Đạo Chúa được truyền vào đất nước ta từ năm 1533 đời Lê Trang Tôn. Trải qua gần 500 năm, Giáo Hội Công Giáo Việt – Nam (GHCGVN) luôn gặp phải những cấm cản, thậm chí đàn áp, tiêu diệt của các triều vua chúa phong kiến. Ngày nay dưới chế độ cộng sản (CS), việc cấm đạo còn tệ hơn gấp bội. Nó không chỉ nhắm vào GHCG không thôi, mà còn bao trùm trên tất cả mọi tôn giáo, và biến đổi đi theo một hình thái mới, từ việc tiêu diệt một tín ngưỡng qua việc biến tính các tôn giáo thành những công cụ hầu phục phụ cho chế độ.
Các tác gỉa của cuốn Sách Đen (Le Livre noir du communisme) đồng ý cho rằng cộng sản (CS) là một thảm họa lớn nhất cho loài người trong thế kỷ 20. Nhìn riêng trên khía cạnh tôn giáo không thôi, gọi CS là thảm họa thiết tưởng không sai tí nào.
Việt Nam là một quốc gia đã chịu đựng thảm họa CS chính thức từ 50 năm nay (từ 1954). Cái thảm họa này mọi thành phần dân tộc đều cùng chia phần gánh chịu. Riêng GHCGVN phải gánh phần có thể nói là nặng nề vượt trội. Trong bài viết này, tôi muốn đối chiếu cơ bản hai hình thức cấm đạo thời vua chúa phong kiến và dưới chế độ CS ngày nay để làm nổi bật lên cái bản chất phi tôn giáo của CS. Sau đó bàn đến những thiệt hại trước mắt, cũng như những di hại về sau do chế độ CS gây nên mà GHCGVN sẽ còn phải chịu đựng cả sau khi chế độ này không còn tồn tại trên đất nước.
Nhân đây cũng xin được lưu ý bạn đọc về ý nghĩa của một vài từ ngữ thường gặp trong lối nói hàng ngày. Hai cụm từ “đàn áp tôn giáo”, hay “tiêu diệt tôn giáo”, mỗi nhóm chữ này tuy có nghĩa riêng của nó, nhưng cả hai đều bao hàm chung một nội dung là “cấm đạo”. Nghĩa là chủ trương dùng những biện pháp cưỡng chế theo ý muốn của nhà cầm quyền nhằm mục đích bắt người có đạo phải từ bỏ tín ngưỡng của mình, ngăn cấm tự do hành đạo và giảng đạo. Để tránh sự gò bó trong mạch văn, người viết xin được xử dụng hai cụm từ này chung trong ý nghĩa là “cấm đạo” cho tiện. Riêng cụm từ “biến tính tôn giáo” (religious transmutation), người viết dùng để nói đến đường lối cấm đạo đặc biệt ngày nay của chế độ CSVN. Phương pháp cấm đạo này sẽ được đặc biệt bàn đến trong bài.
NHỮNG CÁCH CẤM ĐẠO XƯA VÀ NAY
Nhìn chung, từ việc cấm đạo của một số vua chúa thời phong kiến trước đây đến chủ trương tiêu diệt tôn giáo của CS hiện nay tại Việt – Nam , ta thấy có một khoảng cách khá xa về 3 phương diện: Chủ trương, nguyên nhân và đường lối áp dụng. Cần phân biệt cho rõ các khía cạnh của vấn đề thì mới hiểu được sự tinh vi, tàn bạo và vô luân của chế độ CSVN.
1.CHỦ TRƯƠNG
Người chủ trương cấm đạo thời phong kiến tại Việt – Nam là các vị vua chúạ. Họ đều là những người duy tâm và có tín ngưỡng. Nhiều người rất sùng đạo nữa là khác. Việc cấm đạo phát sinh do tính hẹp hòi và đầu óc thiển cận của những người lãnh đạo thủ cựu trước bối cảnh giao tiếp của hai nền văn hóa Đông Tây.
Đạo Chúa vào Việt – Nam là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ so với các tôn giáo đã có sẵn nề nếp trong nước. Lại cũng khác hẳn về giáo lý lẫn phụng vụ. Những yếu tố đó lồng trong bối cảnh đất nước bị ngoại xâm đe dọa nên không dễ dàng được những đầu óc bình vôi thủ cựu chấp nhận. Hơn nữa, vua chúa phong kiến nắm mọi quyền hành độc đoán trong tay, lại tự cho mình có trách nhiệm thay Trời cai trị thiên hạ, nên việc chuyên quyền quyết đóan đưa đến sai lầm là điều rất dễ xẩy ra.
Điểm đáng lưu ý ở đây là hành động cấm đạo của các vua chúa chỉ nhằm mục đích ngăn cấm truyền bá một tín ngưỡng bị cho là gây nguy hại cho xã hội và triều đình, tuyệt đối không cấm tất cả mọi tôn giáo hoạt động, cũng không chủ trương tiêu diệt ý thức về tôn giáo nơi con người.
Ngược lại, chủ thể của việc cấm đạo ngày nay là đảng CS vô thần. Đảng này được xây dựng trên nền tảng triết học duy vật biện chứng. Triết thuyết này chối bỏ Thượng Đế và mọi thần linh, cũng không thừa nhận bất cứ một ý thức tôn giáo nào. Lý thuyết này đúng ra đã có từ lâu đời, đến nay Marx hệ thống lại, được Lenin triển khai thực hành và biến nó thành vũ khí chính trị để đấu tranh dành chánh quyền. hãy nghe những ông tổ CS này nói về tôn giáo. Marx: “Tôn giáo là thuốc phiện của loài người”. Và Lenin: “Hàng triệu hành động bẩn thỉu nhất, hành vi bạo tàn nhất, bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất vẫn không nguy hiểm bằng những ý niệm về thần linh, về thượng đế được bao che bằng cái áo lý tưởng khôn ngoan nhất”.
2. NGUYÊN NHÂN
Như thế cho thấy việc cấm đạo của CS là một giáo điều nằm trong một học thuyết phi tôn giáo, phủ nhận mọi tín ngưỡng, chối bỏ mọi niềm tin vào thần linh, coi tôn giáo là kẻ thù cần phải tiêu diệt. Điều đó giải thích tại sao CS ngăn cấm và tìm cách tiêu diệt mọi tôn giáo chứ không trừ ra một tôn giáo nào.
