Phan Bội Châu biệt hiệu Sào Nam, quê ở làng Đan Nhiệm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, sinh năm 1867 mất năm 1940.
Thuở nhỏ ông theo học chữ Hán, rất thông minh, mới tám tuổi đã làm được những bài văn ngắn và đậu đầu một số kỳ thi ở phủ, huyện. Mười ba tuổi thành thạo các thể văn cử tử. Năm ba mươi tư tuổi, ông đỗ Giải nguyên, nổi tiếng là hay chữ.
Ông hoạt động cách mạng từ rất sớm, từng xuất dương qua Trung Quốc, Nhật Bản để lo liệu cho công cuộc cách mạng ở trong nước. Về sau, ông bị Pháp bắt cóc rồi bị giam lỏng tại Huế cho đến lúc mất.
Trong quãng đời hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu đã từng viết rất nhiều thơ văn yêu nước để cổ động phong trào cách mạng và vạch trần tội ác của thực dân Pháp.
Lúc thiếu thời, ông vốn rất ghét cái học cử nghiệp, ông vẫn thường ngâm hai câu thơ trong sách Tùy Viên:
Túc dạ bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
Nghĩa là:
Khuya sớm những mong ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy văn chương.
Thế nhưng ông vẫn phải buộc lòng mà theo con đường khoa cử, để kiếm chút danh vọng cho dễ ăn nói với đời và dễ đi hoạt động.
Nghe đâu, ông tuy học giỏi nhưng đi thi thì lại rất long đong. Phải sáu lần thi Hương mới được treo tên trên bảng. Chính vì vậy, nên dối với những người cùng cảnh ông rất thông cảm. Người đời còn truyền lại câu chuyện tặng thơ như sau:
Bấy giờ có nhà nho Trần Quý Cáp quê ở Quảng Nam, nhà nghèo học giỏi, mà thi cử hỏng hoài. Cáp thi bốn khoa mới đỗ Tú tài. Khoa Quý Mão (Thành Thái 1903) Cáp vào trường nhất, trường nhì đều ưu cả nhưng đến trường ba thì trượt. Lúc đó Phan Bội Châu đã đậu Thủ khoa rồi, đang đàng hoàng ngồi làm bài ở trường Giám trong kinh. Thấy cảnh ngộ của Cáp cũng long đong về đường khoa cử như mình trước kia, Phan Bội Châu bèn tìm đến thăm. Trong lúc đàm đạo, nhân biết Cáp cũng là người khảng khái, có lòng với nước với dân, nên Phan Bội Châu có làm tặng Cáp một bài thơ chữ Hán, tạm dịch như sau:
Tớ trước như người lệ nhỏ đầy
Người nay gặp tớ gượng tươi mày
Bọn ta say tỉnh hai tròng mắt
Cờ thế hơn thua một cuộc xây
Trời đất có lòng nuôi sức khỏe
Non sông không nói mỉa người ngây
Thôi đành rót rượu cùng trăng uống
Mai trổ rừng đông lọ biết ai?
Cáp đọc thơ rất cảm thái, sau đó hai người thanh đôi bạn chí thiết…
Tương truyền, Phan Bội Châu hồi còn trai trẻ, có lần sang làng Xuân Hồ hát phường vải, bị bên gái hỏi như sau:
Sách rằng Nghiêu hữu cửu nam
Biết Đan Chu là một, hỏi tám chàng tên chi?
Phan vò đầu gãi tai mãi mà không biết trả lời ra sao, vì khi học Bắc sử chỉ thấy sách chép vua Nghiêu có chín con trai, người đầu là Đan Chu, chứ tám người kia có thấy ghi tên đâu. Sau bí quá, Phan đành phải đánh trống lảng bằng cách láu lỉnh vặn lại rằng:
Các em là phận nữ nhi
Một Đan Chu cũng đủ, hỏi mần chi những tám người?
Thế là Phan đã chuyển bại thành thắng, chẳng những gỡ được thế bí mà còn quay lại tấn công nữa, làm cho cô nào cô nấy thẹn chín người. Và rồi lại đến lượt các cô đâm ra lúng túng không tìm được câu trả lời.
(Theo Văn thơ Phan Bội Châu)