con sông Bến Ngự, hoặc có thể là khúc sông chảy qua làng Cồn. Trên dòng sông, có những cỗ quan tài trôi từ từ, lặng lẽ.
Người đàn bà ngồi đợi để vớt những cỗ quan tài.
Giấc mộng chỉ đến đó thôi rồi bà ngoại tôi tỉnh dậy.
Bàn tay nhỏ bé của đứa cháu gái là tôi lau nước mắt cho bà ngoại tuổi ngoài sáu mươi. Tôi không thấy sợ, chỉ thương bà ngoại tôi nằm thấy ác mộng. Cơn ác mộng lặng lẽ và im lìm, không tiếng động.
Càng lớn, tôi càng nhớ mãi về giấc mộng của bà ngoại tôi. Có lần tôi hỏi, “Ngoại có biết trong quan tài có gì không?” Bà lắc đầu, không nói. Cái lắc đầu của bà có nghĩa gì tôi không rõ. Bà không biết trong quan tài có gì, xác của người thân, xác của người lạ? Hay là bà lắc đầu vì không muốn trả lời câu tôi hỏi.
Tôi vẫn thắc mắc mãi tại sao bà ngoại tôi nằm mộng thấy quan tài? Tại sao bà mang nhiều phiền muộn? Bà tương đối là được sung sướng vật chất và đời sống được bảo đảm. Trong khi cả nước khổ cực theo chiến tranh, theo nạn đói năm Ất Dậu, theo cuộc kháng chiến chống Pháp và những ngổn ngang của lịch sử thì bà ngoại tôi vẫn may mắn làm người thiếu phụ quý phái đất thần kinh.
Năm mười lăm tuổi, tôi đủ thông minh để phỏng đoán là những cỗ quan tài trong giấc mộng tượng trưng cho những cái chết của ba người con trai bà. Không có con trai là thảm kịch của cuộc đời bà ngoại tôi. Có thể những cỗ quan tài ấy tượng trưng cho nỗi đau khổ của bà khi phải chứng kiến những cái chết của những đứa con trai nhỏ vì bệnh sài kinh. Chung là sự hủy diệt sức sống và lẽ an vui của đời bà. Không có con trai, bà sớm mất tư thế trong gia đình. Nghe chuyện, tôi cảm thấy bất mãn cái vô lý, vô nhân của một xã hội chuyên chế đã gây nên sự đau buồn cho bà ngoại. Đồng thời, giấc mộng của bà làm tôi suy nghĩ đến cuộc đời của những phụ nữ Việt Nam khác trong dòng họ tôi.
Trái với bà ngoại tôi, bà nội tôi không có một cái tên quý phái. Bà nội tôi là con một ông cụ đồ hay chữ. Bà thấp lùn, mặt tròn trịa, phúc hậu, tính tình đơn giản, nhu mì, không bao giờ bẳn gắt. Lấy ông nội tôi là người chủ ruộng, bà nội tôi phải làm việc vất vả, quán xuyến việc đồng áng, nhà cửa. Rồi hai ông bà bỏ hết của cải, ruộng vườn di cư vào miền Nam. Lúc mới vào Sài Gòn, bà tôi phải đi gánh nước thuê, hằng ngày phải dậy từ ba giờ sáng đi bán xôi rong để nuôi gia đình cho đến khi bố tôi được bổ đi dạy. Bố tôi bảo bà nội lùn xủn vì suốt đời phải gồng gánh bưng xách. Những gồng gánh bưng xách đã hủy diệt sức lớn trong xương cốt của bà từ thuở còn là thiếu nữ.
Càng về già, bà nội tôi càng say sưa kể lể những chuyện quá khứ ở miền Bắc Việt Nam. Bà là nạn nhân của tục tảo hôn. Bà bị gả cho một cậu bé trai lên bảy. Buồn tủi, bà trốn bền nhà cha mẹ . Rồi sau, bà lấy ông nội tôi là con nhà địa chủ. Bà phải làm dâu, cũng phải để ông nội tôi lấy vợ bé, và phải tảo tần sương gió. Sinh đẻ cả hơn mười lần, chỉ nuôi được năm. Trong cuộc chiến tranh Việt Pháp, người con gái đầu lòng của bà, cô cả chị bố tôi, bị tử nạn năm hai mươi tuổi. Cô cả là người phụ nữ học thư’c, làm nghề y tá, nói tiếng Pháp thạo.
