1. Phiên dịch là gì?
Phiên dịch (translation) là việc chuyển đạt lời lẽ, ý tưởng của một bản văn (text) từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác bằng lời lẽ, ý tưởng tương đương dưới hình thức chữ viết.
Ở Việt Nam hiện giờ, người ta gọi hiện tượng này là biên dịch, còn phiên dịch thì nay lại được dùng để chỉ công việc thông dịch, thông ngôn, hay nôm na là dịch nói (interpreting). Trong thuật ngữ phiên dịch, bản văn có thể hiểu là có hình thức của một từ (word), một đoản ngữ (phrase), một câu (sentence), một cú đoạn (paragraph), một đoạn trích (passage), hay cả một cuốn sách (book). Danh từ chuyên môn gọi ngôn ngữ đem chuyển ngữ là ngôn ngữ gốc hay ngôn ngữ nguồn (source language) và ngôn ngữ được chuyển ngữ là ngôn ngữ ngọn hay ngôn ngữ đích (target language). Nói khác đi, nếu ta phiên dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, thì tiếng Anh là ngôn ngữ gốc (ngôn ngữ nguồn) còn tiếng Việt là ngôn ngữ ngọn (ngôn ngữ đích), và ngược lại.
2. Thực thể ngôn ngữ
Nói đến phiên dịch là nói đến ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ chỉ là mớ danh pháp, tên đặt cho toàn bộ những ý niệm chung trong vũ trụ, đâu cũng như đâu, thì việc phiên dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác chắc sẽ dễ dàng, giản dị, không có gì đáng nói. Trong trường hợp dịch từ Anh sang Việt chẳng hạn, ta chỉ việc thay thế tên tiếng Anh dùng chỉ một ý niệm nào đó bằng một tên tiếng Việt tương đương có sẵn dùng chỉ ý niệm đó là xong. Thí dụ “table” là “cái bàn”, “book” là “quyển sách'”, “woman” là “đàn bà”, v.v…
Nhưng thực tế không phải là như vậy, người ta đã khám phá ra vô số bằng chứng cho thấy rằng mỗi ngôn ngữ diễn tả, tổ chức thực thể vũ trụ một cách, mỗi cộng đồng ngôn ngữ chia cắt kinh nghiệm, mổ xẻ thế giới theo nhãn quan cuả những người nói ngôn ngữ đó. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình cho thấy ngôn ngữ đã phản ảnh thế giới quan của người nói tiếng bản ngữ ra sao và ảnh hưởng cuả nó đối với nghệ thuật phiên dịch thế nào.
2.1 Ý niệm về “màu sắc”
Nói về “màu sắc”, trong tiếng Anh, theo Berlin và Kay, người ta phân biệt 11 màu sắc cơ bản là “trắng, đen, đỏ, xanh lá cây, vàng, xanh nước biển, nâu, tím, hồng, da cam, xám'” (white, black, red, green, yellow, blue, brown, purple, pink, orange, grey), trong tiếng Việt ta có bảy màu sắc cơ bản là “xanh, đỏ, trắng, tím, vàng, nâu, đen”. Tiếng Anh phân biệt màu “green'” và “blue”, trong khi người Việt ta nói chung hai màu đó là màu “xanh” (green /blue) là đủ. Thí dụ như khi ta nói “đèn xanh đèn đỏ”, “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, hay “Biết anh thích màu trời, em đã bồi hồi chọn màu áo xanh” chẳng hạn. Tiếng Anh phân biệt “yellow” và “orange”, trong khi người Việt ta gộp chúng lại làm một gọi là màu “vàng”. Chẳng hạn như, trong trường hợp bình thường, một cô gái mặc áo dài màu “yellow’ hay màu “orange’ thì ta cũng chỉ nói chung là “áo vàng”, hay như trong “áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc’ là đủ rồi, không cần thắc mắc là cúc màu “vàng” hay màu “cam”, vì “cam” cũng là “vàng”.
