KHÁI NIỆM VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Khảo cứu văn học, tức văn khảo, có ba ngành chính: văn học sử, lý thuyết văn học, lý luận và phê bình văn học.[1] Trong khi đối tượng của văn học sử là nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của nền văn học, phê bình văn học nhằm phê phán, thẩm định, đánh giá các tác phẩm và hiện tượng văn học, còn lý thuyết và lý luận văn học tìm hiểu và đặt nền tảng cho văn học, là phương tiện nhận thức, giữ vai trò chỉ đạo trong lãnh vực văn học. Các nhà biên khảo sử dụng lý thuyết văn học trong việc nghiên cứu và biên soạn văn học sử, còn các nhà phê bình thì dùng lý thuyết văn học trong việc phê bình các tác phẩm. Có văn học thì có phê bình, muốn phê bình với cơ sở vững chắc phải cần có lý thuyết và lý luận văn học. Thiếu lý thuyết và lý luận thì phê bình không đi xa hơn sự cảm nhận đơn giản trực tiếp, không đạt tới những phán đoán sâu sắc. Như thế, Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân là một tác phẩm thuộc về phê bình văn học, măc dù tác giả không muốn phê mà chỉ muốn bình. Riêng Văn Luận của Lưu Nguyễn Đạt là một tác phẩm ứng dụng lý thuyết và phân tích văn bản để tạo cơ sở cho việc lý luận văn học. [2] Thiếu sử văn học thì không có khái niệm rõ ràng về văn bản, tác giả, hoàn cảnh, thời đại đưa đến sự thiếu hiểu biết để cảm thụ. Vì vậy, văn học sử, lý thuyết văn học, phê bình, lý luận văn học không thể tách rời nhau. Không có lịch sử văn học thì không có lý thuyết văn học, phê bình và lý thuyết văn học. Văn học sử có trước, sau đó, với sự phát triển của văn học, mới có phê bình và lý luận văn học, và cuối cùng, lý thuyết văn học ra đời để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu sử văn học và tạo cơ sở cho việc phê bình.
Quan niệm cho rằng nhà phê bình là người không có khả năng sáng tác và sống tầm gửi vào tác phẩm người khác, đã được phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 19 và cho đến nay vẫn còn một số người mang thiên kiến chống đối này. Northrop Frye bác bỏ luận cứ lệch lạc đó trong tác phẩm Anatomy of Criticism (Giải Phẫu Phê Bình).[3]
Tác phẩm văn học sở dĩ tồn tại là nhờ sự tiếp nhận. Phê bình là một hình thái tiếp nhận, do đó nó là hình thức tồn tại của tác phẩm văn học. Văn học không chỉ tồn tại bằng văn bản, mà còn tồn tại trong sự tiếp nhận và phê bình. Chính các hoạt động phê bình ảnh hưởng đến số phận thăng trầm của tác phẩm trong lịch sử văn học. Nhờ phê bình, văn học được khám phá ngày một sâu rộng, phong phú và mới mẻ hơn.[4]
ĐỊNH NGHĨA PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Nghĩa chữ Hán, Phê là bày tỏ cho biết, Bình là luận về một điều, một đề tài nào đó. Phê Bình là phân tích, lượng giá, phán đoán, bày tỏ quan điểm tốt xấu, hay dở, đúng sai của một vấn đề. Phê Bình Văn Học là hoạt động nghiên cứu, phán đoán, thẩm định giá trị của một hiện tượng văn học cụ thể bao gồm tác phẩm, tác giả, tiếp nhận. Phê bình văn học có nhiệm vụ vạch ra ưu khuyết điểm của tác phẩm, những điểm tương đồng và khác biệt so với các tác phẩm đồng thời hoặc trong quá khứ, xác định vị trí của tác phẩm, tác giả trong một giai đoạn, một thời kỳ văn học. Phê bình văn học cũng còn có mục đích phát hiện và thẩm định sự hình thành, tiến triển, suy thoái của một xu hướng hoặc trào lưu văn học. Như thế, các tác phẩm khảo cứu về tác phẩm, tác giả, xu hướng, trào lưu văn học phải được coi là những tác phẩm thuộc về phê bình văn học.[5] Các công trình nghiên cứu về Chinh Phụ Ngâm, Nguyễn Du và Truyện Kiều, thơ chữ Nôm và chữ Hán của Cao Bá Quát, Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong Tạp Chí, nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhóm Hàn Thuyên, Tri Tân, Thanh Nghị, nhóm Sáng Tạo, v.v. đều thuộc phạm vi phê bình. Tuy nhiên, trên thực tế đa số các hoạt động của phê bình văn học thường nhắm vào các tác phẩm và tác giả đương thời, vào những hiện tượng văn học có tác động trực tiếp đến tiến trình văn học hiện đại.