Ngày còn là học sinh ở Việt Nam, tôi vẫn suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao trong cuộc đời bà nội tôi cũng có những cái tang đau khổ, những biến cố đánh nặng vào đầu óc, vậy mà bà nội tôi không mộng thấy quan tài. Hay là bà nội tôi cũng có nằm mộng đấy, mà không kể lể, khóc thương?
Chiếc quan tài ám ảnh tuổi thơ của tôi cùng với hình ảnh những người đàn bà khác trong họ. Tôi có người cô họ, tên Oanh, năm hai mươi hai tuổi thì chồng chết trận. Cô than khóc, vật vã, gào thét, vất vưởng, mắt lạc thần cả mấy năm sau đó. Trong họ hay bảo: cô khật khùng vì đau khổ. Tôi có người dì họ, tên Thanh, chồng chết đã lâu. Bà ngồi bán nón ở chợ Đông Ba, Huế để nuôi con. Đứa con trai của bà chết trận. Quan tài của con chở về, bà cũng khóc lóc, vật vã, khật khùng như cô Oanh. Chứng kiến nỗi đau khổ của họ, tôi vẫn tự hỏi không biết rồi họ có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi lềnh bềnh trên sông như bà ngoại tôi?
Cũng năm mười lăm tuổi, tôi đọc cuốn Phái Thứ Hai (Deuxième Sexe) của nhà văn Pháp Simone de Beauvoir, tình nhân của triết gia Jean Paul Sartre. Trí óc tôi chưa đủ phát triển để hấp thụ hết cái thuyết tranh đấu cho nữ giới trong tác phẩm của de Beauvoir. Nhưng tôi đã đủ lớn không để nhận thức rằng trong tác phẩm của nhà văn nữ này, không có cái ám ảnh đau thương của những cỗ quan tài như trong giấc mộng của bà ngoại, không có những gồng gánh, bưng xách đến lùn cả người như trong đời bà nội tôi, cũng không có những cỗ quan tài bọc cờ và những cơn vật vã, khật khùng của cô Oanh và dì Thanh. Những phụ nữ Âu Mỹ tranh đấu để được quyền. Còn những phụ nữ trong gia đình tôi phấn đấu để sống còn, và sống là sống cho người chứ không phải cho mình. Tôi tự hỏi tại sao trên mặt đất này mà những mẫu người đàn bà được Simone de Beauvoir phân tích là tác phẩm của trí tuệ và ý thức, còn những người đàn bà thân yêu trong đời tôi là tác phẩm của nước mắt chảy ngược vào lòng?
Tháng tư năm bảy lăm, bố tôi mang vợ con, cha mẹ và anh em vào phi trường Tân Sơn Nhất để đợi máy bay sang Mỹ. Dĩ nhiên là ông bà ngoại tôi ở lại Sài Gòn chứ không thể nào theo con gái và gia đình con rể. Cuộc ly biệt quá ngắn ngủi, vội vã. Để tránh xu’c động, ông ngoại tôi lánh mặt con gái, con rể, và các cháu. Mẹ tôi cũng tránh vương vấn chia tay với ông bà ngoại, và tôi cũng thế. Tôi nhớ mẹ tôi gọi bà ngoại vào trao tay hòm chìa khóa thay thế lời từ biệt.
Bố tôi dùng xe hơi chở gia đình vào phi trường. Không hiểu vì sao, tôi tình nguyện lái Honda PC theo sau. Tôi nhớ mãi hình ảnh bà ngoại tôi đứng ngơ ngác bên cửa sổ sân nhà, không dám hỏi chuyện để tránh xúc động khi những người thân của bà đang tíu tít xưa xoan cho cuộc hành trình vô định. Bà đội nón lá như lúc đi chợ, tóc muối tiêu búi đàng sau, đôi mắt buồn như muốn khóc.
Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy bà ngoại tôi.
Bây giờ tôi đã lớn, tôi không làm cô giáo. Tôi không ở Huế và bà ngoại tôi đã chết.
Một buổi chiều mùa hạ năm bảy chín, tôi theo một người bạn trai Mỹ làm nghề phó nhòm, muốn chụp ảnh tôi để “lăng xê” tôi làm người mẫu. Tôi gọi điện thoại về nhà, thì bên kia đầu dây mẹ tôi tức tưởi: “Con ơi, bà ngoại chết rồi!”. Tự nhiên trong bụng tôi đau nhói như có mũi dao đâm. Tôi không khóc nhưng lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác gọi là “đau như đứt ruột”.