2.2 Ý niệm về ‘nhiệt độ’
Nhiệt độ trong tiếng Anh có bốn từ cơ bản “hot, warm, cool, cold”; trong tiếng Việt cũng có bốn từ cơ bản “nóng, ấm, mát, lạnh”. Hai từ “hot, cold” chỉ hai thái cực của nhiệt độ thì tương đương với “nóng, lạnh” đã đành, nhưng “warm, cool” thì không hoàn toàn tương đương với tiếngViệt “ấm, mát'” khi nói về nhiệt độ thời tiết. Tiếng Anh khi nói “warm” có nghĩa là “nóng” mà cũng có nghĩa là “ấm”, diễn tả cái “khó chịu'” (discomfort) cũng như cái “dễ chịu” (comfort) của từ ngữ đó. Thí dụ “It’s getting warm in here!” (Trong này coi bộ nóng à nghe!) nói diễn tả cái “khó chịu” khi rút khăn mùi xoa lau mấy giọt mồ hôi đọng trên trán, và “It’s getting warmer today” (Hôm nay trời coi bộ ấm) nói diễn tả cái “dễ chịu'” sau mấy ngày lạnh buốt giá. Vậy là tùy theo ngữ cảnh, tùy theo yếu tố phi ngôn ngữ (nonlinguistic elements), mà ta phải dịch là “nóng” hay “ấm”. Còn tiếng Việt nói “ấm” thì có nghĩa là “không lạnh” diễn tả cái “dễ chịu” không mà thôi, như khi ta nói “Hôm nay trời ấm áp, dễ chịu quá”, hay “Mặc cái áo len này vào cho ấm “, tất nhiên không hàm nghĩa “khó chịu”.
Tương tự trong tiếng Anh “cool” có nghĩa là “lạnh” mà cũng có nghĩa là “mát”, diễn tả cái “khó chịu” cũng như cái “dễ chịu” cuả từ ngữ đó. Còn tiếng Việt nói “mát” thì chỉ có nghĩa là “không nóng” dùng diễn tả cái “dễ chịu”, như khi ta nói “Hôm nay trời mát mẻ, dễ chịu quá”, hay “Cởi cái áo len này ra cho mát”, tất nhiên không hàm nghĩa “khó chịu”.
Nhưng khi nói về nhiệt độ không thôi, thì “cold” và “cool” lại đồng nghĩa với nhau trong tiếng Việt gọi chung là “nguội” thường diễn tả cái “khó chịu”. Thí dụ khi ta nói “Ăn cơm đi kẻo thức ăn nó nguội'” (Go ahead and eat, otherwise it [the dinner] will get cold”, hay “Không ăn đi để thức ăn nguội hết rồi!” (The food will get cold if you don’t eat it now). Nhưng cũng có thể diễn tả cái “dễ chịu” nếu ta nói: “Coi chừng! Ðể nguội rồi hẵng ăn” (Be careful! Let it [the food] cool a bit before you eat it).
2.3 Ý niệm về ‘anh chị em’
Trong tiếng Anh người ta chỉ phân biệt phái tính (gender) “nam nữ” trong liên hệ anh chị em bằng từ “brother” (trai) và từ “sister” (gái). Vì vậy, khi giới thiệu người anh trai hay em trai thì họ chỉ nói “He is my brother”, còn khi giới thiệu chị gái hay em gái thì “She is my sister”, thế thôi. Ðể có thể dịch được sang tiếng Việt, ta còn phải hỏi thêm chi tiết là người được giới thiệu đó lớn tuổi hay nhỏ tuổi hơn đương sự.