PHẠM VI CỦA PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Phạm vi của phê bình văn học rất rộng lớn, bao gồm phê bình của độc giả, phê bình của báo chí truyền thông, phê bình tài tử và phê bình khoa học. Đây là sự phân loại các bộ phận của phê bình, không phải là sự phân loại các nhà phê bình hay các thể loại của phê bình.
Phê Bình Của Độc Giả
Hình thức đầu tiên của phê bình độc giả là những ý kiến khen chê của người đọc được phát biểu qua cửa miệng tại các nơi gặp gỡ văn nghệ, trà đàm. Phê phán của những phụ nữ quí tộc tại các Salon Littéraire[6] ở Pháp thế kỷ thứ 17 là điển hình cho lối phê bình của độc giả trước khi có sự hiện diện của báo chí.
Phê Bình Của Báo Chí Truyền Thông
Khi báo chí xuất hiện, phê bình độc giả được phát triển dưới nhiều hình thức như điểm sách, phỏng vấn, tranh luận. Loại phê bình này trở thành một thế lực tạo dư luận, đánh giá tác phẩm. Báo chí đưa các cuộc trao đổi đến các cuộc bút chiến .[7] Tuy các cuộc tranh luận văn học gây được sư chú ý, nhưng không giải quyết được vấn đề. Với sự phát triển của văn minh kỹ thuật, ngày nay chúng ta phải kể thêm truyền thanh, truyền hình và các mạng lưới trên Internet. Phê bình của báo chí, truyền thanh, truyền hình chỉ nhằm vào các tác phẩm hiện đại. Các bài viết mang tính thời gian, dính liền với hiện tại và qua đi như dòng chảy hàng ngày của truyền thông. Tuy vậy, những hoạt động này rất quan trọng vì nó nối liền độc giả với tác phẩm. Muốn tìm hiểu đời sống văn học thực tế của một thời, bắt buộc người ta phải tìm đến phê bình của báo chí truyền thông thời đó. Tóm lại, loại phê bình này có tính cách nhanh và sinh động, nhưng thường chỉ là ý kiến phiến diện, một đôi khi có nhận xét sắc bén, hoặc nêu lên được khía cạnh mới lạ, nhưng không chứa đựng phân tích, lý giải xác đáng.
Phê Bình Tài Tử
Tuy gọi là phê bình tài tử nhưng là những bài phê bình của các cây bút danh tiếng, các nhà văn, nhà thơ lớn trong văn giới như Balzac, Hugo, Baudelaire, Goethe, Hemingway, Lỗ Tấn, Phạm Quỳnh, Nguyễn Tuân…Có nhiều người chỉ có thể viết được loại phê bình báo chí, do đó phải thực sự là nhà văn, nhà thơ thuộc loại bậc thầy mới có chỗ đứng trong loại phê bình tài tử. Tuy nhiên, cũng có nhà văn vừa thuộc loại phê bình báo chí, vừa thuộc loại phê bình tài tử. Phan Khôi, Phan Kế Bính, Xuân Diệu… nằm trong số những người này. Các nhà văn nổi tiếng thường viết về các tác giả mà họ tâm đắc, khi đề cập đến tác phẩm thì thườngï chú trọng đến những điểm họ ưa thích như tư tưởng sâu sắc, mới lạ, cách sử dụng ngôn ngữ tài tình, cô đọng, có duyên, hoặc văn phong chua cay, khinh bạc, độc đáo… Tóm lại, loại phê bình tài tử nặng về chi tiết và cảm quan riêng của từng nhà văn, nhà thơ với đối tượng phê bình nhưng lại không có cơ sở lý luận khoa học.
Phê Bình Khoa Học
Đây là loại phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.[8] Nhiều người không thích loại phê bình này vì cho là khô khan, thiếu văn vẻ, dùng nhiều từ ngữ khó hiểu, lập dị. Tuy nhiên, loại phê bình khoa học có một địa vị rất quan trọng, nó tạo cho toàn bộ văn học trong quá khứ mang tính hiện đại. Nó giúp các nhà biên soạn văn học sử trong việc xắp xếp và đặt định vị trí, chỗ đứng của các tác gia trong lịch sử văn học. Chính vì thế mà những nhà phê bình khoa học được ban cho danh vị Ngự Sử Văn Đàn. Phê bình khoa học khai tử các quan niệm cho rằng không cần đến phương pháp hoặc chỉ có một phương pháp phê bình. Hơn nữa, phê bình khoa học tạo đối thoại văn hóa giữa thời đại bây giờ và thời đại đã qua, và với nền văn hóa khác. Nhà phê bình khoa học nhờ kiến thức am hiểu tác phẩm, tác giả, thời đại, và sử dụng phương pháp phân tích, lý luận khoa học nên lượng giá chính xác tác phẩm một cách toàn diện và triệt để, giúp người đọc thưởng thức tác phẩm một cách thấu đáo và trọn vẹn. Đối tượng nghiên cứu của phê bình khoa học là tác phẩm văn học, do đó, nhà phê bình không cần phải biểu dương vẻ đẹp của văn chương với chính đối tượng của họ.[9]
Muốn nghiên cứu toàn diện về tác phẩm, tác giả, trào lưu văn học, nhà khảo cứu cần phải sưu tập đầy đủ bốn loại phê bình văn học nêu trên theo từng năm, từng thời kỳ. Đây là một công trình sưu tầm đòi hỏi nhiều thời giờ dễ bị chìm ngập trong các bài viết rải rác trên báo chí, tạp san văn học.