Bà ngoại tôi chết trong đau đớn vì bạo bệnh mà không đủ thuốc men. Bà mất đi không một lần thấy lại đứa con gái thân yêu, con rể, và các cháu ngoại, nhất là đứa cháu đã chia sẻ những giọt nước mắt với bà.
Cái chết của bà ngoại làm tôi thấm thía thêm ý nghĩa “sinh ly tử biệt”. Lần cuối cùng nhìn bà ngoại buổi chiều tháng tư năm bảy lăm, khi bà tần ngần đứng bên cửa sổ nhìn con cháu ra đi là ý nghĩa nỗi khổ “sinh ly”. Và tin bà chết ở bên kia bờ đại dương là ý nghĩa niềm đau “tử biệt”. Tôi tự an ủi nghĩ rằng tôi không phải là người độc nhất thấm thía cái đau sinh ly tử biệt. Mà đó là cái đau chung của cả một dân tộc kém may mắn trên bản đồ thế giới. Nô lệ và chiến tranh. Một cơn lốc chính trị xoay chuyển cả nguồn gốc của một văn hóa nghèo, chậm tiến. Trong phần tư thế kỷ mà hai lần di tản cả triệu con người, vượt đường trường, vượt đại dương.
Tôi vẫn tự hỏi trong thời gian chúng tôi ở Mỹ, và bà ngoại sống thiếu thốn ở Việt Nam, không biết bà có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi sông, và bà có thấy những gì bên trong cỗ quan tài đó ? Điều đó bà chưa hề hé môi chia sẻ với tôi. Hay với bất cứ ai, kể cả chồng con.
Năm một chín chín mươi, tôi có một hồi rảnh rỗi trong nghề nghiệp để đọc lại văn chương Việt Nam. Lần đầu tiên, tôi ngồi đọc hết mấy ngàn câu Chuyện Kiều, để ngẫm nghĩ về nước mắt, định mệnh, và sự phấn đấu của cô Kiều, về thân phận người đàn bà mà Nguyễn Du thương xót như thương xót chính thân phận tài hoa kẻ sĩ, và nỗi cô đơn tột độ của người thức giả:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Cũng năm đó, vô tình tôi đọc một truyện ngắn của bà Bùi Bích Hà, làm tôi nhớ giấc mộng của bà ngoại. Tôi không biết là truyện có thật hay không? Nhà văn kể lại truyện của một người đàn bà Việt Nam đi vớt xác con trên đường đi vượt biển. Truyện làm tôi bàng hoàng, nhắc tôi nhớ hình ảnh người đàn bà chịu đựng, ngồi một mình chờ những cỗ quan tài lềnh bềnh trên sông. Những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.
Tôi đi tìm một cuốn sách tâm lý giải mộng của Tây phương. Trong cuốn sách đó, tác giả bảo nằm mộng thấy quan tài là cảm giác bất an của người bị đe dọa bởi thiên tai, đại họa, sự trừng phạt vô cớ của định mệnh, hoàn cảnh, ở ngoài khả năng và quyền hạn của con người, không đo lường được.
Cuối năm đó, có lần tôi ra đứng bên bờ Đại Tây Dương, ngắm tượng Nữ Thần Tự Do khi thành phố Nữu Ước lên đèn. Gió lành lạnh. Hình ảnh người phụ nữ cầm chiếc đuốc soi bờ đại dương sừng sững một mình tự nhiên làm tôi nhỏ nước mắt.
Tôi không biết mình nhỏ nước mắt vì ai, cho ai. Tôi đâu dám bắt chước con người tài tử Nguyễn Du khóc người ba trăm năm trước để hỏi người ba trăm năm sau. Có lẽ tôi khóc vì tôi nhớ lại cuộc di cư ngày nào. Tôi nhớ đến khuôn mặt đẹp và ánh mắt sầu muộn của bà ngoại tôi. Giấc mơ hồn nhiên của tuổi thơ, sẽ làm cô giáo nuôi bà ngoại ở Huế, tôi đã bỏ mất. Bà không còn chỉ là bà ngoại, mà là hình ảnh Tĩnh Tâm, người phụ nữ sinh trước tôi hai thế hệ. Hình ảnh bà mang tôi về tuổi thơ xứ mẹ. Hình như tôi khóc vì trong lòng tôi cũng mang hình ảnh những cỗ quan tài như trong giấc mộng của Tĩnh Tâm. Vì tôi mang nặng một nơi chốn đã đi vào tiềm thức tôi, một nơi chốn mà thân phận đàn bà là tiếng kêu rên xiết trong những tập tục và thành kiến văn hóa bóp kẹp con người, nơi chốn của một cuộc chiến tranh tức tưởi, và những hỗn loạn lịch sử vời vợi thương đau, đã gây nên sự phá sản, không phải chỉ vật chất, kinh tế, mà e còn lan sang địa hạt tinh thần.
