Tết Đoan Ngọ mồng năm tháng năm vào đúng giữa năm tính theo lich nguyên thủy nên dân gian gọi là Tết phương Nam của tộc Việt. Nhà Trung Hoa học W. Eberhard trong tác phẩm “Lễ Hội Trung Hoa” đã viết:
“Đoan Ngọ là Tết của phương Nam, Tết cầu may, tết của sự sống … và con số 5 vừa nói lên ngày mồng 5 tháng 5 mà đồng thời cũng nói đến sự tích “50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống bể. Khi đua thuyền, người ta hát những bài của Khuất Nguyên rất dễ gợi lòng ái quốc. Không hiểu tục thi bơi thuyền có tự lúc nào, nhưng về sau nó kéo theo lễ kỷ niệm Khuất Nguyên trầm mình dưới sống Mịch La. Khuất Nguyên là người Sở nên dân gian có tục bắt một người Hán để đến ngày đua thuyền thì đem ra “tế” để báo thù cho Khuất Nguyên.
Đây là tục lệ nguy hiểm cho Hán tộc nhất là những người có bộ râu dài đẹp. Dân Nam Man bắt cóc họ đưa về nuôi nấng đàng hoàng để đến ngày “Trùng Ngũ” 5 tháng 5 đưa ra dìm sông tế Khuất Nguyên. Vì thế, Tết này bị vương triều Hán tộc cấm đoán triệt để. Về sau có nhiều biến đổi, nhiều hiện tượng dị đoan len lỏi vào như việc thả cơm cháo xuống nuôi hồn Khuất Nguyên …. Những ý tưởng cầu mưa để mùa màng phong đăng luôn đi kèm lễ, nên ta vẫn có thể nhìn ra được gốc gác của nó thuộc nông nghiệp và từ phương Nam phát xuất …”.
Học giả Needham nhận định rằng “Nền văn hóa Viễn Đông không có ý niệm tội lỗi mà chỉ có sự cố gắng đạt đến hòa hợp, “bình quân thái hòa”. Bởi thế cái Tết cao cả hơn hết của Viễn Đông xưa là ngày mồng 5 tháng 5 cũng gọi là ngày “Trùng Ngũ”, “Đoan Ngũ” hay “Đoan Ngọ”. Thái hòa là hòa thời với không, hòa Trời với đất, mà theo vị trí Viêm tộc thì Trời ba đất hai (tham thiên lưỡng địa), ba với 2 là 5 (ngũ). Do đó, số 5 trở thành con số lý tưởng của nền văn minh Viêm Việt, lịch khởi đầu năm ở cung Dần nên tháng 5 nhằm vào cung ngọ. Ngọ là lửa đối với tí là thủy làm nên cái trục tiên thiên cao cả, cho nên khi mặt trời đạt đến cung ngọ thì những dân có liên hệ thâm sâu với lửa như Viêm tộc phải ăn mừng, phải chào đón phút uy linh trọng đại của Đoan Ngọ. Vì thế thuốc màu dùng trong Tết này là sắc đỏ để chỉ sự sáng nóng, mặt trời, mùa hạ, sự sống nên Đoan Ngọ còn gọi là lễ của sự sống thuộc phương Nam.
Trong đời sống tâm linh của người Việt cổ thì con số 5 là con số linh, vừa nói lên ngày mồng 5 tháng 5 là ngày mà theo huyền tích là ngày giỗ mẹ Âu Cơ nên dân gian tổ chức lễ hội để tưởng nhớ Nghi mẫu Âu Cơ. Vì thế, cuộc đua thuyền trong ngày lễ trên mỗi thuyền gồm 50 tay đua con trai và 50 tay đua con gái để nhắc lại sự tích “Năm mươi con theo mẹ lên núi còn năm mươi con theo bố xuống miền sông nước” trong huyền thoại Rồng Tiên của Việt tộc.
Theo Toan Ánh, nhà nghiên cứu về phong tục Việt Nam qua lễ tết hội hè thì tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Đoan Dương. Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là giữa trưa. Dương là mặt trời, là khí dương nên Đoan Dương là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh. Sở dĩ ngày mồng 5 tháng 5 được gọi là Tết Đoan Ngọ vì tháng 5 là lúc trời nắng gay gắt, khí dương đang thịnh như mặt trời vào lúc giữa trưa. Thời khí mùa hạ oi bức sinh ra đủ mọi thứ bệnh cho con người, cơn trùng sâu bọ sinh sôi nảy nở nên dân gian tổ chức cúng lễ gọi là “lễ giết sâu bọ” để cầu sự bình yên và cũng để cầu cho mưa hòa gió thuận để nhà nông bắt đầu gieo cấy mùa vụ mới.
