Phỏng vấn La Thành
Sự điêu tàn của văn hoá
Phạm Thị Hoài: Chúng ta thử hình dung, một ngày nào đó không xa, trong vòng một thập niên tới, Việt Nam sẽ chuyển thành công từ thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng CSVN sang dân chủ đa nguyên, với nhà nước pháp quyền dựa trên tam quyền phân lập, với tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do hội họp và xã hội dân sự. Khi đó, cái di sản kéo dài gần ba phần tư thế kỉ ở miền Bắc và gần một nửa thế kỉ trên toàn quốc đó sẽ đặt chế độ mới trước những thử thách nào?
La Thành: Cái khó của câu trả lời không phải là việc gọi tên những thử thách, chắc chắn đó là một danh sách rất dài, mà là việc phân loại và phân cấp những thách thức đó. Trong sơ đồ của tôi, thách thức lớn nhất, bao trùm nhất sẽ đối diện với chính quyền hậu cộng sản đầu tiên của nước Việt là sự điêu tàn của văn hoá. Mọi thách thức khác đều là thành phần, là hệ luỵ của thách thức này.
Ở phân cấp thứ nhất của bức tranh văn hoá tăm tối đó, chúng ta sẽ quan sát thấy hai thành tố: sự mông muội của luật pháp và sự nhem nhuốc của đạo đức. Là hai tiểu phạm trù của văn hoá, luật pháp và đạo đức được tách bạch theo cách thức chúng điều chỉnh các hành vi văn hoá của con người: luật pháp điều chỉnh bằng ý thức về sự công bằng và sự bất công, còn đạo đức thì điều chỉnh bằng ý thức về cái tốt và cái xấu; những hành vi bất công sẽ bị trừng phạt, còn những hành vi xấu xa sẽ bị chê cười. Một khi sự bất công thì được bảo vệ, còn sự [đòi hỏi] công bằng lại bị trừng trị; một khi người đứng đầu chính quyền của cả nước công khai bao che những kẻ tẩu tán hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế của dân, trong khi lại sai tay chân nhân danh công quyền đập phá nhà cửa và dựng án bỏ tù người bất đồng chính kiến thì nền luật pháp đó là thứ luật pháp của các băng đảng lục lâm thảo khấu. Một khi xã hội vô cảm với cái đê tiện, dửng dưng với cái mã thượng, lấy độ dày của ví tiền làm thước đo của thành công, giản quy các mối quan hệ xã hội thành các tương tác ‘có đi có lại’, ‘ông trao tiền, bà trao thịt’ thì nền đạo đức đó là thứ đạo đức của đĩ điếm. Những thách thức này nghiêm trọng ở chỗ chúng bao trùm lên và thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Không đơn thuần chỉ phải xây dựng lại hệ thống pháp luật về mặt văn bản, một công việc vốn dĩ đồ sộ, chế độ mới còn phải trao hiệu quả cho hệ thống đó để nhà nước của họ thực sự là nhà nước pháp quyền. Việc khôi phục uy quyền cho các giá trị đạo đức đã thất thế cũng đòi hỏi những nỗ lực thành thật và bền bỉ.