Còn về việc cấm đạo của các vua chúa thời phong kiến tại nước ta, có hai lý do để giải thích. Một là vì cho rằng đạo công giáo là một thứ tà đạo ngoại nhập xúi dục và mê hoặc người dân trong nước làm những điều trái với luân thường đạo lý, với phong tục tập quán lâu đời của người dân, với nếp sống văn hóa của xã hội. Hai là vì nghi ngờ các giáo sĩ truyền giáo là những người thực dân cướp nước, đe dọa đến quyền hành của triều đình, và giáo dân đều là những kẻ dốt nát đã bị thực dân mê hoặc.
3. ĐƯỜNG LỐI
Đường lối cấm đạo dưới các triều Minh-Mạng, Thiệu-Trị, và Tư-Đức nhà Nguyễn, và một số các ông Chúa thời phân tranh nói chung rất tàn bạo. Đường lối này dẫn đến việc xử dụng các biện pháp tàn ác và quyết liệt như chặt đầu, giam cầm, đầy ải, tịch thu tài sản, phân sáp v.v. Triều đình ra nghiêm lệnh cấm truyền bá đạo. Các chỉ dụ đều ghi rõ giết hoặc thích chữ “Tả đạo” vào mặt, và bắt đi lưu đầy những ai không tuân lệnh của triều đình, phân sáp các làng công giáo. Thánh đường bị triệt hạ. Tài sản bị tịch thu v.v.
Việc cấm đạo cũng giống như một trận bão lớn thổi ngang qua một cánh rừng. Mưa gío ào ào lướt tới. Có cây đổ. Cây gẫy cành. Lá rụng tơi tả. Cả khu rừng cúi rạp mình xuống để chịu đựng khi cơn bão đổ tới. Nhưng khi trận bão đi qua, dưới ánh mặt trời quang đãng, khu rừng lại vươn mình trỗi dậy. Sức sống xem chừng còn tràn đầy hơn trước. Trận bão chỉ là một hiện tượng vật lý xẩy ra trong thời gian ngắn, đơn vị đếm được là ngày. Sự thiệt hại của khu rừng nhiều ít tùy theo sức gío, và lượng mưa. Trận bão đi qua không hề để lại thiệt hại về sinh thái cho khu rừng.
Bằng biện pháp tàn sát như đã thấy, việc cấm đạo của các vua chúa tất nhiên gây nên rất nhiều thiệt hại. Thiệt hại về tài sản, nhất là thiệt hại về sinh mạng. Sự thiệt hại về nhân mạng theo sách vở ước lượng là 130.000 (Lm Bùi đức Sinh OP. Lịch sử GHCG, trang 392). Nhưng khi việc cấm cách qua đi đến đâu, GH vươn mình sống dậy mạnh mẽ và tươi tốt đến đó. Với lề lối cai trị của thời phong kiến, triều đình tưởng chỉ cần ban bố vài ba cái Đạo hoặc Chỉ Dụ là giải quyết xong được vấn đề. Chịu đựng những biện pháp tàn ác như thế, nhưng lịch sử cho thấy, càng bị đàn áp, GH thời đó càng kiên trì sống đạo, cộng đồng giáo dân càng đoàn kết, giáo lý càng trong sáng. Đó là điểm cần lưu ý.
Ngày nay, trong nỗ lực tiêu diệt các tôn giáo, VC áp dụng đường lối hoàn toàn khác các vua chúa xưa kia, theo đúng đặc tính lưu manh, xảo trá và quỉ quyệt của chế độ. Hồi ký của một điệp viên CS Liên Sô được đặt tên là Michael đã len lỏi lên tới hàng ngũ cao cấp trong GHCG viết: “I would particularly never lose sight of the fact that persecutions only make martyrs of whom Catholics have reason to say that they are seeds of Christianity. Therefore, no martyrs.” (AA 1025, The Memoirs of an Anti-Apostle). Xin tạm dịch: Trích từ cuốn AA 1025, Hồi ký của một tên phản đồ: “Đặc biệt không bao giờ tôi quên để tâm tới sự thể là khủng bố chỉ tạo ra người tử đạo mà các tín hữu đều có lý do nói rằng máu tử đạo là hạt giống làm triển nở GH. Do đó, không để có tử đạo được”.
Đường lối khác nên biện pháp áp dụng cũng có khác. Trước hết có thể khẳng định rằng dưới chế độ CS vô thần không có luật pháp nào minh thị cấm đạo cả. Hiến Pháp VC hiện hành điều 70 không cấm mà còn minh nhiên cho phép công dân có quyền tự do tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng. Chính cái quyền tự do tín ngưỡng hữu danh vô thực này đã đẻ ra đủ mọi thủ thuật đàn áp rất tinh vi và xảo trá. Chỉ nhìn bề ngoài, người quan sát thấy nhân dân Việt – Nam hầu như có hoàn toàn quyền tự do tôn giáo. Phải tìm hiểu cho thật cặn kẽ mọi khía cạnh thì mới biết rõ được vấn đề. Chẳng hạn Hiến Pháp công nhận quyền tự do tôn giáo, nhưng đủ thứ luật lệ như Sắc Lệnh (đạo luật), nghị định, qui định v.v. về tôn giáo của đủ mọi cấp chánh quyền và đoàn thể lại tìm cách trói buộc, hạn chế hoặc cấm cản. Rất ít giết chóc công khai, nhưng ngấm ngầm thủ tiêu thì không ít. Không có ai bị bắt bớ tù đầy vì lý do tôn giáo, nhưng áp dụng quản chế trên hầu hết mọi giáo sĩ. Những giáo sĩ bị nghi ngờ là nguy hiểm đối với chế độ bị bắt giữ không xét xử toàn là vì những tội danh bịa đặt. Cấm các tôn giáo in ấn sách đạo, nhưng nhà nước độc quyền in ra sau khi đã sửa đổi nội dung cho phù hợp với chủ trương của đảng, rồi bán ra cho các tín đồ đọc. Cho chiêu sinh vào các chủng viện nhưng nhà nước toàn quyền tuyển chọn ứng viên. Tóm lại, những biện pháp này và muôn ngàn biện pháp tinh vi và ma giáo khác được CS xử dụng cốt để biến đổi bản tính các tôn giáo thành một thứ tôn giáo vụ vào hình thức làm công cụ cho chế độ. Trong khoa học, người ta có thể biến hướng dòng chẩy của một con sông theo ý muốn của con người để làm lợi cho kinh tế. Chánh sách tôn giáo của CSVN ngày nay cũng thế, biết không thể tiêu diệt nổi các tôn giáo, CS lèo lái các giáo hội đi theo con đường chúng vạch ra để phục vụ cho chế độ.