Tết Đoan Ngọ ngày mồng 5 tháng 5 hàng năm theo tục lệ cổ truyền được dân gian mừng đón như một lễ hội truyền thống tế lễ để tạ ơn trời đất sau khi thu hoạch vụ lúa Chiêm. Vào dịp này dân gian cũng không quên các ân nhân nên gia đình nào cũng đi tết thầy, tết các ông lang đã chữa trị bệnh tật cho gia đình theo đúng truyền thống lễ nghĩa thấm đậm tình người, bản sắc nhân văn cao đẹp của người Việt.
Vào ngày này, trai thanh gái lịch lo sắm sửa chưng diện đi dự lễ hội với đủ mọi trò chơi dân gian. Các thiếu nữ thời xưa đã biết dùng lá xả còn gọi là lá lan để nấu nước gội đầu, tắm rửa cho thân thể thơm tho rồi chưng diện quần là áo lượt đi vui chơi “đố lá” với bạn bè trang lứa. Đố lá là trò chơi trai gái dùng lá để ví von tình cảm của nhau, thách đố nhau để tìm bạn lòng mà thi hào Nguyễn Du đã nhắc tới Tết Đoan Ngọ qua 2 câu lục bát dân gian: “May thay giải cấu tương phùng, Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa ..”. Các cụ già thì thưởng thức rượu Xương Bồ là một thứ rượu bổ dân gian để mừng Tết, vui hưởng thú thanh cao tao nhã với bạn già như thi hào Nguyễn Trãi viết: “Giữa trưa ngày Tết lúc cùng vui, Rượu mới Xương Bồ uống Tết chơi”.
Trong khi đó, các bà mẹ Việt Nam gọi ngày Tết Đoan Ngọ là ngày “giết sâu bọ” nên cho con cái ăn cơm nếp rượu, để tống xuất sán lãi ra khỏi cái bụng ỏng của con cái. Các bà mẹ còn tin rằng nếu bắt con thạch sùng (Thằn lằn), bỏ vào nước phơi nắng rồi rửa mặt cho con trẻ thì mai sau con trẻ sẽ sáng sủa thông minh hơn. Họ còn lấy một vài loại thuốc Nam phơi khô để uống thay trà, có tác dụng trị bệnh và tiêu thực tốt. Một số nơi còn lấy bện hình con giáp năm đó để phơi khô lên trần nhà dùng làm thuốc quanh năm.
Đối với dân gian thì Tết Đoan Ngọ là tết giữa năm, lúc giao mùa bệnh tật phát sinh nên nhà nào cũng đi hái lá thuốc Nam vào giữa trưa giờ ngọ rồi phơi khô dùng cả năm. Ngoài ý nghĩa tết Đoan Ngọ, tết Cầu may mắn, nhân dịp này dân gian tưởng nhớ danh nhân Khuất Nguyên của Việt tộc nên ngày Đoan Ngọ là ngày giỗ của Đại Thi Hào Khuất Nguyên, một kẻ sĩ bất phùng thời, yêu nước thương dân mà bất lực, không cứu được nước đành gieo mình xuống dòng sông Mịch La mà chết cùng nước Sở (còn gọi là Sở-Việt).
Sử gia Tư Mã Thiên trong tác phẩm Sử Ký đã viết về Khuất Nguyên như sau:
“Khuất Nguyên tên là Bình, cùng họ với vua Sở, Tả Đồ của Sở Hoài Vương. Ông là người học rộng nhớ dai, am tường lẽ quốc gia trị loạn và rất giỏi về từ lệnh. Ở triều đình thì ông bàn tính việc nước với vua để ban hành các hiệu lệnh, ngoài chốn triều đình thì ông tiếp đãi tân khách và ứng đối chư hầu. Vua Sở rất tín nhiệm ông. Ngang hàng với ông có quan Thượng Đại Phu tên là Cận Thượng cũng muốn được vua tin yêu và ngấm ngầm ganh tị, có ý muốn làm giảm giá tài năng của ông. Hoài Vương giao cho ông công việc dự thảo các điều luật, có lần bản thảo viết chưa xong hẳn thì Thượng quan Đại phu trông thấy và muốn chiếm đoạt nhưng ông không chịu. Vì chuyện này mà Thượng quan Đại phu gièm với vua rằng: “Bệ hạ sai Khuất Bình thảo Hiến lệnh, điều đó chẳng ai mà không biết. Mỗi khi một sắc lệnh ban hành là Bình khoe công bảo “Không có ta thì không ai làm nổi”.