CÁC THỂ LOẠI CỦA PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Phê bình văn học có những thể loại riêng của nó, gồm có:
– Thể loại Bút Chiến (hay Tranh Luận Văn Học): giá trị của các cuộc bút chiến nằm ở đề tài đưa ra tranh luận có thiết yếu cho văn học hay không?
– Thể loại Phê Bình Tác Gia (hay Phê Bình Nhân Vật): vẽ chân dung nhà văn, nhà thơ với mục đích mô tả cái hồn của tác giả.
– Thể loại Danh Nhân Truyện Ký: viết về thân thế, sự nghiệp cùng cá tính của tác gia để từ đó giải thích đặc điểm thơ văn của nhà ấy.
– Thể loại Chuyên Đề: dùng phương pháp của lý luận văn học để khảo sát một tác phẩm hay một tác gia, hoặc cả hai.
– Thể loại Bình Chú Thơ Văn: tập hợp tác phẩm, chú thích và thêm lời bình.
CÁC THỜI KỲ CỦA PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM
Quá trình phê bình văn học ở Việt Nam không thể độc lập với tiến trình phát triển của nền văn học nước ta, do đó việc phân chia thời kỳ cũng phải tương ứng với các giai đoạn của lịch sử văn học. Thời kỳ đầu (1913-1932) là thời kỳ hình thành ngành phê bình văn học lúc còn phôi thai. Thời kỳ tiếp theo (1932-1945) ngành phê bình bộc phát, tiến một bước nhanh và dài bằng đôi hia bảy dậm nhưng ngừng lại ở mốc 1945, là thời điểm đánh dấu khúc quanh quan trọng của lịch sử đã ảnh hưởng nặng nề và sâu xa đến văn học. Thời kỳ thứ ba (1945-1975) chiến tranh Việt Nam đưa đến hai ngành phê bình Nam, Bắc khác nhau. Thời kỳ hiện đại (1975-hiện nay), tuy biến cố 30/04/1975 đem lại sự thống nhất cho đất nước nhưng chúng ta vẫn có 2 ngành phê bình, một ở trong nước và một ở hải ngoại.
Thời Kỳ 1913-1932
Lịch sử phê bình văn học Việt Nam có thể nói bắt đầu từ Đông Dương Tạp Chí (1913) với mục Phê Bình Sách Mới, và Nam Phong Tạp Chí (1917) với những bài phê bình theo lối mới của Thái Tây. Thời kỳ này xuất hiện các tác phẩm phê bình nhưng các công trình đều rất sơ lược, phương thức nhận định còn giữ lối bình thơ văn cổ ngày trước.[10] Thời kỳ này chúng ta chưa có các nhà phê bình khoa học, các hoạt động phê bình còn trong khôn khổ khảo cứu, phiên dịch, giới thiệu, gồm có các tác giả: Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Tản Đàø,[11] Nguyễn Văn Ngọc,[12] Trần Trung Viên, Vũ Đình Long,[13] Nguyễn Tường Tam,[14] Ngô Đức Kế,[15] Nguyễn Đôn Phục,[16] Phan Khôi, Lê Thước,[17] Võ Liêm Sơn.[18] Trong số những tác giả trên, Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Phan Kế Bính và Võ Liêm Sơn vừa là phê bình vừa là nhà lý luận văn học của giai đoạn này.
Phan Kế Bính[19] là tác gia viết về phê bình văn học đầu tiên. Tác phẩm Việt Hán Văn Khảo của ông được viết theo quan niệm văn chương cổ nhưng súc tích và ngắn gọn, lúc đầu là những bài viết trên Đông Dương Tạp Chí, sau do Trung Bắc Tân Văn xuất bản năm 1930. Tác phẩm chủ yếu nói về thể cách văn chương và phép làm văn. Có thể nói tác phẩm này đã mở đầu cho khuynh hướng tìm về thơ văn cổ của ta sau này.
Phan Khôi,[20] với Chương Dân Thi Thoại, bình thơ theo phương pháp cổ điển. Sau khi cho biết lai lịch, thơ được bình theo lối thưởng ngoạn kiểu thi thoại của Trung Hoa.
Phạm Quỳnh,[21] với công trình nghiên cứu có phương pháp về Truyện Kiều, đã đem nguồn gốc tác phẩm, lịch sử tác giả, tâm lý nhân vật và văn chương của tác phẩm vào lãnh vực phê bình,[22] khởi đầu hướng đi cho ngành phê bình hiện đại.