NHỮNG THIỆT HẠI DO CS CẤM ĐẠO GÂY RA
Phương pháp cấm đạo mới mẻ này tất nhiên gây nên rất nhiều thiệt hại cho các giáo hội, đặc biệt là GHCG. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ nêu và dẫn chứng GHCG làm điển hình. Các giáo hội khác thiết tưởng không nhiều thì ít cũng đều chịu chung số phận như thế cả.
Có nhiều hình thức thiệt hại khác nhau, nhưng có thể xếp gom lại trong ba lãnh vực sau: sinh hoạt, giáo lý, và lãnh đạo. Những thiệt hại trong lãnh vực sinh hoạt có thể gọi là dạng ngắn hạn, vì dạng này có thể phục hoạt trở lại chỉ trong thời gian ngắn khi có điều kiện. Trái lại, những thiệt hại trên hai lãnh vực giáo lý và lãnh đạo được xếp vào dạng dài hạn, vì đó là những di hại có thể nói là truyền đời, không thể phục hồi trong một vài tháng, một vài năm, thậm chí một vài chục năm.
Sau đây chúng ta xem xét về những thiệt hại đó trên từng lãnh vực.
1. SINH HOẠT
Các sinh hoạt của GHCG được xét đến qua 2 khía cạnh: phương tiện và các hoạt động của GH.
Phương tiện bao gồm các cơ sở vật chất như thánh đường, nguyện đường, tu viện, trường học, bệnh viện, các cơ sở ấn loát, từ thiện, xã hội như cô nhi viện, nhà dưỡng lão, câu lạc bộ sinh viên v.v. đất đai và các tài sản khác.
Hoạt động của GH ngoài phụng vụ, còn trải rộng trên các lãnh vực y tế, giáo dục và xã hội. Cả hai mặt hoạt động và phương tiện trong vấn đề sinh hoạt của GH liên hệ cơ hữu với nhau, vì không có phương tiện thì dĩ nhiên là không thể hoạt động hữu hiệu được. Do đó ngay khi vừa lên nắm quyền, VC đầu tiên nghĩ ngay đến chuyện cắt đứt hết mọi phương tiện sinh hoạt của GH. Chỉ trừ một số thánh đường, còn tất cả đều bị tịch thu trắng trợn, hoặc huê dạng dưới hình thức “tự nguyện” hiến tặng.
Cho đến nay, tất cả những cơ sở của GH bị CS tịch thu đều coi như mất đứt luôn. Nghĩa là không hoàn trả, cũng không hy vọng đòi lại được. Hơn thế VC còn muốn cướp luôn những gì GH còn may mắn giữ lại, như đất dòng Thiên An ở Huế, đất Thánh địa La Vang ở Quảng Trị, đất nhà chung bên cạnh nhà thờ chánh tòa Hanoi v.v.. Mới đây nghe nói VC trả lại cơ sở trước kia gọi là câu lạc bộ (CLB) Phục Hưng tại Saigon cho dòng Đaminh. Chuyện nghe có vẻ hi hữu đấy, nhưng nó cũng có lý do của nó. CLB này trước kia là tài sản của dòng Đaminh chi Lyon , Pháp. Hồi đó dòng Đaminh tại VN thuộc hai chi nhánh riêng biệt là Lyon, Pháp, và Manilla , Philippines . Bây giờ cả hai nhánh hợp nhất thành một và trong dòng có hai linh mục quốc doanh thứ gộc là Thiện Cẩm và Đinh Châu Trân.
VC trả CLB này lại cho nhà dòng chẳng phải có ý tốt lành gì. Chúng trả cơ sở này lại cho dòng Đaminh, nhưng thực tế là giao cho quí ngài quốc doanh Thiện Cẩm quản lý để ông có phương tiện hoạt động hầu “nắm đầu” sinh viên cho chúng, vì cơ sở này là một câu lạc bộ sinh viên. Sự việc là thế.
Chuyện ngược đời hiện nay là các cơ sở khác thì VC chiếm không nhả ra, nhưng các thánh đường thì tại một số nơi, chúng còn thiếu điều năn nỉ giáo dân lấy lại dùm nữa mới lạ. Chuyện nữa khó tin nhưng có thật là VC còn ngấm ngầm thúc đẩy giáo dân trùng tu các thánh đường đã cũ nát, và xây cất mới càng nhiều càng tốt và càng nguy nga đồ sộ càng hay. Đây là chánh sách diệt CG hết sức tinh vi của CSVN.
Chánh sách này, theo tiết lộ của tên Hai Cẩn, bí thư huyện ủy Gò Vấp trước đây có 5 tác dụng:
a/ GH kiếm dollar từ nước ngoài về cho nhà nước.
b/ Thúc đẩy kinh tế phát triển qua ngành xây cất.
c/ Tạo công ăn việc làm cho công nhân.
d/ Làm cho giáo dân nghèo đi và cơ cực hơn vì phải đóng góp công sức và tiền bạc, từ đó tạo bất mãn giữa giáo dân và chủ chăn, đồng thời còn một tác dụng nữa là gây ý thức đố kỵ với các tôn giáo khác trong nước.
e/ Sau cùng và quan trọng nhất là phô trương chánh sách tự do tôn giáo bịp của nhà nước CS.