Nghe xong vua tức giận, xa dần và bãi chức Khuất Bình. Khuất Bình đau lòng về nỗi vua thiếu sáng suốt, bị lời gièm pha làm lú lấp để cho bọn gian tà làm hại việc công, lời ngay thẳng không được dung nạp. Cho nên ông sinh buồn phiền, gửi gấm tâm sự trong tập Li Tao nói lên niềm xót xa vì những việc bất như ý mà mình gặp phải. Sau khi bị vua Sở bạc đãi đày ải nơi thâm sơn cùng cốc, ông đã đi ngao du sơn thủy tìm hoa thơm cỏ lạ, những vị thuốc Nam để trị bệnh cho nhân dân.
Tương truyền Khuất Nguyên đi tới bên sông, xoả tóc, ngâm thơ, lang thang dọc theo các đầm nước, mặt mày tiều tuỵ, hình dung khô đét. Một ông lão đánh cá gặp ông hỏi rằng: “Ông không phải là quan Tam Lư Đại phu ư? Cớ sao lại đến chốn này? Khuất Nguyên đáp: “Đời đục mình ta trong, đời say mình ta tỉnh cho nên ta bị ruồng bỏ”. Lão chài nói: “Đã là bậc Thánh nhân thì chẳng để cho ngoại vật cản ngăn, ràng buộc mà có thể cùng thời thế mà đổi thay. Đời đục ư? Sao ta chẳng theo dòng mà khuấy sóng? Đời say ư? Sao ta chẳng húp rượu nhạt và nuốt hèm? Can chi mà khư khư giắt viên Ngọc Cận, nắm viên Ngọc Du để cho đời ruồng bỏ?!” Khuất Nguyên nói: “Tôi nghe nói, mới gội đầu ắt là phải sửa lại mũ cho ngay ngắn. Mới tắm rửa thì ắt là phải xốc lại áo cho chỉnh tề. Phàm là người có ai lại chịu để cho tấm thân trong sạch vấy bẩn dây nhơ? Chẳng thà nhảy quách xuống sông mà gởi mình nơi bụng cá cho rồi, chứ sao lại đành tâm để cho cái trắng phau kia bị đời làm cho lem luốc?”.
Ông bèn làm bài phú “Hoài Sa” lời văn có đoạn như trên rồi ôm một tảng đá, nhảy xuống sông Mịch La mà tự trầm vào đúng ngày mồng 5 tháng 5 trong nỗi u uất vì “Chí ông sạch, nết ông thẳng, lòng ông thanh cao” đã không cứu được nước nhà vì vua Sở bất tài, lại ưa nghe lời xiểm nịnh của gian thần. Dân gian, mến mộ ông nên đến dịp tết Đoan Ngọ đều tổ chức đua thuyền để tưởng nhớ đến Khuất Nguyên”.
Sách “Tuỳ Thư Địa Lý Chí” viết về cái chết của Khuất Nguyên và nguyên uỷ của tục đua thuyền. Dân gian khắp nơi kéo về tham dự lễ hội đua thuyền mang đậm đà bản sắc của truyền thống con Rồng cháu Tiên. Trên những con thuyền độc mộc mũi cong vút, đuôi én, thân thuyền thon dài trên có người đứng hò bắt nhịp. Thanh niên nam nữ cứ 50 người ngồi trên một thuyền, tất cả đều hóa trang thành chim, đầu dắt lông chim như mẹ Âu, tay cầm vũ khí hoặc dầm bơi tham dự cuộc đua theo hiệu lệnh của tiếng Cồng. Con số 50 thanh niên hoặc 50 thiếu nữ ngồi chung một thuyền như nhắc nhở mọi người về huyền thoại Rồng Tiên với sự tích 50 con theo mẹ Âu lên miền cao nguyên, 50 con theo Bố Lạc xuống miền sông nước … Đặc biệt trong lúc đua thuyền người ta hát vang những bài hát, những điệu hò tràn đầy tự tình dân tộc, kích động lòng ái quốc.
Sách “Tùy Thư Địa lý Chí” chép: “Không hiểu tục thi bơi thuyền có tự lúc nào, nhưng về sau nó kéo theo lễ kỷ niệm Khuất Nguyên trầm mình dưới sông Mịch La. Khuất Nguyên người nước Sở nên dân gian có tục bắt một người Hán để đến ngày đua thuyền đem ra “Tế” để báo thù cho Khuất Nguyên… Đây là tục lệ nguy hiểm cho Hán tộc nhất là những người có bộ râu dài đẹp. Dân Nam man bắt cóc họ về nuôi nấng đàng hoàng để đến ngày “Trùng Ngũ” mồng 5 tháng 5 đưa ra dìm sông tế Khuất Nguyên. Vì thế, tết này bị vương triều Hán cấm đoán triệt để. Về sau có nhiều biến đổi, nhiều hiện tượng dị đoan len lỏi vào như việc thả cơm cháo xuống nuôi hồn Khuất Nguyên …”.