Kết Luận Về Thời Kỳ 1913-1932
Thời kỳ này là giai đoạn chuyển mình của ngành phê bình văn học. Từ 1913 với Đông Dương Tạp Chí, và 1917 với Nam Phong Tạp Chí, có hai khuynh hướng trong thời kỳ này. Thứ nhất là khuynh hướng tìm lại những giá trị cũ của văn hóa dân tộc trong đó có Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc, Lê Thành Ý, Dương Quảng Hàm, Lê Thước, Trần Trung Viên, Bùi Kỷ. Thứ hai là khuynh hướng giới thiệu tư tưởng, học thuật của Tây phương, tiêu biểu có Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Tuy trong thời kỳ này chưa xuất hiện những nhà phê bình văn học chuyên nghiệp, nhưng hai khuynh hướng trên đã đặt nền móng, góp phần tích cực cho sự đổi mới của ngành phê bình văn học ở giai đoạn sau.
Điều đáng được ghi nhận là trong thời kỳ này Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong đã tạo được phong trào rầm rộ về Truyện Kiều từ 1923-1924, và gây nên cuộc tranh luận văn học sôi nổi đầu tiên ở nuớc ta trong khoảng thời gian từ 1919 đến 1924.[23]
Thời Kỳ 1932-1945
Phong trào phê bình nở rộ trong báo giới trong khoảng 1934-1935.[24] Nhưng đây chỉ là một hiện tượng nhất thời vì nhiều người muốn thử một ngành mới của văn học. Phải từ 1935 trở đi chúng ta mới thấy xuất hiện những nhà phê bình chuyên nghiệp. Phần đầu của thời kỳ (1932-1939) xuất hiện những cuộc tranh luận sôi nổi trên báo chí, đặt ra nhiều vấn đề thiết yếu cho văn học. Không kể cuộc bút chiến về Nho Giáo giữa Trần Trọng Kim[25] và Phan Khôi, có 4 cuộc tranh luận văn học lớn là: luận về quốc học, thơ cũ thơ mới, duy tâm hay duy vật, nghệ thuật vị cái gì? Giai đoạn sau (1939-1945) chứa đựng những tác phẩm kết quả của các công trình quan trọïng trong lãnh vực phê bình.
Điều đáng kể là trong thời kỳ 1932-1945 các thể loại của ngành phê bình văn học được hình thành. Đã thấy xuất hiện những tác phẩm thuộc loại phê bình tác giả (phê bình nhân vật),[26] các tác phẩm về danh nhân truyện kýï,[27] sách chuyên đề về tác giả, tác phẩm,[28] và loại bình chú thơ văn.[29] Số người tham gia vào lãnh vực phê bình thật đông đảo, đáng kể có Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Hải Triều, Trương Chính, Đặng Thái Mai, Phan Khôi, Trần Thanh Mại, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế.
Phê Bình và Cảo Luận của Thiếu Sơn[30] là tác phẩm đầu tiên về phê bình văn học thuộc loại chân dung nhân vật. Trước đo,ù Lê Thước tuy viết về Nguyễn Công Trứ nhưng cái mới của Thiếu Sơn là viết về 9 nhân vật còn sống đồng thời với ông.
Trần Thanh Mại[31] là tác gia sử dụng phương pháp phê bình tiểu sử khách quan của Sainte- Beuve đầu tiên ở Việt Nam. Qua hai tác phẩm Trông Dòng Sông Vị (1935) và Hàn Mạc Tử, thân thế và thi văn (1941), ông đã phân tích cử chỉ, tính tình, giai thoại, các giai đoạn cuộc đời, và cả những chuyện nhỏ nhặt trong đời sống của nhà thơ để tìm hiểu thơ của họ.
Đào Duy Anh[32] trong Khảo Luận về Kim Vân Kiều (1943) đề cập đến các yếu tố về tác giả, thân thế, dòng họ, quê quán là những điều trước đó chưa được các nhà phê bình sử dụng để giải thích tác phẩm.
Hải Triều[33] là người đầu tiên cổ súy cho chủ nghĩa tả thực trong văn chương, được biết đến từ cuộc bút chiến Nghệ Thuật Vị Nghệ Thuật hay Vị Nhân Sinh. Ông đã sử dụng phương pháp lý luận duy vật sử quan để đưa ra quan điểm văn học Marxist.
Tuy ngành phê bình ở nước vào thời điểm này còn quá mới mẻ, nhưng Trương Tửu,[34] tức Nguyễn Bách Khoa, đã biết sử dụng các phương pháp khoa học tây phương để cắt nghĩa các hiện tượng văn học. Trong Nguyễn Du và Truyện Kiều (1943), Trương Tửu sử dụng phương pháp xã hội học và phân tâm học của Freud nghiên cứu huyết thống, đẳng cấp, cá tính, nhân sinh quan, di truyền về sinh lý, tâm lý của Nguyễn Du để giải thích tư tưởng yếm thế, thuyết nhân quả, thiên mệnh, tài mệnh tương đố trong truyện Kiều. Tuy nhiên, vì suy diễn theo chủ quan nên các tác phẩm phê bình của ông có ít giá trị khoa học.
