Lý do tại sao? Câu trả lời liên quan rất chặt tới giải Nobel kinh tế của năm nay.
Người nghiên cứu tổ chức thị trường
Người được giải Nobel kinh tế 2014 là giáo sư Jean Tirole, năm nay 61 tuổi, và đang là giáo sư tại trường Đại học Tolouse 1 (Pháp). Tirole được trao giải không phải vì một công trình nghiên cứu riêng lẻ nào. Thay vào đó, ông được giải vì các đóng góp tích lũy của ông trong suốt 30 năm qua trong một lĩnh vực riêng của kinh tế vi mô có tên “industrial organization”, tạm dịch là tổ chức thị trường hoặc tổ chức ngành, viết tắt là “IO”.
IO là một nhánh tương đối mới của kinh tế vi mô. Giai đoạn “tiền sử” của nó kéo dài đến khoảng cuối thập niên 70 và được khẳng định bởi giải Nobel kinh tế đầu tiên cho ngành này vào năm 1982 (người nhận là giáo sư George Stigler). Từ đó tới nay, IO trải qua một thời kỳ bùng phát mang tính cách mạng nhờ sự phát triển chín muồi của các công cụ phân tích đến từ lý thuyết trò chơi (game theory) và kinh tế lượng (econometrics). Giai đoạn bùng phát này của IO mang đậm dấu ấn Jean Tirole, hay nói theo cách của Ủy ban Nobel: “Cuộc cách mạng này phần lớn là nỗ lực tập thể, nhưng trong số rất nhiều những người đóng góp, Jean Tirole vượt hẳn lên”. Vì lẽ này, ông là nhà kinh tế duy nhất nhận giải Nobel kinh tế 2014, thay vì nhận chung với người khác như những năm gần đây.
Nhưng các nghiên cứu được trao giải Nobel kinh tế năm nay của Jean Tirole nói riêng, và của “nỗ lực tập thể” của các chuyên gia nghiên cứu về IO, có liên quan gì đến những vấn đề mà người tiêu dùng Việt Nam quan tâm? Câu trả lời là rất chặt chẽ.
Trong giai đoạn “tiền sử” của kinh tế học, người ta tin rằng thị trường có những quy luật vận động riêng, và tự nó sẽ có những điều tiết có lợi nhất cho xã hội. Khái niệm “bàn tay vô hình” được dùng để mô tả động cơ vị lợi của cá nhân sẽ dẫn dắt cá nhân này đến chỗ làm tốt cho xã hội. Thí dụ một doanh nghiệp vì lợi nhuận sẽ phải làm thế nào để bán sản phẩm của mình vừa tốt vừa rẻ thì mới có nhiều khách hàng. Như thế doanh nghiệp kiếm được tiền, và người tiêu dùng cũng được hưởng lợi.
Đáng tiếc là quy luật này chỉ đúng trong trường hợp “cạnh tranh hoàn hảo” (perfect competition), một trường hợp mang tính lý tưởng trong đó có quá nhiều người mua và quá nhiều người bán, không ai có chút quyền lực nào để can thiệp vào thị trường (thông tin trong thị trường này cũng hoàn hảo và bất cứ hành vi gì của các bên cũng đều được nhận biết). Phần lớn các thị trường thực tế mà chúng ta đối mặt hàng ngày là những thị trường không hoàn hảo cả về khía cạnh cạnh tranh và thông tin. Thí dụ các thị trường như điện, xăng dầu, sữa, viễn thông, ngân hàng… ở Việt Nam kể trên. Với những thị trường dạng này, nguyên lý bàn tay vô hình không còn đúng nữa. Có nghĩa là khi theo đuổi việc kiếm tiền cho mình, doanh nghiệp thường sẽ làm các chiêu trò không hay và gây hại cho người tiêu dùng.
Nếu không biết hoặc không hiểu đúng các quy luật vận động của các thị trường không hoàn hảo kiểu này, không ý thức được các “thủ đoạn” của các doanh nghiệp hoạt động trên các thị trường đó, thì dĩ nhiên các chính phủ sẽ không thể quản lý được chúng. Ngay cả khi hiểu các quy luật này nhưng không biết cách thiết kế ra được các thể chế quản lý đúng thì việc quản lý các doanh nghiệp này cũng vẫn không hiệu quả, và người tiêu dùng vẫn có lý do để “than”.