Thực ra, Cửu ca là khúc Nhạc chương tôn giáo của người nước Sở đã có từ lâu mà Khuất Nguyên chỉ là người hoàn chỉnh áng văn chương kim cổ này. Ngày nay các học gỉa Đài Loan, Nhật Bản kể cả Trung Quốc đều xác nhận Cửu ca là của người nước Sở và các di chỉ khảo cổ cũng xác nhận Việt tộc đã có văn tự từ lâu ngay trước cả Hán tộc.
Lễ hội đua thuyền trong dịp tết Đoan Ngọ là sinh hoạt văn hóa truyền thống của Việt tộc để tưởng nhớ về nguồn cội, đồng thời mừng mùa nước tới cần thiết cho cư dân nông nghiệp. Nhân dịp này, dân gian còn luyện tập vũ bộ, kỹ thuật chiến đấu trên sông nước cũng như kỹ thuật đi biển như lời Việt Vương Câu Tiễn nói trong “Việt thư”: “Người Việt đi trên nước mà ở trên núi, lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa. Đi như gió thổi mà về thì khó theo. Đã đánh thì quyết đánh không sợ chết. Ấy là thường tánh của người Việt”. Ngày nay dân gian một số nơi ở thành thị và nhất là ở nông thôn còn tổ chức lễ hội tết Đoan Ngọ vào ngày mồng 5 tháng 5 nhưng ý nghĩa của Tết Đoan Ngọ vẫn sống mãi trong tâm thức Việt.
Thi sĩ Lý Bạch đã không tiếc lời ca tụng Khuất Nguyên “ Thơ Khuất Nguyên còn sáng mãi như trời trăng nhật nguyệt, vận mệnh nước Sở tiêu tan bên trời xanh cỏ…” để rồi đến ngày nay, tâm trạng của Khuất Nguyên cũng là ưu tư thao thức của các sĩ phu thời đại về vận nước nổi trôi. Tâm trạng ưu tư “Nước Mất Nhà Tan” này đã được thi sĩ Trần Mạnh Hảo gửi gấm qua những vần thơ:
Tóc bạc cả nồi cơm
Ta biết làm gì với chòm râu rơm rác
Với vòm trời úp xuống như nơm
Cây ngô đồng bạn ta mùa thu ăn gần hết
Nước Sở ơi
Đừng bắt ta nhìn người lịm chết
Hạc bỏ trời
Tùng bách cũng mồ côi
Cả một triều đình bị điếc
Tai Sở vương làm thối lưỡi ta rồi
Sao chuột không khoét mắt ta đi ?
Đời ngủ cả chỉ thức toàn mắt lá
Ta đang nhìn thấy gì ?
Vua tin dùng chó má
Hoạn quan đi đầy đường
Hiền nhân vào ngục đá
Sao loài lươn không vấy bùn vào hồn ta ?
Đời đục cả chỉ còn trong nước lã
Hay ta mặc áo giấy vào đi theo ma ?
Cái xứ sở toàn đeo mặt nạ
Con cáo ngồi thương đứt ruột con gà
Hỡi xác chết trôi làm thuyền cho quạ
Tro trấu nào trang điểm mặt mày ta ?
Ta thương triều đình trong tay nghịch đảng
Thuyền độc mộc quốc gia bơi một mái chèo
Mái chèo mang hình lưỡi kẻ nịnh hót
Chó kiêu ngạo nhảy chồm lên bàn độc
Muốn yên thân phải sống thật đói nghèo
Con bò thông minh hơn nhà bác học
Thơ phú nào cũng rặt bọn ăn theo…
Sở từ, Sở từ
Khúc Ly Tao hát đứt cổ
Thơ viết rụng từng đốt tay
Ôi nước Sở
Sao chỉ toàn mật vụ với ăn mày?
Muốn nghĩ một điều gì lại sợ
Đêm nhìn lên trời cũng nổi da gà …
Chừng như gió cầm tù hai ốc tai ta
Khi hôn quân còn vờ làm minh chúa
Thì đất này còn lắm khúc Mịch La
Như vệt nhăn trên vầng trán nước Sở
Nghe sông nấc tiếng tù và
Xin vĩnh biệt mặt trời đoan ngọ
Sao kiếp người lại buồn hơn kiếp ma?
Ta gửi lại một vòm trời hình sọ
Để trầm mình trong chính khúc thơ ta!!!
“Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài tạ không sơn khâu”
(Giang thượng ngâm- Lý Bạch )
Phạm Trần Anh