Trong một tiêu chí phân cấp khác, lưu ý đến các lực lượng xã hội của văn hoá, chúng ta hãy kì vọng rằng nền dân chủ trong tương lai phải chủ yếu do giai cấp trung lưu với nòng cốt là tầng lớp trí thức lĩnh xướng. Về nền tảng kinh tế, lực lượng xã hội này bao gồm các doanh nhân vừa và nhỏ, các nhà chuyên môn có thu nhập ổn định từ nghề nghiệp của mình như học giả, kĩ sư, bác sĩ, văn sĩ, giới công nghiệp biểu diễn – giải trí v.v., có địa vị kinh tế trung gian giữa tầng lớp thượng lưu và quần chúng lao động. Về xu hướng chính trị, họ được kì vọng là những người có tư tưởng dân chủ triệt để và theo đuổi một chủ nghĩa dân tộc ôn hoà. Về phẩm chất tinh thần, họ được trông mong là những người có tư duy độc lập, thượng tôn chân lí khách quan, bất khuất trước bạo quyền. Những đại diện của họ cần phải chiếm đa số trong các thiết chế nhà nước tương lai, đặc biệt là trong nhánh lập pháp. Nhưng vào thời điểm này, một giai cấp trung lưu và tầng lớp trí thức như thế thực sự chưa có, vì vậy thật khó để nói về giai cấp và tầng lớp này sau mươi, mười lăm năm nữa. Nếu toà nhà dân chủ tương lai được trông cậy vào những kiến trúc sư và thợ xây như thế nhưng lực lượng này lại chưa thành hình hoặc còn non yếu, thì đó là một thử thách vô cùng nan giải.
Khi xét đến cấu trúc nội dung của văn hoá, tương ứng với các lĩnh vực hoạt động của con người, nền văn hoá sẽ bao gồm các địa hạt như chính trị, kinh tế, giáo dục – đào tạo, v.v., và điểm hạnh kiểm của văn hoá sẽ được cộng lại từ phẩm chất của các thành tố này.
Về chính trị, mặc dù Đảng Cộng sản đã phải từ giã địa vị thống trị, nhưng con người, văn hoá chính trị, đạo đức hành xử và tác phong làm việc của nó vẫn còn đó, tạo nên một trong những thách thức thực tiễn lớn nhất đối với công cuộc xây dựng chế độ mới. Hãy quan sát nước Nga trong hơn hai mươi năm qua để thấy cái di sản toàn trị kia đã đeo bám dai dẳng và cản trở dân chủ hoá đến mức nào. Tôi đặc biệt lưu ý đến sức ì của của văn hoá chính trị toàn trị. Ở Đông Á, trật tự Khổng giáo từ hàng nghìn năm trước chính là một thứ chủ nghĩa xã hội phong kiến, và sự hội ngộ giữa nó với chủ nghĩa Marx-Lenin tại đây hồi đầu thế kỷ XX là một cuộc ‘tri kỷ tương phùng’: chủ nghĩa xã hội hiện thực trong hơn nửa thế kỷ qua ở Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam thực chất là sự thực hành Khổng giáo dưới một hệ thống thuật ngữ mới. Một phần tư thế kỉ sắp trôi qua từ các biến cố chính trị ở Liên Xô cũ và Đông Âu, văn hoá là yếu tố chủ chốt đã cầm chân được các đảng cộng sản Đông Á ở địa vị cầm quyền. Vì vậy văn hoá vẫn sẽ là yếu tố chủ chốt thách thức các nền dân chủ tương lai tại đây.
Về kinh tế, mặc dù Đảng Cộng sản đã đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2020, tức là chỉ sau 8 năm nữa, nhưng tôi tin chắc rằng vào thời điểm đó, nền kinh tế nước Việt vẫn tiếp tục là một nền kinh tế có cơ cấu thiên về xuất khẩu nông sản và những sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ thấp, công nghiệp vẫn tiếp tục là một nền công nghiệp phục vụ ngoại bao (outsourcing) cho các thương hiệu nước ngoài, có thể với quy mô lớn hơn hiện nay, và thặng dư của toàn bộ nền kinh tế vẫn dựa vào chính sách trả lương thấp cho tuyệt đại bộ phận người lao động. Đơn giản là sơ đồ kinh tế này lâu nay đã và đang phục vụ đắc lực lợi ích của các nhóm tài phiệt kiêm đầu sỏ chính trị, mà thi thoảng truyền thông chính thống chỉ định danh nhẹ nhàng là các ‘nhóm lợi ích’, vốn là con cháu hay dây rợ của các gia đình quý tộc cộng sản đã hoàn tất việc chuyển các tài sản nguyên thuộc sở hữu toàn dân của thời kì xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá vào tay chúng thông qua những cuộc cổ phần hoá mang đặc trưng ăn cướp. Cho dù Đảng Cộng sản có thể phải từ bỏ độc quyền chính trị vào đầu thập kỉ tới, sự tồn tại của một thiểu số tài phiệt đỏ hùng mạnh về kinh tế và phản động về chính trị sẽ là một thách thức trực tiếp đối với các nhiệm vụ kinh tế của nền dân chủ còn non trẻ, bao gồm việc tái cơ cấu nền kinh tế và [tái cơ cấu] phân phối thu nhập.