Thi Nhân Việt Nam (1941) của Hoài Thanh[35] và Hoài Chân viết về 45 nhà thơ, là một tác phẩm phê bình bằng cảm quan, chú trọng đến thi cảm, âm điệu, đến hồn thơ của nhà thơ. Ông chủ trương chỉ viết về những cái hay, cái đẹp nên chỉ có khen, không chê. Không phân tích giải thích, ông phê bình thơ bằng trực giác, bằng sự nhạy cảm và bằng khiếu thẩm mỹ thưởng thức của ông.
Trong bộ Nhà Văn Hiện Đại (1940), Vũ Ngọc Phan[36] xét giá trị tác phẩm thuần túy về phương diện văn chương và về kỹ thuật làm văn. Ông sử dụng phương pháp cổ điển có tính cách thuần túy kỹ thuật, chú trọng vào việc phê phán câu văn viết đúng hay sai, sự quan sát của tác giả tinh vi hay hời hợt, cốt truyện hay hoặc dở, lối mô tả, tự sự, đối thoại, hoặc cách cấu kết khéo léo hay vụng về…Ông dùng những lời phê phán của các nhà phê bình nổi tiếng Tây phương để áp dụng vào những nhận xét của ông. Tóm lại, ông phê bình tác phẩm theo quy tắc ngữ văn hơn là một người đi tìm cái đẹp, khám phá các công trình sáng tạo. Tuy vậy, ông là nhà phê bình có ý thức vững chắc và trung thành với nhiệm vụ cùng phương pháp phê bình. Ông đã phê bình các sáng tác văn học đúng theo tiêu chuẩn của ông.
Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan cùng với Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân là hai phác họa rộng lớn và bao quát bức tranh văn học từ khi có chữ Quốc Ngữ tới đầu thập niên 1940. Đây là hai công trình quí giá cho những nhà nghiên cứu văn học, nhất là cho ngành phê bình văn họcViệt Nam.
Kết Luận Về Thời Kỳ 1932-1945
Trong giai đoạn này phê bình được mọi người đón nhận như một thể văn mới chưa từng có trong văn học Việt Nam. Đây là thời kỳ hình thành và bột phát của ngành phê bình văn học với sự xuất hiện các nhà phê bình chuyên nghiệp. Quan niệm văn học của ta từ trước 1932 vẫn còn là quan niệm văn tải đạo của Tống Nho, nhưng với sự thay đổi của tiểu thuyết và thơ mới, quan niệm cũ đã được thay thế. Văn học không còn được dùng để chuyên chở đạo lý hay là phương tiện giáo huấn nữa, văn học nay được hiểu như là một nghệ thuật ngôn từ. Chính sự thay đổi quan niệm văn học đã tạo nên sự chuyển mình cho cả thời kỳ văn học 1932-1945 mà phê bình văn học là một thành phần.
PHÊ BÌNH VĂN HỌC DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
GIAI ĐOẠN 1946 – 1987
Năm 1946 là thời điểm quan trọng, một khúc quanh trong lịch sử Việt Nam cận đại. Tiếp theo vụ Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương ngày 09/03/1945, những biến cố dồn dập kế tiếp xảy ra và sau khi hội nghị Fontainebleau tan rã, đã đưa đến chiến tranh Việt – Pháp kéo dài gần 8 năm từ 19/12/1946 đến khi hiệp định Genève được ký kết ngày 10/07/1954 giữa Pháp và Việt Minh chia đôi đất nước.
Với chính sách chuyên chế, trong thời kỳ chiến tranh 1946 – 1954, giai đoạn 1954 – 1975 ở miền Bắc, và sau khi thống nhất đất nước 1975 – 1987, văn hóa, văn học, văn nghệ, trong đó có ngành phê bình văn học hoàn toàn bị kiểm soát và chỉ đạo bởi đảng CSVN.[37] Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, giai đoạn này được nhà văn Nguyễn Minh Châu mô tả như một hành lang hẹp và thấp, xung quanh đầy những nghi ngờ, những lý luận và luật lệ văn học, trong đó nhà văn chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt đường lối, chính sách bằng hình tượng, tức là làm văn học minh họa… Những ai muốn sáng tạo, tìm tòi cái riêng thì cũng phải rào đón, che chắn, có cảm giác phạm tội. Kẻ làm văn học minh họa đã đánh mất cái đầu và tác phẩm, đánh mất tính tư tưởng mới mẻ, độc đáo hoặc chỉ còn cái đầu và tư tưởng được bao cấp![38] Phê bình văn học trong giai đoạn này chỉ có một bên phê phán, một bên hứng chịu, không có sự hiện diện của tranh luận văn học. Từ 1987 đến nay, do đường lối đổi mới gọi là cởi trói văn nghệ,[39] sinh hoạt phê bình văn học được nới lỏng một phần, nhưng ảnh hưởng của chính trị hóa văn học vẫn còn sâu đậm, cần một thời gian dài mới có hy vọng tẩy xóa được.