Do sự thả lỏng và khuyến khích ngầm của CS, hiện nay tại VN, chuyện xây mới và trùng tu nhà thờ đang nở rộ như một phong trào. Nhiều giáo dân có máu trào phúng đã ví nó như phong trào “nuôi cút” ngày xưa. Nhiều nhà thờ hãy còn xử dụng tốt phải đập đi xây mới lại cho kịp với phong trào. Có linh mục gởi thơ sang Mỹ quyên tiền kèm tấm card mầu có hình linh mục cùng với 7 ngôi nhà thờ cha đã xây. Nay ngài xin giúp đỡ để xây thêm ngôi thánh đường thứ 8. GH cũng đã nhận thấy tình trạng phi lý này.
Chính đức hồng y Phạm Minh Mẫn khi đến khánh thành thánh đường giáo xứ Hanoi tại Xóm Mới, Gò Vấp đã kín đáo khuyên các linh mục của ngài như sau: “Các cha đừng làm nhà thờ như những tay cua rơ xe đạp”. Chỉ một lời khuyên nhẹ nhàng thôi không có tác dụng. Tình trạng vẫn lan tràn khắp nơi, và hiện nay người ta vẫn thấy các linh mục VN ào ào đổ ra ngoại quốc quyên góp tiền bạc về xây nhà thờ.
Nhìn vào tình hình xây nhà thờ chúng ta thấy rõ ràng là khi điều kiện cho phép thì những thiệt hại về vật chất có thể khôi phục lại một cách rất mau chóng. Nhưng ở đây sự khôi phục qúa đà đã trở nên tai hại và mang những hậu quả không lường được về niềm tin của người ngoài đối với GH và về lối sống của nhiều linh mục.
GHCG vốn tự hào là GH của người nghèo. Các ngôi thánh đường qúa nguy nga tráng lệ trong bối cảnh và cuộc sống hôm nay của người dân trong nước có phản ảnh đúng niềm tự hào đó không, hay tự chúng đã trở thành phản chứng của Tin Mừng mất rồi? Trong một khu vực dân cư nghèo nàn, nơi quần tụ của đủ mặt các tôn giáo khác nhau mà chùa chiền thì đổ nát hoang sơ, thánh thất rêu phong dột bấy, giảng đường (Hòa Hảo) tiêu điều vắng vẻ, GH có nên xây cất lên một ngôi thánh đường qúa bề thế tại đó không?
Gỉa dụ cho vui, đôi khi Đức Phật, Đức Thầy, hoặc Thiên Nhãn ở quanh đấy muốn ghé thăm Chúa, liệu các vị khách có cảm thấy rụt rè e ngại khi bước vào mà thấy nhà Chúa qúa lớn, qúa sang không? Từ đó nẩy sinh thắc mắc là ngôi thánh đường nguy nga kia với những lễ lạt đông đúc sầm uất trong bối cảnh và thực trạng của khu vực có thật sự làm vinh danh Chúa, hay đã làm Chúa phải mất mặt trước các vị khách quí nói trên, vì chính họ đã từng nghe Ngài dậy dỗ môn đệ của Ngài rằng: “Phúc cho kẻ sống khó nghèo vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Đã từ lâu lắm rồi, người dân VN mang ấn tượng rằng đạo Chúa là một tôn giáo giầu có và quyền quí nên có câu tục ngữ “đi đạo lấy gạo mà ăn”. Cái ấn tượng thật tai hại mà không biết có ai chịu để tâm và suy nghĩ không?
Phong trào thi đua xây nhà thờ khả dĩ còn gây nên sự nghi ngờ nơi giáo dân về tinh thần đạo đức và tính ngay thẳng của các linh mục. Thật vậy, khi một vị linh mục ra ngoại quốc xin tiền xây nhà thờ, giáo dân tại hải ngoại ào ào đưa tiền trao vào tay cha. Dĩ nhiên họ trao ra cho mục đích xây nhà thờ nên đồng tiền này đã trở thành tài sản chung, của thánh. Nếu tiền này được dốc hết ra để xây nhà thờ thì đó là điều tốt. Nhưng việc tốt phỏng có được bao nhiêu! Thực tế không thiếu trường hợp các linh mục nghĩ rằng tiền người ta cho là cho cha nên cha có quyền xài thế nào tùy ý cha. Dĩ nhiên cha xây nhà thờ, nhưng cũng đổ vào các việc tư riêng của cha không ít. Phải xây nhà xứ tương xứng cho cha xứ ở, phải trang trí, sắm tiện nghi cho nhà xứ, và có khi còn phải tậu xế 4 bánh để cha có phương tiện đi lại. Rất có thể còn những nhu cầu thầm kín khác nữa, ai mà biết được. Với một cơ ngươi bề thế cùng những phương tiện và tiện nghi hiện đại của lối sống văn minh ngày nay, ông cha xứ sống giữa đám bổn đạo nghèo xơ xác tự nhiên mang hình ảnh một tên lãnh chúa quyền uy thời nô lệ từ lúc nào mà chính cha cũng không hay.
Chuyện xoay xở tiền bạc để làm nhà thờ đối với một số linh mục quan trọng đến độ còn hơn việc chăm sóc phần hồn cho bổn đạo. Có vị đã nằm lỳ ở bên Mỹ này hàng nửa năm trời kiếm cho đủ chỉ tiêu mới chịu về. Có vị bị con chiên “việt kiều” lừa vào tròng. Lũ con chiên lưu manh dỗ ngọt ông cha đổi tiền mặt ra check để cầm về cho dễ. Khi nhận check cha còn đứng cho tờ báo đạo của chúng chụp hình. Tờ báo này bay về VN trước ông cha. Khi cha bước chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất, công An khám xét tịch thu tấm check, giơ ra tờ báo chứng minh ông cha nhận tiền của CIA để hoạt động chống nhà nước. Rất may là cha chỉ mất tiền, không bị đưa ra tòa về tội làm gián điệp. Con chiên bổn đạo thương an ủi cha xứ của mình “mất của nhưng còn người là may rồi”.
2. GIÁO LÝ
Có thể có bạn đọc nghi ngờ và thắc mắc làm sao việc CS cấm đạo lại di hại đến giáo lý của tôn giáo. Vấn đề này có thật và còn rất tai hại nữa. Mitrokhin, một trùm tình báo KGB đã tiết lộ trong một báo cáo về tình hình tôn giáo năm 1961: “Chúng ta phải gài người của chúng ta vào hàng ngũ các chủng sinh để về sau họ sẽ gây ảnh hưởng lên các hoạt động của giáo hội Chính Thống Nga. Họ sẽ là nhân viên của chúng ta ảnh hưởng đến các tín đồ”.