Một thách thức kinh tế khác được dự báo sẽ là những khoản nợ công khổng lồ mà nạn tham nhũng và sự thua lỗ của các tập đoàn kinh tế quốc doanh – những kẻ sử dụng và đánh cắp nhiều nhất các nguồn vốn vay mượn từ bên ngoài – đang di chúc lại. Đồng thời, trong khi chính quyền cộng sản thường xuyên rao giảng nhận thức về ‘phát triển bền vững’ (sustainable development), sự bất lực và giả dối của nó trong chiến lược văn hoá này đang để lại cho thế hệ tương lai một môi trường sống dơ dáy và ngập ngụa phế thải, các nguồn nước nhiễm độc và cạn kiệt, rừng và các mỏ khoáng sản bị tàn phá, bị trộm cắp, bị cướp đoạt hoặc bị bán tống bán tháo một cách man rợ và vô cảm.
Về giáo dục – đào tạo, sự cổ quái của một nền giáo dục phản khai phóng phục vụ chính trị trong hơn nửa thế kỉ sẽ đẩy đất nước vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng nhân lực chuyên nghiệp trong mọi lĩnh vực của đời sống. Có thể hơi lạc đề một chút so với câu hỏi, nhưng tôi muốn nói thêm rằng sự kém cỏi của nền giáo dục – đào tạo nước nhà như hiện nay vừa là chỉ dấu, vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của sự thiếu vắng một đội ngũ trí thức xứng tầm. Một đội ngũ trí thức như thế đáng lẽ đã được hình thành và kế tục nếu không có những cuộc đàn áp và triệt hạ khốc liệt nhằm vào trí thức liên tục trong các thập kỷ 50, 60 và 70 của thế kỷ trước. Trên thực tế, số lượng những người có học hiện nay đông đảo hơn gấp nhiều lần so với đội ngũ có học cách đây bốn, năm chục năm, song tuyệt đại đa số họ không tương xứng với danh từ ‘trí thức’. Tôi được biết ở Đại học Harvard đang có một chi bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng viên là các lưu học sinh Việt theo học tại đó; hàng năm, chi bộ này vẫn liên tục kết nạp đảng viên mới. Đây quả là một minh chứng đặc sắc cho chất khai phóng của giáo dục Mỹ. Tôi tự hỏi trong số các Harvardian communist này, những ai rồi đây sẽ nhanh chóng giấu nhẹm đi đảng tịch cộng sản của mình để đầu quân cho nền dân chủ?
Trên đây, tôi chỉ điểm qua những thách thức lớn nhất, tất định nhất đối với nền dân chủ hậu cộng sản đầu tiên. Chung quy, mọi thách thức đều có tên gọi khái quát là văn hoá.
Phạm Thị Hoài: Theo anh, xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản đó?
La Thành: Tôi được thông báo một tin xấu và một tin tốt. Tin xấu là, trong một diễn tiến thông thường, chúng ta sẽ phải chờ đợi để một thế hệ được thay thế, trung bình khoảng 25–30 năm. Tin tốt là một chiến lược văn hoá đúng đắn có thể giúp rút ngắn quãng thời gian chuyển trạng thái này.