Đề Cương Văn Hóa[40] năm 1943 của Đảng Cộng Sản Đông Dương (Trường Chinh là tác giả), bản tuyên ngôn văn hóa Marxist ở VN, đã xác định quyền lãnh đạo toàn diện đối với văn hóa của đảng CSVN. Trường Chinh, Tố Hữu,[41] Hà Xuân Trường[42] là những cột trụ lãnh đạo, quản lý văn nghệ từ phía Đảng và Nhà Nước. Việc thành lập Hội Văn Hóa Cứu Quốc (tháng 04/1943), Hội Văn Nghệ Việt Nam (tháng 07/1948), và bài viết của Trường Chinh[43]với tựa đề: Mấy Nguyên Tắc Lớn Của Cuộc Vận Động Văn Hóa Mới Việt Nam Lúc Này[44] có thể coi là để cụ thể hóa nội dung của bản Đề Cương. Với Chủ Nghĩa Mác và Văn Hóa Việt Nam,[45] Trường Chinh trình bày lần đầu tiên hệ thống tư tưởng Marxist và đường lối văn hóa của Đảng Cộng Sản mà học thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch sử được dùng làm gốc về tư tưởng, và chủ nghĩa hiện thực xã hội là nền tảng cho việc sáng tác văn nghệ. Do đó, Việt Minh (giai đoạn 1946 – 1954), và đảng Lao Động Việt Nam (giai đoạn 1954 – 1975), đã kết hợp văn hóa, văn học, văn nghệ thành một mặt trận dưới sự hoạch định và chỉ đạo toàn diện của đảng CSVN nhằm phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Pháp và xâm chiếm miền Nam. Lý luận văn học Marxist và lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩa đã được truyền bá và sử dụng nhằm xây dựng một nền phê bình văn học theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đầu năm 1956 đến 1958 nhóm Nhân Văn Giai Phẩm với Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Trần Dần, Phùng Quán, Thụy An, Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Hoàng Cầm phản đối đường lối lãnh đạo chuyên chế của Đảng CSVN, đòi hỏi sự độc lập của văn nghệ, trả lại văn nghệ cho văn nghệ. Kết quả là báo bị đóng của vĩnh viễn và các thành viên của nhóm bị tù đày, sa thải, hạ tầng công tác, thuyên chuyển, và phải học tập cải tạo tư tưởng. Từ đó Bộ Chính Trị càng xiết chặt sự kiểm soát hơn nữa với đường lối lãnh đạo văn nghệ gồm 4 điểm:[46]
1. Văn nghệ sĩ phải thừa nhận rằng nghệ thuật phục tùng chính trị, phục tùng đường lối, chính sách của Đảng
2. Văn nghệ sĩ phải củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Marx[47] – Lenin [48]
3. Văn nghệ sĩ phải chống tư tưởng tư sản và tiểu tư sản
4. Văn nghệ sĩ phải chịu trách nhiệm về toàn bộ công tác của mình trước Đảng và phải phục tùng tổ chức của Đảng.
Các hoạt động phê bình văn học dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN trong giai đoạn này chỉ có công dụng xác định những thành tựu của văn học cách mạng vô sản. Một trong những nhiệm vụ chính yếu của phê bình văn học là nâng đỡ, bảo vệ văn học vô sản tức những sáng tác của giới nông, công, binh. Thi ca của bộ đội được ca tụng, còn thi ca tiểu tư sản bị phê phán qua Nói Chuyện Thơ Kháng Chiến của Hoài Thanh[49] và những bài bình Tiếng Thơ của Xuân Diệu.[50] Đến đầu thập niên 1960, phê bình ồn ào hơn nhưng không kém phần tẻ nhạt với những bài viết nịnh bợ, đề cao thơ Tố Hữu, các bài viết về những tác phẩm liên quan đến hợp tác xã nông nghiệp như Vụ Lúa Chiêm, Cái Sân Gạch của Đào Vũ, phê bình tiểu thuyết Vỡ Bờ của Nguyễn Đình Thi, Bão Biển của Chu Văn, Vùng Trời của Hữu Mai, Xung Đột của Nguyễn Khải, Hòn Đất, Sống như Anh, Bất Khuất của Nguyễn Thi, Dấu Chân Người Lính của Nguyễn Minh Châu, thơ của Lê Anh Xuân, truyện ngắn của Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng. Ngoài ra, các tác phẩm chứa đựng tư tưởng dù chỉ hơi lệch lạc, hoặc thiếu tính Đảng đều bị phê phán như: Con Nai Đen của Nguyễn Đình Thi, Mạch Nước Ngầm của Nguyên Ngọc, Những Người Thợ Mỏ của Võ Huy Tâm, Phá Vây của Phù Thăng, Mở Hầm của Nguyễn Dậu, Cái Gốc của Nguyễn Thành Long, Sương Tan của Hoàng Tiến, Vào Đời của Hà Minh Tuân, Đêm Đợi Tàu của Đỗ Phú, v.v.