Ngành nghiên cứu tổ chức thị trường (IO) là một ngành vừa mang tính lý thuyết vừa mang tính ứng dụng đặc biệt cao. Các phân tích của ngành này tập trung rất sâu vào từng thị trường không hoàn hảo đặc thù, phân tích tất cả các trường hợp có thể có, để hiểu các quy luật vận động của chúng, các thủ đoạn của các doanh nghiệp, các mối nguy hại tiềm tàng đến từ việc thiếu sự quản lý hoặc quản lý không đúng. Ngành này cũng nghiên cứu và thiết kế ra các phương pháp quản lý thị trường hiện đại, cho từng loại thị trường (ngành) cụ thể để hỗ trợ các chính phủ trong việc quản lý các thị trường này.
Đáng tiếc là ngành này hầu như chưa từng tồn tại ở Việt Nam. Các nghiên cứu của thế giới, bao gồm của Jean Tirole chưa được biết đến ở nước ta, và chắc chắn còn lâu mới được áp dụng vào việc quản lý nhà nước đối với các thị trường không hoàn hảo của đất nước. Điều đó dẫn tới việc dễ hiểu là các ngành này chưa được quản lý đúng, việc làm ăn kinh doanh trên các thị trường này vẫn ở trạng thái “nguyên thủy” và vì thế việc kêu than của người tiêu dùng là chuyện dễ hiểu.
Nhưng rốt cuộc Jean Tirole đóng góp cụ thể những gì trong 3 thập kỷ qua để khiến ông xứng đáng nhận giải Nobel năm nay?
Đóng góp lớn
Theo Uỷ ban Nobel, có ít nhất 5 nhóm công trình được Ủy ban này đánh giá đặc biệt cao và là cơ sở để họ trao giải. Thứ nhất là các nghiên cứu của ông về các thị trường độc quyền tự nhiên và cách quản lý – điều tiết các thị trường này. Các thị trường, thí dụ như thị trường phân phối điện ở Việt Nam (do EVN độc quyền) là các thị trường đặc biệt quan trọng và cần nhà nước quản lý. Mục đích chính của việc quản lý nhà nước trên thị trường này là nhằm tránh để các nhà độc quyền tùy tiện định giá. Nếu không có quản lý nhà nước, chắc chắn các doanh nghiệp độc quyền này sẽ đưa giá “lên mây” và biến người tiêu dùng thành nạn nhân.
Trên nguyên tắc, có hai công cụ chính để quản lý là (a) xác định tỷ lệ lợi nhuận tối đa cho phép và (b) quy định giá trần. Tuy nhiên, trong từng trường hợp một, làm thế nào để việc quản lý này hiệu quả, tránh được các nguy cơ vô hiệu hóa chính sách, là việc phải nghiên cứu. Tirole và Jean-Jacques Laffont đã tạo ra cuộc cách mạng trên lĩnh vực phân tích này và cho ra đời các công cụ phân tích mới tốt hơn nhiều so với trước để giúp các cơ quan nghiên cứu và lập chính sách có thể đưa ra được các chính sách quản lý tốt hơn.
Nhóm công trình thứ hai được nhắc đến là các nghiên cứu của ông về thị trường “độc quyền nhóm” (obligopoly) – các thị trường mà trong đó có một số ít (nhưng không phải chỉ một) doanh nghiệp hoạt động. Các doanh nghiệp này cạnh tranh với nhau như thế nào qua thời gian để lấy thị phần, duy trì thị phần, và chèn ép các doanh nghiệp khác, các cách họ có thể cấu kết với nhau như thế nào… Các nghiên cứu này trước Tirole đã có, nhưng ông đóng vai trò quan trọng trong làn sóng làm mới các phân tích này, và đi sâu hơn vào một số khía cạnh quan trọng của thị trường độc quyền nhóm. Thí dụ, vai trò của các cuộc chạy đua nghiên cứu và triển khai (R&D) và đầu tư chiến lược (strategic investment) trong việc duy trì vị thế, chiếm lĩnh thị phần, và ngăn chặn đối thủ tiềm năng tham gia vào ngành. Ông cũng là người tiên phong nghiên cứu các xu hướng thị trường mới xuất hiện nhờ công nghệ như hiện tượng tồn tại của các sản phẩm phần mềm mã nguồn mở (thí dụ như Open Office), thị trường quảng cáo trực tuyến (thí dụ cơ chế quảng cáo của Google), hay các thị trường có hiệu ứng mạng (thí dụ thị trường của các nhà cung cấp dịch mạng xã hội), và các thị trường hai mặt (thí dụ như thị trường thẻ tín dụng hay thị trường hệ điều hành máy tính).