Khi quan sát tiến trình dân chủ hoá diễn ra từ các bộ phận của Liên Xô cũ cho đến Đông Đức cũ, tôi nhận xét thấy quãng thời gian trễ đang đề cập tỉ lệ thuận với khoảng cách đến đường biên giới địa lí của các nền dân chủ truyền thống Tây phương. Đáng tiếc là nước Việt còn cách xa đường biên giới ấy hơn cả nước Nga. Tuy nhiên, một chiến lược văn hoá thông thái có thể giúp kéo ‘đường biên văn hoá’ của các nền dân chủ cổ truyền lại gần chúng ta, đẩy lùi sự ‘câu giờ’ của văn hoá toàn trị. Tựu trung vẫn là văn hoá.
Phạm Thị Hoài: Anh có thấy những điểm sáng hay truyền thống tốt đẹp nào từ cái di sản đó cần được giữ gìn?
La Thành: Câu trả lời của tôi chắc chắn là ‘Không’.
Trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản, ‘văn hoá Đảng’ đã làm tổn thương không ít truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, và có thể chưa kịp tác hại đáng kể lên những truyền thống có sức sống mãnh liệt nhất. Trong suốt thế kỷ XX, Đảng Cộng sản đã thủ lợi trên truyền thống yêu nước và những truyền thống đẹp đẽ khác của người Việt. Nhưng một khi cảm thấy một truyền thống hay nét đẹp nào đó có thể phương hại đến sự tồn tại của nó ở địa vị thống trị, – thí dụ lòng ngay thẳng thượng tôn lẽ phải, tinh thần bất khuất trước bạo quyền và gần đây nhất, ngay cả lòng yêu nước, – nó sẽ xúc phạm và tấn công huỷ diệt những tố chất đó không chùn tay.
Trong cả thời chiến và thời trị của Đảng Cộng sản, bộ máy tuyên truyền của nó đã xây dựng và ngợi ca nhiều tấm gương anh hùng hay gương ‘người tốt việc tốt’ tiêu biểu. Nay thì đã rõ rằng những ‘điểm sáng’ kia hoặc là sản phẩm thuần tuý của hư cấu (điển hình là ‘anh hùng’ Lê Văn Tám), hoặc là một sự thật ít ỏi đã được tô vẽ đắp điếm. Bất luận trường hợp nào, tác quyền của nét đẹp truyền thống xứng đáng được ca ngợi chưa bao giờ thuộc về văn hoá Đảng.
Cha tôi, một đảng viên cộng sản có trên 40 năm tuổi Đảng, sinh thời từng nói với tôi rằng từ năm mươi năm trước, khi ông còn là một trai trẻ bị cuốn vào cơn bão chính trị do Đảng Cộng sản khởi xướng, ông đã nhận ra rằng khôn lỏi, dối trá và thủ đoạn luôn luôn là bí quyết thành công dưới chế độ cộng sản. Có thể nhận định một quy luật rằng các món ăn ‘gương sáng’ do Đảng Cộng sản chế biến và dọn ra bàn tiệc tuyên truyền của nó mới đầu thường thuộc về giai tầng thấp nhất của xã hội. Một số sau đó có thể được cất nhắc lên thứ bậc cao hơn, ở đó anh/chị ta hoặc phải đê tiện hoá để thích nghi với thành phần giai cấp mới, hoặc bị đào thải và rơi trở lại địa vị xuất phát nếu không chịu từ bỏ đức trung thực.
Văn hoá Đảng Cộng sản quả thật có một truyền thống chủ đạo: sự dối trá. Có điều khó ai có thể đồng ý rằng di sản đó cần phải được giữ gìn.
Phạm Thị Hoài: Khả năng diễn ra trong hòa bình của bước ngoặt đó lớn tới mức nào, hay tình trạng bạo loạn mà nhiều người tiên đoán và dùng đó làm lập luận chống thay đổi thể chế sẽ xảy ra?