Ngoài việc phân biệt phái tính “nam nữ” bằng từ “anh” (trai) và từ “chị” (gái), tiếng Việt ta còn đi xa hơn thế, phân biệt thứ bực “trên dưới” bằng từ “em” (younger sibling), người sinh sau đẻ muộn hơn mình. Có điều là tiếng Việt ta không phân biệt phái tính của người dưới cùng cha sinh mẹ đẻ với mình, ở cấp vai ’em’. Nếu muốn phân biệt thì phải thêm từ ‘trai’ hay ‘gái’ để có thể nói ’em trai’, ’em gái’.
Âu đó cũng thể hiện một khía cạnh văn hóa Ðông-Tây khác biệt. Người Việt mình xem chừng không coi trọng, không quan tâm nhiều đến kẻ dưới bằng người phương Tây, và điều này có thể thấy rõ hơn khi người Việt Nam giới thiệu nhau trong lúc gặp gỡ. Lúc đó ta thường không giới thiệu trẻ em. Liệu cấu trúc Việt ngữ có góp phần vào việc uốn nắn lối suy nghĩ, tư tưởng, hành động của người Việt Nam theo giả thuyết của Sapir-Whorf hay không thì đó lại là chuyện khác.
3. Nghệ thuật dịch
Tôi đã được đọc một một số ý kiến viết trên Diễn đàn Talawas về Ngôn ngữ và Dịch thuật. Xin được đóng góp đôi chút ý kiến.
Về chuyện dịch thuật, tôi xin được trích dẫn đoạn sau đây để chúng ta cùng suy ngẫm:
- A translation must give the words of the original.
- A translation must give the ideas of the original.
- A translation should read like an original work.
- A translation should read like a translation.
- A translation should reflect the style of the original.
- A translation should possess the style of the translation.
- A translation should read as a contemporary of the original.
- A translation should read as a contemporary of the translation.
- A translation may add or omit from the original.
- A translation may never add or omit from the original.
- A translation of verse should be in prose.
- A translation of verse should be in verse.
(The Art of Translation, T.H. Savory, Cape, 1968, p. 54)
- Bản văn dịch phải dịch được ‘lời’ của bản văn gốc.
- Bản văn dịch phải dịch được ‘ý’ của bản văn gốc.
- Bản văn dịch phải đọc nghe như bản văn gốc.
- Bản văn dịch phải đọc nghe như một bản văn dịch.
- Bản văn dịch phải phản ảnh được văn phong của bản văn gốc.
- Bản văn dịch phải có được văn phong của bản văn dịch.
- Bản văn dịch phải đọc nghe như bản văn đương đại với bản văn gốc.
- Bản văn dịch phải đọc nghe như bản văn đương đại với bản văn dịch.
- Bản văn dịch có thể được thêm hoặc bớt từ bản văn gốc.
- Bản văn dịch có thể không bao giờ được thêm hoặc bớt từ bản văn gốc.
- Bản văn dịch thơ phải dịch thành ra văn xuôi.
- Bản văn dịch thơ phải dịch thành ra thơ.
Những nhận xét trên đây cho chúng ta thấy xem ra như có sự mâu thuẫn về quan niệm chuyện dịch thuật. Nhưng xét cho cùng nó chỉ nói lên phương pháp nào phải chọn lựa, dựa vào mục đích, đối tượng, thị hiếu của người đọc.
Trong cuốn sách Approaches to Translation, xuất bản năm 1981, Peter Newmark nói đến hai phương pháp chính là dịch thoát nghĩa (communicative translation) và dịch sát nghĩa (semantic translation).
‘Dịch thoát nghĩa’ là loại văn dịch mà người dịch giả nhắm vào loại độc giả chỉ quan tâm đến bản văn đọc sao nghe cho xuôi tai, không khúc mắc khó hiểu vì lối hành văn lai căng, hoặc văn hoá xa lạ.
‘Dịch sát nghĩa’ là loại văn dịch cố ý mô phỏng văn phong, thời đại, văn hoá cuả tác giả bản văn gốc.