Tôi tự hỏi có người phụ nữ Việt Nam nào nhạy cảm, là nạn nhân của xã hội chiến tranh đó, mà không mang trong lòng những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm? Tôi may mắn sinh ra trong một thời đại không phải gồng gánh, bưng xách như bà nội tôi, không phải cưới vợ hầu cho chồng như bà ngoại tôi, không phải là nạn nhân của tục tảo hôn, không phải tủi sầu vì không có con trai. Tôi may mắn không phải đi vớt xác con, đi nhận xác chồng, xác con trai như những người bất hạnh của cố hương đầy đau khổ.
Tôi tin vào thuyết tiềm thức tập thể của nhà tâm lý học Carl Jung. Cho nên tôi đứng đó, đối diện tượng Nữ Thần Tự Do, bên bờ biển Đại Tây Dương, là một người đàn bà di dân đến từ nước Việt Nam nhỏ bé, trước ngưỡng cửa thế kỷ hai mươi mốt, nhớ đến hương hồn của bà ngoại và nghe tiếng kêu khóc của những người đàn bà Việt Nam xấu số. Tôi đến Mỹ khi còn là đứa bé gái hăm hở trước cuộc đời. Cuộc di cư đã cho tôi lối thoát và cơ hội để áp dụng sự phân tích của Simone de Beauvoir vào đời sống của chính mình. Nhưng tôi vẫn nhỏ nước mắt, hướng về Tây phương và quay lại Đông phương, thường tự hỏi mỗi nơi sẽ đem lại những gì cho tính nhạy cảm và cái tiềm thức văn hóa trong tôi. Nước mắt tôi vẫn nhỏ, cho dù bề ngoài tôi cứng rắn, vì tôi đã nghe, đã chứng, đã xót xa trong lòng về những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.
Dương Như Nguyện
Mùi Hương Quế
3 Comments
ChânPhương
Đầu tiên, trong tư cách là độc giả, là người thưởng thức và thừa hưởng những sáng tạo do các tác giả về tư tưởng, khoa học, và nghệ thuật của xã hội đem đến cho chúng ta; tôi xin được đồng ý với “lời bạt” nơi đầu truyện ngắn “Những Cỗ Quan Tài Của Tĩnh Tâm” của tác giả, Luật Sư – Nhà Văn Dương Như Nguyện.
Việc đồng ý cùng tác giả Dương Như Nguyện, không chỉ đến từ khía cạnh pháp lý và gây ra vi phạm tài chính vì quá rõ ràng mà tôi chỉ xin được thêm chút thí dụ để làm rõ hơn, dựa theo hiểu biết của mình về bản quyền tác giả đối với các sản phẩm văn hóa và khoa học:
Ngay cả khi được sự đồng ý của tác giả/models qua các “Agreement Statements”, thì quyền sử dụng tác phẩm luôn luôn được ấn định trong những giới hạn (bounded limitations) của nó chứ không phải hoàn toàn vô hạn định. Thí dụ, khi thuê mướn người mẫu (models) dù là người mẫu khỏa thân, thì các model released cho các họa sĩ, nhiếp ảnh gia, điêu khắc gia, đạo diễn film ảnh… đều phải ghi rõ mục đích sử dụng và phải tuân theo các giới hạn ghi trong hợp đồng một cách chặt chẽ nếu không muốn bị lôi thôi với pháp luật!
Điều này, là photograhers với nhiều năm kinh nghiệm chúng tôi buộc lòng phải thuộc nằm lòng như những đường chỉ trên đôi bàn tay của mình!
Ngoài vấn đề pháp lý như tác giả đã nêu, chắc chắn là quy ước về đạo đức nghề nghiệp và đạo đức xã hội về hành vi ứng xử của con người văn minh cũng đòi hỏi sự tri ân đối với việc sử dụng công sức sáng tạo của người khác. Do đó, việc sử dụng với các thay đổi về nội dung và hình thức của một tác phẩm văn nghệ khi trích đăng mà không được phép hoặc/và được sự đồng ý của tác giả là điều đáng khinh bỉ, đáng bị lên án trong cộng đồng thông tin liên mạng toàn cầu!