Như trên chúng tôi đã viết, ngày xưa vua chúa cấm đạo nhưng không tiêu diệt ý thức về tôn giáo. Cho đến khi Marx đưa ra chủ nghĩa CS, ông mới nêu vấn đề tận diệt nơi con người ý thức về Thượng Đế. Các chế độ CS từ Liên Sô cho đến VN đều rắp tâm thực hành kinh điển của Marx. Thế nhưng cho đến nay, CS mới khám phá ra rằng chúng đã hoàn toàn thất bại trong việc tiêu diệt nơi con người lòng tin vào Thượng Đế. Nhưng chúng đã tìm ra được một đường lối khác thay thế. Đường lối đó là không tiêu diệt được tôn giáo thì thay đổi nó để sai khiến nó. Vấn đề này đòi hỏi thời gian và bắt đầu từ việc thay đổi giáo lý nền tảng của tôn giáo.
Giáo lý của đạo Chúa nằm trong Thánh Kinh, giáo huấn của các Công Đồng, các giáo phụ, tông huấn của các giáo hoàng v.v. Tất cả đều được viết bàng ngoại ngữ. GHVN để có sách dùng nên phải dịch sang tiếng Viet cho thông dụng. Các bản dịch xưa văn chương qúa cổ, nên ngày nay các sách đã được dịch lại cho thích hợp hơn. Dịch lại thì dễ rồi vì GH không thiếu nhân sự. Nhưng còn in? Đây là hai khía cạnh của vấn đề mà chúng ta đang bàn đến.
Trước hết xin nói về người dịch.
Hiện nay tại tổng giáo phận Saigon có một ban tu thư dịch thuật gồm linh mục, nữ tu, và giáo dân. Họ vào khoảng vài chục người. Trên những sách quan trọng như Kinh Thánh, sách lễ, chúng ta thấy có để tên các dịch gỉa này. Có lẽ vì khiêm tốn, tên tuổi của quí vị không thấy kèm theo danh hiệu, bằng cấp hoặc chức vụ. Tuy nhiên họ hẳn là phải thuộc hàng “elite” mới đủ khả năng làm công việc đó. Trong số các dịch giả có một nhân vật mà tiếng tăm thì có thể không một giáo dân nào không biết tới. Đó là cha Thiện Cẩm. Ông là một linh mục quốc doanh loại gộc.
Trong hệ thống linh mục chính ủy hiện nay, Thiện Cẩm chỉ đứng sau nhóm “Tứ nhân bang” Minh-Cần-Từ-Bích. Thử nghe Lm Thiện Cẩm nói về tự do tôn giáo tại VN: “Thực tế là chúng tôi không hề còn một mảy may nghi ngờ nào đối với chính sách của đảng và nhà nước về tôn giáo. Chính sách ấy trước sau như một là tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo”.
Ngoài ra, người viết còn biết được 2 nhân vật khác. Một vị là linh mục rất hăng say trong nhóm biểu tình đòi trục xuất đức khâm sứ Henry Le Maitre và hạ bệ đức cha Nguyễn Văn Thuận, TGM phó giáo phận Saigon . Vị này đã chết. Một người khác nữa là một giáo dân trước kia hoạt động trong nhóm “Sống Đạo” tại Saigon . Ông trốn động viên Thủ Đức, chui vào làm lính trơn tại một đơn vị tham mưu trong quân đội. Sự có mặt của các nhân vật nêu trên (và rất có thể còn nhiều người khác nữa trong ban dịch thuật) không thể nào không khiến cho người ta nghi ngờ có bàn tay CS dính vào công tác phiên dịch này. Từ đó dặt ra vấn đề trung thực của các bản dịch, mặc dù các sách này đã có phép “imprimatur” (được phép in) của đức TGM Phạm Minh Mẫn và viện phụ Phước Sơn Vương Đình Lâm.
Ngoài những bộ sách quan trọng có ghi tên dịch gỉa, còn là không thiếu những sách kém quan trọng khác được dịch chui, nghĩa là không để tên người dịch trên sách. Tất cả những sách dịch chui hay không chui đều được in tại các nhà in quốc doanh và bán hầu như công khai trong nước.
Như vậy lại phải bàn đến vấn đề in ấn.
Ai cũng biết CS nắm trong tay mọi cơ sở ấn loát. Do đó nhiều người ở ngoài này cứ tưởng rằng giáo dân trong nước không có sách đạo để đọc. Nghĩ thế là lầm to. Trái lại, giáo dân trong nước bây giờ không thiếu bất cứ một loại sách đạo nào, từ Kinh Thánh đến các sách truyện. Không những thế, sách đạo trong nước còn thấy xuất khẩu sang Mỹ do đồng bào về thăm nhà mang ra. Sự kiện trong nước không thiếu thốn sách đạo thật sự là một hiện tượng ngược đời và lạ lùng ít có người ngờ và hiểu nổi, buộc lòng những người quan tâm đến vấn đề tự do tôn giáo đặt ra hàng loạt thắc mắc về người dịch, người in, và sự trung thực của các bản dịch.
Chuyện khá lý thú là CS cấm phổ biến sách báo đạo, nhưng chúng lại công khai in sách đạo cho GHCG. Nói thế có nghĩa là tất cả mọi sách vở của GH hiện nay đều được in từ cơ sở ấn loát của nhà nước CS. Đúng vậy. Một số sách có ghi cơ sở ấn loát đàng hoàng. Cuốn Kinh Thánh Trọn Bộ được in tại Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Q1. Cuốn Lời Chúa Trong Thánh Lễ, tức sách lễ, in tại Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 10 Chu Văn An, Hanoi . Một số không ghi cơ sở ấn loát nhưng được ngụy trang qua dòng chú thích trang đầu sách, chẳng hạn “Tài liệu học tập tư” v.v..