Peter Newmark cho rằng sự khác biệt cơ bản giữa hai phương pháp này là khi hữu sự thì ‘dịch thoát nghĩa’ phải nhấn mạnh đến cái ‘tác động’ thay vì ‘nội dung’ của thông điệp. Ông cho thí dụ, trong trường hợp dịch Bissiger Hund hoặc Chien méchant, thì bắt buộc phải dịch là Beware of the dog! Còn đem dịch là ‘dog that bites’ hoặc ‘savage dog’ thì khiến người ta hiểu rõ nội dung trong văn bản gốc đấy, nhưng sức tác động của thông điệp sẽ không mấy hiệu quả, vì nghe ngô nghê. Trong chuyện này, Việt Nam ta đã thấy có câu ‘Coi chừng chó dữ!’ hoặc ‘Nhà có chó dữ!‘, thiết tưởng như thế tiền nhân chúng ta cũng không đến nỗi tệ trong việc dịch thuật.
Trịnh Nhật
Trích trong Sách Ngôn ngữ và Dịch thuật: Trăng đến rằm trăng tròn,
Sydney, Australia, 2012.
3 Comments
Dong Ong Co
Bài nầy tôi mới đọc một đoạn đầu đã thấy không ổn rồi, tác giả quá cẩu thả. trong tiếng Việt, màu vàng là màu vàng, màu cam là màu cam, làm gì có chuyện “vàng” và “cam” là một (?). Còn các màu khác: Màu xanh thì có Xanh lá cây (xanh lá cây, xanh đọt chuối, xanh lá mạ…); Xanh dương (xanh dương, xanh da trời, xanh nước biển…); Màu vàng (vàng chanh, vàng nghệ, vàng ánh kim…); Màu đỏ (đỏ huyết dụ, đỏ tía….); Màu tím (tím môn, tím than, tím hoa cà….).
Đồng Ông Cộ.
trinh nhat
“Dục tốc bất đạt” như cổ nhân chúng ta đã nói. Tôi không quá cẩu thả chút nào, mà ngược lại suy nghĩ rất chín chắn khi viết. Xin độc giả để ý những chữ tôi viết trong bài:
“… trong tiếng Việt ta có bảy màu sắc cơ bản là “xanh, đỏ, trắng, tím, vàng, nâu, đen”. Tiếng Anh phân biệt màu “green’” và “blue”, trong khi người Việt ta nói chung hai màu đó là màu “xanh” (green /blue) là đủ. Thí dụ như khi ta nói “đèn xanh đèn đỏ”, “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, hay “Biết anh thích màu trời, em đã bồi hồi chọn màu áo xanh” chẳng hạn. Tiếng Anh phân biệt “yellow” và “orange”, trong khi người Việt ta gộp chúng lại làm một gọi là màu “vàng”. Chẳng hạn như, trong trường hợp bình thường, một cô gái mặc áo dài màu “yellow’ hay màu “orange’ thì ta cũng chỉ nói chung là “áo vàng”, hay như trong “áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc’ là đủ rồi, không cần thắc mắc là cúc màu “vàng” hay màu “cam”, vì “cam” cũng là “vàng”.
Xin lưu ý Ông Cộ để ý dùm về những chữ: “màu sắc cơ bản”, “trong trường hợp bình thường”, “không cần thắc mắc” trong đoạn tôi viết trên.
Cám ơn Đồng Tiên sinh đã đọc và cho biết ý kiến. Người Viêt ta thường mượn lời Tuân Tử để nói: Người chê ta mà chê phải là Thầy ta…”, trong trường hợp này, không áp dụng được, thưa Ông!!!
Dong Ong Co
Trước đây, sắc cầu vòng có bảy màu: Đỏ, CAM, VÀNG, LỤC, LAM, CHÀM, Tím. Bây giờ chỉ còn bốn màu: Đỏ, Vàng, Xanh, Tím . Lạ…. mà không lạ. Ngày xưa, thằng chăn trâu chỉ nói bâng quơ một câu mà Tử thở dài bỏ đi….
Đồng Ông Cộ.