Cũng vì điểm này, mà bản thân tôi chưa bao giờ đồng ý với quan điểm của Roland Barthes trong phê bình văn chương: Nếu cho phép các nhà phê bình áp đặt cái nhìn của mình vào một tác giả khác qua tác phẩm của chính họ, tức là chúng ta đã cho phép nhà phê bình trở thành “hijackers” trong văn học.
Điều đó không phù hợp với quy tắc đạo đức của xã hội văn minh. Nó đã khác hoàn toàn với việc mượn một câu hay một đoạn văn/thơ/ý của tác giả vào một sáng tác mới của mình!
Trân trọng,
Chân Phương.
ChânPhương
Có lẽ cùng với nhà văn Thụy Khuê, LS Dương Như Nguyện đã cho tôi ngạc nhiên rất lớn khi đọc văn của họ:
Cả hai đều rời khỏi nước khi tuổi đời còn trẻ. Thụy Khuê mười tám, ngày đến Paris, Như Nguyện trẻ hơn, chỉ mới mười sáu khi cô đặt chân đến Mỹ. Thế mà, bút pháp và cú pháp Việt ngữ của họ vẫn mượt mà sau nhiều chục năm sống ly hương… Tình yêu của họ đối với tiếng Mẹ đẻ khiến người đọc là CP này đến phải khâm phục. Chỉ riêng về ngữ vựng và hình ảnh/hình dung từ được dùng để diễn tả, xin trích một vài câu với có chữ in hoa:
1/ “Mẹ tôi kể có lần bà phải nằm giường sát phòng HỢP CẨN của ông ngoại và người hầu trẻ.”
Vâng, dường như chỉ những người thực sự chú ý đến từ vựng, cú pháp, và bút pháp một cách thận trọng mới đủ chú ý đến độ dùng chữ “HỢP CẨN” trong câu này!…
Nó khác hẳn cách dùng chữ của tác giả Đỗ Hoàng Diệu trong truyện ngắn khác là “Bóng Đè”. “Bóng Đè” từng là thành công lớn của Đỗ Hoàng Diệu khi bắt chước thủ pháp của GG Marquez trong tiểu thuyết “Hundred years of Solitute” để chuyển thành một truyện ngắn! Tiếc thay dù biết rằng đó là một truyện ngắn hay và thành công về nội dung, bản thân tôi chưa bao giờ có nhận xét gì về “Bóng Đè” chỉ vì các ngữ vựng cô dùng trong truyện ngắn của mình. Một trong các chữ ĐHD dùng mà không biết nghĩa thật sự của nó là “GIAO CẤU”. Có lẽ do sinh ra và lớn lên tại miền Bắc VN, ĐHD cũng còn quá trẻ để hiểu rằng, trong tiếng Việt (Hán Việt)ngày xưa chúng ta không dùng chữ đó để chỉ hành vi tính dục của con người mà không có ý khinh bỉ một cách thô tục. Trong vạn vật học (môn sinh vật, term của cs sau này), chữ “giao cấu” thường được dùng cho các loài thực vật hoặc động vật khác không phải là người. Là một người muốn trở thành văn nhân, qua tác phẩm của mình, ĐHD không thể không chú ý đến sự thanh tao của các ngữ vựng cần thiết phải dùng.
Đây chỉ là hình ảnh so sánh cách dùng ngữ vựng giữa hai tác giả một sống tại Saigon trước năm 1975 và ra đi ngay từ tuổi thiếu nữ, và một hiện đang sống tại trong nước!
2/ “Tôi nhớ mãi hình ảnh bà ngoại tôi ĐỨNG NGƠ NGÁC bên cửa sổ sân nhà, không dám hỏi chuyện để tránh xúc động khi những người thân của bà đang tíu tít xưa xoan cho cuộc hành trình vô định. Bà đội nón lá như lúc đi chợ, tóc muối tiêu búi đàng sau, ĐÔI MẮT BUỒN NHƯ MUỐN KHÓC.”
Chỉ hai câu này thôi, chúng ta có thể thấy được tác giả đã lột tả được vừa hình ảnh vừa tâm trạng của bà ngoại mình trong lúc chia tay với gia đình đứa con gái một giữa thời loạn ly của đất nước!