Câu hỏi được đặt ra là những sách này khi đem đến in có bị công an văn hóa kiểm duyệt không? Câu trả lời chắc chắn một trăm phầm trăm là CÓ. Một chứng minh cụ thể là trong cuốn Mẹ Đến Lần Cuối trang 38 bị kiểm duyệt “bỏ” với ghi chú ở cuối trang dòng chữ “Bỏ đi vài đoạn không cần thiết. Chúng tôi đánh dấu bằng (…..)”. Câu văn trước đoạn phải bỏ do kiểm duyệt viết: “Tin đồn lan đi nhanh như thuốc súng khắp vùng ấy và xa hơn. Công an cảm thấy lúng túng”. Sự thể được hiểu là công an CS Nam Tư đã thất bại trong việc ngăn chận tin đồn về chuyện Đức Mẹ hiện ra (chú thích của người viết). Ngoài ra điều hiển nhiên không cần chứng minh là trong chế độ CS, không thể có bất cứ một ấn loát phẩm nào mà không bị kiểm duyệt. Sách đạo càng không có điều kiện miễn trừ hơn. Đối với bọn CS tham lam thì không gì chúng không dám làm, miễn là có tiền. Tuy nhiên có tiền thì có tiền, nhưng đừng hòng chúng lơ là vấn đề trị an của chế độ.
Một thắc mắc khác nữa về sự trung thực trong nội dung của các sách dịch măc dầu như trên vừa nói đã được phép Imprimatur của các đấng bản quyền. Tuy hai cuốn sách lễ và Kinh Thánh không thấy có vết tích rõ ràng về kiểm duyệt, nhưng chuyện dịch khác đi một số chữ hoặc câu trong đó đã được nhiều bậc cao minh ở hải ngoại đặt ra trên báo hoặc trên internet. Ngoài những trường hợp đã được nêu lên, người viết xin đưa ra nhận xét về hai trường hợp khác: một trong Kinh Thánh và một trong sách Lễ. Trong Kinh Thánh, người dịch dùng chữ “Đức Giêsu” thay vì “Chúa Giêsu”, và câu trong Thánh Lễ “Chính nhờ Đức Kito, cùng với Đức Kito, và trong Đức Kito” thay vì “Chính nhờ Người, với Người và trong Người”.
Văn từ đọc trong Thánh Lễ, tất cả mọi ngôn ngữ đều giống nhau. Câu tiếng Mỹ là “Through Him, with Him, and in Him” thì tiếng VN phải là “Chính nhờ Người, với Người, và trong Người”, chứ không thể dịch là “Chính nhờ Đức Kito, cùng với Đức Kito, và trong Đức Kito” được. Lý do khiến người ta dịch khác đi, theo một số linh mục trong nước ra cho biết, là vì có chữ NGƯỜI viết hoa trong câu. Chữ Người dùng ở đây theo văn phạm VN là đại danh từ (pronoun). Ở trong nước, chữ này viết hoa chỉ được dùng để nói về Hồ Chí Minh mà thôi. Dùng chữ Người viết hoa trong bất cứ trường hợp nào cũng là bất kính đối với lãnh tụ và có thể bị trừng phạt. Nhà thơ Trần Dần của miền Bắc đã đi tù gần suốt cuộc đời vì hai câu thơ ông viết:
Xưa nay Người vẫn chẳng tin Người
Người vẫn thường kinh hoàng trước tương lai
Có thể các dịch gỉa trong ban dịch thuật của giáo phận đã thấy được cái gương Trần Dần trước mắt nên cho rằng Chúa Giêsu dù là Đấng Quyền Năng nhưng đây là Việt Nam, ai quyền năng hơn “bác hồ” của họ đây?
Cố tình dịch sai như trên chưa phải là chuyện quan trọng vì câu dịch không sai về ý nghĩa mà chỉ sai về hình thức. Còn trường hợp dịch chữ “Đức Giêsu” thay chữ “Chúa Giêsu” xem ra có dụng ý lớn chứ không phải vừa. Thật vậy, VN vốn là một dân tộc tôn ti trọng đạo, vì thế ngôn ngữ VN cho thấy cách dùng tiếng xưng hô rất quan trọng. Chữ chúa trong danh từ kép “vua chúa” mang ý nghĩa khác với chữ Chúa trong lối dùng để nói về Thượng Đế. Người tín hữu nói Chúa Giêsu để chỉ Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa. Nói “Đức Giêsu” là đã hạ Chúa xuống trình độ con người tạo vật chứ không còn phải là Thiên Chúa sáng tạo nữa. Khi nói Đức Giêsu, đức giám mục, đức ông, đức bà v.v. thì có gì khác nhau? Khi CS không tiêu diệt được đức tin của người CG, chúng dụng tâm hạ bệ Chúa xuống ngang tầm vóc con người, và biến Thiên Chúa Cứu Thế thành một lãnh tụ vô sản cũng giống như Lenin, Che Guevara, Hồ Chí Minh v.v.. CS đã dùng các linh mục theo thần học giải phóng tại các quốc gia Mỹ Châu La tinh rao giảng Chúa Giêsu là một lãnh tụ cách mạng vô sản xuống thế để giải phóng các dân tộc bị nô lệ. Hiện nay các linh mục quốc doanh VN cũng đang tiếp tục công tác đó.
Lm Trương Bá Cần viết trong Công Giáo Và Dân Tộc: “Ý định của Thiên Chúa đã bắt đầu được thực hiện trên đất nước VN nhờ công lao của Hồ Chủ Tịch. Nếu Hồ Chủ Tịch muốn vào nước trời, Người (viết hoa, ghi chú của người viết) sẽ vào trước hơn ai hết”. Theo cha Trương Bá Cần thì có thể kết luận là nếu Hồ Chí Minh có khả năng tự mình ra vào nước trời tùy tiện theo ý hắn, không cần ơn Thiên Chúa thì quả thật hắn có đủ năng quyền như Thiên Chúa và là Thiên Chúa rồi. Rõ ràng Lm quốc doanh Trương Bá Cần đã nâng ‘bác Hồ” của ông lên ngang bằng Thiên Chúa. Dịch Kinh Thánh gọi Chúa Giêsu là Đức Giêsu quả là một âm mưu thâm sâu khó lường.