Nhóm công trình thứ ba là các khám phá của ông trong chính sách quản lý cạnh tranh (competition policy). Một trong những công việc đặc biệt quan trọng của các chính phủ khi thực hiện quản lý nhà nước đối với thị trường là phải chống độc quyền – tức là ngăn chặn các hành vi của các doanh nghiệp nhằm biến thị trường vốn không phải độc quyền thành thị trường độc quyền để hưởng lợi. Ủy ban Nobel nhắc đến khám phá quan trọng của ông về “liên kết dọc” (vertical integation) giữa các công ty trong cùng ngành. Thí dụ ngành dầu khí được phân ra làm 2 nhóm công ty – các công ty thượng nguồn(upstream) là các công ty khai thác và lọc dầu. Các công ty hạ nguồn (downstream) là các công ty phân phối dầu đến người tiêu dùng cuối cùng. Trong nhiều trường hợp, các công ty thượng nguồn có các mối liên kết với các công ty hạ nguồn.
Vấn đề là nếu có một doanh nghiệp độc quyền ở thượng nguồn hoặc hạ nguồn, thì doanh nghiệp này có thể sử dụng vị thế này để gia tăng vị thế độc quyền ở mảng còn lại – nơi nó không phải là nhà độc quyền. Vì thế các liên kết giữa các công ty thượng nguồn và các công ty hạ nguồn luôn là mối quan tâm của các chính phủ vì mục đích chống độc quyền. Tirole đã góp phần đưa ra nhiều phân tích trong mảng này, và các phân tích của ông góp phần hình thành bộ khung xương giúp các nhà quản lý phân biệt được đâu là trường hợp nên ngăn chặn, và đâu là trường hợp cần phải khuyến khích hoặc cho phép.
Nhóm công trình thứ tư được nhắc đến là các nghiên cứu trực tiếp của Tirole trong một số thị trường trọng yếu như viễn thông, ngân hàng và tài chính. Ông đi sâu phân tích các đặc thù của các ngành này và phát hiện được các hiện tượng / quy luật kinh tế độc đáo trong từng ngành. Thí dụ vấn đề tiếp cận hai chiều trong ngành viễn thông (các hãng viễn thông của các nước hợp tác như thế nào khi có các cuộc gọi từ nước này sang nước kia và họ phải sử dụng hạ tầng viễn thông của nhau), vấn đề quản lý thị trường liên ngân hàng như thế nào trong ngành ngân hàng, vấn đề khởi động lại một hệ thống tài chính bị tê liệt vì khủng hoảng như thế nào trong thị trường tài chính…
Nhóm các công trình cuối cùng được Ủy ban Nobel nhắc tới là các công trình của Tirole trong các lĩnh vực khác như phát minh ra các công cụ mới trong phân tích lý thuyết trò chơi (game theory) và thiết kế thể chế (mechanism design), nghiên cứu về tính thanh khoản và vai trò của trung gian tài chính trong thị trường tài chính hiện đại, nghiên cứu về bong bóng trên thị trường bất động sản, nghiên cứu về lý thuyết tài chính doanh nghiệp, kinh tế học hành vi, và kinh tế học tổ chức.
Như vậy, theo Ủy ban Nobel, giải Nobel kinh tế học năm nay trao cho Giáo sư Jean Tirole không dành riêng cho một công trình nghiên cứu cụ thể nào của ông. Thay vào đó, nó là phần thưởng cho thành tích nghiên cứu đặc biệt xuất sắc của Tirole trong hơn 30 năm qua, trải rộng trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực Industrial Organization (tổ chức thị trường). Động cơ để tổ chức này trao giải, như công bố chính thức của Ủy ban Nobel, là “vì các nghiên cứu của ông trong lĩnh vực quyền lực thị trường và quản lý nhà nước”.
Trần Vinh Dự