Điểm qua chỉ đôi điều về hình thức để hiểu được vì sao ta có thể đọc, và hiểu được NCQTCTT.
Nhưng, thế vẫn chưa đủ. Vẫn còn đó là nội dung của truyện ngắn. Nó không chỉ là lời dẫn mượn từ Tố Như (Đau đớn thay phận đàn bà), mà nó còn là tại sao không phải là hình ảnh của bà nội của tác giả? Truyện ngắn ghi lại hình ảnh của bà ngoại Tĩnh Tâm!
Thì đây, trong những nan đề và luận đề của mình, tác giả đã cho chúng ta những câu trả lời khá rõ ràng:
1/ “đó là cái đau chung của cả một dân tộc kém may mắn trên bản đồ thế giới. Nô lệ và chiến tranh. Một cơn lốc chính trị xoay chuyển cả nguồn gốc của một văn hóa nghèo, chậm tiến. Trong phần tư thế kỷ mà hai lần di tản cả triệu con người, vượt đường trường, vượt đại dương.”
2/ “Hình như tôi khóc vì trong lòng tôi cũng mang hình ảnh những cỗ quan tài như trong giấc mộng của Tĩnh Tâm. Vì tôi mang nặng một nơi chốn đã đi vào tiềm thức tôi, một nơi chốn mà thân phận đàn bà là tiếng kêu rên xiết trong những tập tục và thành kiến văn hóa bóp kẹp con người, nơi chốn của một cuộc chiến tranh tức tưởi, và những hỗn loạn lịch sử vời vợi thương đau, đã gây nên sự phá sản, không phải chỉ vật chất, kinh tế, mà e còn lan sang địa hạt tinh thần.
Tôi tự hỏi có người phụ nữ Việt Nam nào nhạy cảm, là nạn nhân của xã hội chiến tranh đó, mà không mang trong lòng những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm?”…
Và có thể nói, hầu hết cả đoạn kết của truyện ngắn đều là những câu trả lời của DNN cho số phận long đong của đất nước của con người VN trong hai, ba thế hệ vừa qua… Đặc biệt, đó là thân phận phụ nữ VN từ thế hệ của bà ngoại cho đến chính tác giả đang đứng đối diện với tượng nữ thần tự do trong một buổi chiều tối cuối năm!
Sắp xếp, trình bày, thắt nút và dẫn giải của tự truyện đi theo một trình tự tự nhiên đến bất ngờ. Bởi vì, người đọc hoàn toàn không cảm thấy một chút vất vả khi phải theo dõi cốt truyện. Các tình tiết dù rút từ từng đoạn ruột, đã được đưa ra như lời kể chuyện, tự tình, như lời tâm sự của một người bạn lâu ngày gặp lại bên tách cafe nghe từng giọt rơi màu sánh nâu!
Quả thật, nếu “Bóng Đè” là một thành công rực rỡ của ĐHD với nội dung hướng ngoại về mặt luân lý để phản ánh xu hướng giải phóng tư tưởng bên cạnh hình thức và ngôn ngữ nghèo nàn của một tác giả trong nước; thì NCQTCTT là thành công toàn diện cả về thủ pháp lẫn nội dung hướng nội từ một tác giả tỵ nạn cs.
Đó là lý do tại sao NCQTCTT đáng được đọc đi đọc lại rất nhiều lần!
Trân trọng,
Chân Phương.
Lai Phuong Hanh
Thần Nữ Một Mình
Thần Nữ Tự Do ơi
Em đứng đó một mình
Chơ vơ trên biển vắng
Chân mỏi biết về đâu
Cố hương xa vạn dặm
Mùa hè xưa bỏ lại
Thu đến lại thêm sầu
Ba mươi năm lưu lạc
Chinh Phụ buồn khúc ngâm
Cung Óan bổng lại trầm
Phương Tây nằm thương nhớ
Người bên bờ phuơng Đông
Đêm trắng bạc mái đầu
Đèn hong mờ một bóng
Trưng Nữ trên ngôi báu
Bơ vơ tự ngàn xưa
Thần Nữ ngày nay đứng
Buồn một mình dưới mưa
Mùa Thu vàng thương nhớ
Gió hát thổi muôn chiều
Ru người quên giấc mộng
Thần nữ em tôi ơi
Lại Phương Hạnh
Muà Thu 2013
tặng chị DNN- sau nhiều năm không gặp..