Giáo dân VN kể cả không ít trong hàng chủ chăn xưa nay xem ra coi thường vấn đề chữ nghĩa này. Cũng không có gì lạ, bởi vì đa số chỉ là đàn cừu Panurge. Có sách là đọc, thấy kinh là tụng, không cần hiểu ý nghĩa gì trong kinh trong sách. Ngay cho đến bây giờ khi Công Đồng Vatican II đã kết thúc cả gần nửa thế kỷ, tại các nhà thờ VN, mỗi sáng chúa nhật người ta vẫn còn nghe rang rang câu kinh “những kẻ chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn”. Nếu đúng như lời kinh dậy thì các thánh Gioan Tiền Hô, Gioakim, Anna (thân phụ và thân mẫu Đức Mẹ) chắc đã sa hỏa ngục hết, vì các ngài chết trước khi Hội Thánh Chúa được thiết lập trên trần gian. Đấy là chưa nói đến những người tuy không phải CG nhưng lương tri của họ luôn tin có một đấng Tạo Hóa tối cao, suốt đời ăn ngay ở lành, làm việc thiện. Không lẽ họ cũng sa hỏa ngục hết. Chúa Giêsu nói với người đàn bà bị băng huyết khi bà này sờ vào tua áo của Ngài: “Này con, cứ an tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22). Một lời kinh sai giáo lý tụng hàng thế kỷ nay vẫn còn tụng thì thử hỏi những câu, những chữ trong Kinh Thánh hoặc trong sách giáo lý bị cố tình dịch sai đi với dụng ý, ai hơi đâu để ý tìm tòi mà sửa. Cái di hại lâu dài là ở chỗ đó.
3. LÃNH ĐẠO
Không phải đến nay CSVN mới có sáng kiến cấy người vào các giáo hội để lũng đoạn và sai khiến. Ngay từ hồi còn mồ ma Liên Sô, CS Nga đã làm việc này rồi. Trong một báo cáo hàng năm 1962, viên phụ tá giám đốc mật vụ KGB Grimakov viết: “KGB đã thành công trong việc cho xâm nhập các điệp viên giỏi và có khả năng vào nắm giữ các chức vụ cao cấp trong GH Chính Thống Giáo tại Moscow và các giáo phận công giáo cũng như giáo hội Armenian Gregorian. Với những điệp viên này, khẳng định đảng sẽ loại trừ được bọn tu sĩ và các giáo hội phản động ra khỏi vị trí đương thời của chúng”.
CSVN, tên đầy tớ thông minh của Moscow , học và áp dụng sách này ngay từ thời chúng chưa về Hànội. Chúng đã đào tạo những Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần v.v. từ lúc họ còn học tại Pháp. Những ông này hiện nay là nòng cốt của một giáo hội trong một giáo hội. Hàng ngũ giáo sĩ quốc doanh của CSVN càng ngày càng gia tăng về con số. Phương pháp nắm các giáo phận của CSVN không khác gì lối chăn cừu của người Âu Châu. Người chủ trại chỉ cần xử dụng dăm ba con chó săn là có thể yên tâm thả đàn cừu hàng ngàn con ra đồng cỏ. Mỗi giáo phận VN, CS cũng chỉ cần cài vài ba ông quốc doanh vào nắm giữ những chức vụ then chốt là đâu vào đấy ngay.
Đồng thời với đường lối cài đặt người, CS còn khôn khéo xử dụng tuyệt hảo chính sách “cây gậy và củ cà rốt” chẳng thua gì Hoa Kỳ. Cây gậy luôn để trên người, nếu ngoan ngoãn nghe lời thì sẽ được ăn. Củ cà rốt hấp dẫn nhất hiện nay đối với nhiều vị lãnh đạo GH là được đi ngoại quốc để xin tiền. Đừng tưởng các ngài đi là không có sứ mạng. Nhẹ nhàng lắm. Sứ mạng trọng đại nhất khi đi ra ngoại quốc là giữ im lặng về các vấn đề ở trong nước. Một linh mục giáo phận Phú Cường sang đây đã nói với người viết: “Tôi nói vậy nhưng ông đừng có đưa lên báo chí nhá. Lúc đi chúng nó đã dặn kỹ là không được tuyên bố tuyên mẹ hay nói năng gì ….” Chỉ cần có thế, dễ ợt mà. Ra đến ngoài, các ngài chỉ cần im lặng ngửa tay xin tiền và lên tòa giảng nói dăm ba câu vô thưởng vô phạt khuyên con chiên bổn đạo yêu thương, tha thứ thì đã được kể là hoàn thành xuất sắc sứ mạng rồi.
Trong suốt một thời gian dài kể từ ngày Đặng Tiểu Bình đề ra chính sách “bất kể mèo đen mèo trắng”, Trung Cộng khuyến khích và dễ dãi cho phép người dân lục địa qua Mỹ thăm thân nhân của họ tại San Francisco. Những người dân Trung Hoa bình thường khi ra đi, họ không biết tuyên truyền là gì, và họ cũng chẳng tuyên truyền cho ai. Thế nhưng với đường lối này, Trung Cộng ngày nay đã thành công trong việc chiếm được của Đài Loan khu Chinatown San Francisco mầu mỡ. Các giám mục, linh mục VN được đi Mỹ thỏai mái. VC không cần các ngài tuyên truyền. Sự hiện diện của các ngài tại Mỹ tự nó đã là tuyên truyền rồi. Người tỵ nạn VN bắt đầu lo sợ ngày nay là Chinatown San Francisco, rất có thể ngày mai sẽ là Phước-Lộc-Thọ Santa Anna.
Việc CS cài người vào hàng ngũ lãnh đạo của GHCG là một công tác trường kỳ. Lung lạc được lớp chủ chăn cao niên là chuyện khó, vì đầu óc các ngài đã có sạn. Vì thế CS quyết tâm dành quyền quyết định trong vấn đề tuyển chọn, đào tạo, và đặt để các linh mục. Mục đích là để nắm lớp lãnh đạo trẻ trong tương lai. Việc tuyển chọn, dĩ nhiên là CS đã có tiêu chuẩn để chọn người. Đào tạo mới là giai đoạn chủ yếu để sàng lọc. Có thể nói tiếng nói của cán bộ giảng huấn môn chính trị học trong chủng viện là tiếng nói quyết định trong việc chấp thuận cho một chủng sinh bước lên chức linh mục.