Trong giai đoạn này xuất hiện một số các tiểu luận phê bình văn học gồm các tác phẩm: Phê Bình và Tiểu Luận (3 tập) của Hoài Thanh, Phê Bình Văn Học, Suy Nghĩ và Bình Luận của Chế Lan Viên, Mấy Vấn Đề Văn Học, Công Việc Của Người Viết Tiểu Thuyết của Nguyễn Đình Thi, Bình Luận Văn Học của Như Phong, Đường Vào Thơ của Lê Đình Kỵ, Văn và Người của Phong Lê, Từ Cuộc Đời Vào Tác Phẩm của Nhị Ca, Thời Đại mới, Văn Học Mới của Trịnh Xuân An, Cuộc Sống và Tiếng Nói Nghệ Thuật, Tác Phẩm và Chân Dung của Phan Cự Đệ, v.v.
Các nhà lý luận phê bình văn học trong giai đoạn này gồm các tác giả thuộc ba thế hệ. Thế hệ tiền chiến và kháng chiến có Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, Hoàng Trung Thông, Như Phong, Hà Xuân Trường, Vũ Khiêu, Lưu Quý Kỳ, Nam Mộc, Vũ Đức Phúc, Hoàng Trinh, Lê Xuân Vũ, Hồng Chương, Lê Đình Kỵ, v.v. Thế hệ trưởng thành sau 1954 có Phan Cự Đệ, Nguyễn Khải, Huỳnh Khái Vinh, Ngọc Trai, Nguyên Ngọc, Nhị Ca, Hà Minh Đức, v.v. Và thế hệ 1960/1970 như Đinh Xuân Dũng, Hồng Diệu, Lại Nguyên Ân, Lê Thành Nghị, Ngô Thảo, Thiếu Mai, Từ Sơn, Vương Trí Nhàn, Vũ Quần Phương, v.v.
KẾT LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN 1946 – 1987
Phê bình văn học trong suốt giai đoạn dài hơn 40 năm này mang tính cách máy móc, hạn hẹp, cứng ngắc và giáo điều. Việc sử dụng văn học phục vụ cho chính trị đưa đến sự độc tôn, độc đoán tạo nên những nhận thức đánh giá sơ lược, hời hợt, nhạt nhẽo. Từ đó sản xuất ra loại phê bình xã hội học, chỉ xét tác phẩm theo tư tưởng chính trị một cách dung tục. Việc tuyệt đối hóa chủ nghĩa hiện thực đem lại sự trói buộc trong sáng tác, nghèo nàn vì vắng bóng các phương pháp sáng tác của các chủ nghĩa khác. Dùng văn hoá làm công cụ cho chính trị, văn nghệ không được coi là một giá trị văn hóa, văn nghệ biến thành tuyên truyền, đánh mất đi tính thẩm mỹ và khả năng tác động của văn học nghệ thuật đối với chính trị. Đây là lối phê bình sử dụng suy diễn một chiều, quy chụp chính trị mù quáng với ngôn ngữ nịnh bợ, sùng bái cá nhân, gạt bỏ những phương pháp phân tích, lý luận khoa học. Điều đáng tiếc là sau thời kỳ đổi mới 1985 vẫn còn một số người sử dụng, đem ra nhai lại, cần thời gian lâu dài mới gột rửa hết được.
Tóm lại, phê bình văn học thời kỳ này tuy đạt được mục tiêu do Đảng CSVN đề ra, góp phần vào việc xác định thành tựu của nền văn học vô sản, nhưng sự thành công của Đảng CSVN cũng chính là bước thụt lùi của văn học, đã kìm hãm sức sáng tạo của văn nghệ sĩ và là một vết nhơ trong lịch sử văn học Việt Nam.
GIAI ĐOẠN 1987 – HIỆN TẠI
Trước viễn tượng sụp đổ của Nga Sô và các nuớc Cộng Sản Đông Âu, trước tình hình biến chuyển của thế giới, để tồn tại Đại Hội Đảng CSVN lần thứ VI phải đi đến quyết định đổi mới. Trong hai ngày 06 và 07/10/1987, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ thân mật với gần 100 văn nghệ sĩ đại diện cho các ngành sáng tạo, và sau đó, ngày 29/11/1987 Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSVN “cởi trói văn nghệ” bằng nghị quyết số 05 “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”. Nhờ thế, một luồng sinh khí mới được thổi vào nền văn học đang nghẹt thở, èo uột.