La Thành: Điểm lại lịch sử, Hungary năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968 đã bị quân đội Liên Xô bình định bằng xe tăng và tiểu liên. Liên Xô và Đông Âu năm 1989 chuyển dịch thành công về dân chủ cơ bản trong hoà bình. Cuộc đọ súng trước ‘Nhà Trắng’ Moskva tháng Tám năm 1991 chỉ là cuộc đọ súng giữa hai thế lực của giai cấp thống trị cũ. Thiên An Môn năm 1989 bị xe tăng của quân đội Trung Quốc dìm trong bể máu. Năm 2011, Ai Cập, Yemen và Tunisia đã chuyển dịch thành công về dân chủ dưới họng súng của giới cầm quyền, một bộ phận quần chúng đã phải đổ máu. Ở Libya, công cuộc lật đổ chế độ Gaddafi đã phải đi qua một cuộc nội chiến ngắn đầy máu lửa trước khi giành thắng lợi. Ở Syria, chính quyền Bashar al-Assad đã tàn sát 8000 người biểu tình và chưa chịu buông rời quyền lực. Trong tất cả các sự kiện vừa liệt cử, ở những nơi đã xảy ra bạo lực kẻ rắp tâm giương súng bóp cò trước tiên luôn luôn là tập đoàn cầm quyền. Ở Đông Âu, nơi mà nền văn hoá giàu truyền thống dân chủ hơn so với Trung Đông và Bắc Phi, tập đoàn thống trị đã chấp nhận giã từ quyền lực trong hoà bình một cách dễ dàng hơn.
Như vậy, hoà bình hay bạo lực là sự lựa chọn văn hoá của tập đoàn cầm quyền, chỉ phụ thuộc vào tập đoàn cầm quyền. Hy vọng rằng sau mươi năm nữa, văn hoá chính trị của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khi ấy sẽ cao hơn đáng kể so với thế hệ hiện nay, để họ có thể chấp nhận buông tay khỏi quyền lực trong hoà bình trước đòi hỏi dân chủ của nhân dân.
Phạm Thị Hoài: Trước khi ngày đó tới, anh sẽ làm gì trong năm 2012 này?
La Thành: Tôi đã bắt đầu cuộc lựa chọn văn hoá của mình từ năm ngoái rồi. Năm nay chỉ là sự tiếp tục.
Đầu năm 2011, tôi đã quyết định chia tay với sinh hoạt Đảng. Tôi đã làm việc đó một cách lặng lẽ, không gây ồn ào: tôi xin chuyển công tác khỏi nhiệm sở cũ, điều này tất yếu kèm theo thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng đến nơi mới. Ở nơi mới, tôi không nộp hồ sơ đảng viên nữa. Tôi chọn cách từ giã Đảng như vậy để không ảnh hưởng gì đến các đồng nghiệp cũ của tôi, bởi nếu tôi làm đơn xin ra khỏi Đảng một cách chính tắc, chi bộ cũ của tôi cuối năm vừa rồi chắc chắn sẽ mất danh hiệu ‘Chi bộ Trong sạch Vững mạnh’, một số đảng viên của nó có thể sẽ mất các danh hiệu thi đua. Nhiều người vẫn còn cần những thứ đó và tôi tôn trọng họ.
Tôi đang trên hành trình gột rửa văn hoá Đảng khỏi tâm hồn và cuộc sống của tôi. Sự chuyển biến văn hoá đòi hỏi rất nhiều thời gian. Tôi e sẽ không kịp nếu còn chưa bắt đầu hành trình ấy của bản thân mình. Tôi không muốn mình sẽ ở trong số bốn triệu người phải lặng lẽ vứt thẻ đảng và tập thay đổi thói quen ứng xử khi ra khỏi nhà vào những ngày đầu đất nước được tự do.
Phạm Thị Hoài: Cảm ơn anh La Thành.
Phạm Thị Hoài
Nguồn: pro & contra