Trong chương trình đào tạo để trở thành linh mục, có hai môn học mang tính quyết định là triết học và lịch sử. Môn triết học trong đó có triết học Marxit, và môn lịch sử có lịch sử đảng CS. Chắc chắn trong các cuộc khảo nghiệm đều có đề tài về lý thuyết Marxit và lịch sử đảng CSVN. Nghe nói đã có một đề tài khảo thí như sau: “Đạo CG lấy bác ái làm đường lối truyền bá Phúc Âm. Người CS áp dụng đấu tranh giai cấp để bành trướng chủ nghĩa. 2000 năm rồi, GHCG mới thuyết phục được một tỷ người vào đạo. Còn chủ nghĩa CS chỉ trong vòng 50 năm đã chinh phục được một nửa thế giới. Vậy hãy so sánh xem đường lối nào hữu hiệu hơn, và anh chọn đường lối nảo?”
Bác ái và thù hận (đấu tranh giai cấp) là hai phạm trù đạo đức đối nghịch nhau, và là mấu chốt của sự phân biệt giữa CG va CS. Cái khó của người chủng sinh là phải chọn lựa giữa hai cái đối nghịch. Chỉ có thể nói “yes or no” mà thôi. Không có lựa chon thứ ba. Nếu chọn bác ái làm con đường thực hành chức linh mục sau này thì thí sinh đạp vỏ chuối là cái chắc. Còn nếu chọn đấu tranh giai cấp thì hẳn dễ dàng đủ điểm để được chấm đậu. Đây là cái bẫy CS cố tình giăng ra. Mục đích lùa các ứng viên linh mục vào cái thế phải bán linh hồn cho qủi dữ. Một linh mục cố nín thở qua sông đã chịu bán linh hồn cho CS rồi thì sau này còn có cái gì ông không dám bán nữa?
Còn một cách khác nữa CS cố tình dùng để làm hư hỏng một chủng sinh sắp bước lên chức linh mục. Đó là việc chạy chọt đút lót để được thông qua ở cửa ải tham nhũng. Có chuyện kể rằng một thầy sắp đến ngày chịu chức, mọi việc đã xong xuôi, chỉ còn chờ trên thị xã OK. Nhưng quan bí thư đòi 15 cây thì mới châu phê. Bà cố tương lai băn khoăn không biết phải giải quyết ra sao, bèn đưa sự việc lên trình đức giám mục. Đức cha nghe qua rồi giải quyết lẹ: “gia đình liệu đấy làm thế nào được thì làm”. Coi như đức giám mục đã bật đèn xanh. Thế là ít ngày sau bà cố tíu tít bầy tiệc mừng con làm linh mục. Phần đức cha có lẽ ngài đọc Phúc Âm hơi nhiều nên đã thuộc lòng cách giải quyết công việc một cách gọn nhẹ của trấn thủ Philato.
Trường hợp này, một linh mục chịu đấm ăn xôi bỏ tiền mua chức thánh thì tham vọng thăng quan tiến chức trong GH chắc phải còn cao. Với các linh mục cố đấm ăn xôi và nín thở qua sông này, GH trông chờ gì, và giáo dân được lợi ích gì nơi họ? Nếu chức linh mục hấp dẫn qúa đến nỗi bất chấp tất cả để được bước lên, thì chức giám mục và trên nữa còn hấp dẫn đến đâu. CS nó rất rành tâm lý và biết rất rõ tâm lý này của từng người. Chúng đào tạo và nắm được thành phần chủ chăn này là nắm được GH. Vấn đề hệ trọng này nếu không đề phòng và ngăn ngừa sẽ gây ra thiệt hại cho GH không biết đến bao giờ mới chấm dứt, ngay cả sau khi chế độ CS đã sụp đổ. Đành rằng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”, nhưng nên suy nghĩ xem “qúi hồ tinh bất qúi hồ đa” có thể đỡ thiệt hại hơn không?
KẾT LUẬN
Việc cấm đạo qua các thời khác nhau phát sinh cách đối phó khác nhau. Cách đối phó khác nhau đưa đến những kết quả khác nhau. Thật vậy, thời vua chúa cấm đạo, biện pháp thật gắt gao và tàn nhẫn, GH chỉ còn cách trốn tránh hoặc chết. Nhưng càng phải trốn tránh giáo dân càng nung nấu tinh thần sống đạo kiên trung. Và càng chém giết càng đưa đến những cái chết anh hùng làm vinh danh GH.
Ngày nay cấm đạo, CS dùng giây thòng lọng để xiết cổ GH cho nghẹt thở thôi chứ không chém giết. Phương pháp đàn áp đặc biệt này HY Phạm Minh Mẫn mệnh danh nó là “cơ chế xin-cho” đã làm phát sinh ra lối sống đạo bon chen. Bon chen để mà sống, và được sống náo nhiệt như hiện nay. GH không đi tìm cái chết, nhưng đi tìm cái sống. Và để được sống còn, GH đã phải trả gía cho sự sống đó. Cái gía đáng gía nhất đã phải trả ra là sứ mệnh ngôn sứ của GH. Cũng chẳng sao, miễn là được sống. Nhưng điều đáng nói ở đây là cung cách nhiều đấng bậc biện bạch cho lối sống đạo này. Tại Indonesia, HongKong, Thái lan, Philippines, nhiều giám mục, hồng y đã dấn thân tranh đấu quyết liệt cho các quyền tự do dân chủ, quyền làm người, không phải chỉ riêng cho GH, mà chung cho người dân trong nước của các ngài. Hành động đó không ai nói các ngài làm chính trị.
Nhưng tại VN, những hành động đó nhiều đấng bậc lại phê phán là làm chính trị, không nên dính vô. Không làm chính trị thì tốt rồi, nhưng tham gia vào các chức vụ công quyền của CS như quốc hội, mặt trận v.v. thì lại được coi là cách ứng xử thức thời. Người viết băn khoăn tự hỏi không biết đó là ơn soi sáng của Thánh Linh hay là do ma đưa lối qủi đưa đường?
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
2 Comments
cachon
Các tu-sĩ-quốc-danh tàn phá giáo hội và lộng hành với các tu sĩ cùng đạo với mình. Tôi vẫn lo sợ cho giáo hội cuả mình. Một điều duy nhất chúng ta làm được là cầu nguyện vì “sau cùng trái tim Mẹ sẽ thắng”