Trong giai đoạn này, việc tái lượng giá lại văn học giai đọan 1946 – 1987 được các nhà phê bình quan tâm và thực hiện gồm có các tác phẩm Bốn Mươi Năm Văn Học (nxb Văn Học, 1985), Một Thời Đại Văn Học Mới,[51] các cuộc hội thảo 50 Văn Học VN Sau Cách Mạng Tháng Tám,[52] Việt Nam Nửa Thế kỷ Văn Học,[53] Nhìn Lại Văn Học VN Thế Kỷ XX[54] là những nỗ lực tái đánh giá các thành tựu văn học của thời kỳ trước. Cùng với những công trình chung có những tác phẩm viết về từng tác giả như: Tố Hữu, Thơ và Cách Mạng (1996), Chế Lan Viên, Người Làm Vườn Vĩnh Cửu, Nguyễn Huy Tưởng, Một Sự Nghiệp Còn Dang Dở, Nguyễn Tuân, Người Đi Tìm Cái Đẹp, v.v. Ngoài ra, phải kể đến những tác phẩm nghiên cứu về Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Huy Cận, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khải, Tố Hữu, Trần Đăng Khoa, Xuân Diệu, v.v.
Một nhu cầu khác của phê bình văn học là công việc xét lại các thành tựu văn học tiền chiến đã bị đánh giá khắt khe, thiếu vô tư và công bằng nhằm phục vụ cho mục tiêu chính trịï trước đây. Công trình Nhìn Lại Một Cuộc Cách Mạng Trong Thi Ca (1963),[55] cuộc hội thảo về Thi Nhân Việt Nam,[56] các tác phẩm Con Mắt Thơ (1992) của Đỗ Lai Thúy, Thơ Mới, Bình Minh Thơ Việt Nam Hiện Đại (1994) của Nguyễn Quốc Túy, Tinh Hoa Thơ Mới, Thẩm Bình và Suy Ngẫm (1998) của Lê Bá Hán, Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn, v.v. đã góp phần vào việc trả lại giá trị đích thực cho Thơ Mới.
Các tác giả trong Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân (tiền chiến), Vũ Trọng Phụng, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trương Vĩnh Ký cũng được đem ra xét lại. Công lao mở đường, xây dựng nền móng và phát triển văn học chữ quốc ngữ của các nhà văn này được giới phê bình phục hồi. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá, Lại Nguyên Ân nhận định lại về những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng[57] mà trong giai đoạn trước từng bị lên án là đồi trụy và bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên và Cộng Sản Đệ Tứ của Trotsky.[58] Phan Cự Đệ, Vương Trí Nhàn, Ngọc Trai, Nguyễn Đăng Mạnh là những nhà biên khảo đã nghiên cứu công phu lại toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Tuân[59] thời tiền chiến từng bị đánh giá tiêu biểu văn chương cá nhân chủ nghĩa, ăn chơi vị kỷ. Về nhóm Tự Lực Văn Đoàn ngoài buổi hội thảo về Văn Chương Tự Lực Văn Đoàn[60] còn có các tác phẩm như Tự Lực Văn Đoàn, Con Người và Văn Chương (1990) của Phan Cự Đệ, Quan Niệm Con Người Trong Tiểu Thuyết Tự Lực Văn Đoàn (1996) của Lê Dục Tú. Ngoài ra, tác phẩm của Nguyễn Thành Thi nghiên cứu về Thạch Lam, Hà Minh Đức viết nhiều bài nhìn lại tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng, Vu Gia có nhiều công trình giá trị về Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo.
Tóm lại, văn học Việt Nam trước 1945 đã được các nhà nghiên cứu, phê bình duyệt xét lại, tuy chưa thực sự đầy đủ, nhưng cũng đã phục hồi được giá trị một số tác phẩm và trả lại chỗ đứng đích thực trong văn học sử cho các nhà văn tiền chiến.
Ngoài ra, việc phê bình một số tác phẩm mới trong thời kỳ này đã tạo nên những cuộc tranh luận văn học sôi nổi. Các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu như Bức Tranh, Bến Quê, Người Đàn Bà Trên Chuyến Tàu Tốc Hành vượt ra ngoài khuôn khổ phương pháp sáng tác hiện thực xã hội, tạo khó hiểu, bối rối cho những nhà phê bình có lối suy nghĩ cũ, còn mang tiêu chuẩn đánh giá của thời kỳ quản lý văn nghệ trước. Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng văn học mới lạ. Những truyện ngắn như Phẩm Tiết, Vàng Lửa, Không Có Vua, Cún, Những Bài Học Nông Thôn, Sang Sông… gây nên các cuộc tranh luận văn học hào hứng về văn phong, về cách đọc, về cách đánh giá Nguyễn Huy Thiệp.
Tưởng cũng nên đề cập đến trong thời kỳ này, từ 1988 xuất hiện phong trào thơ theo hướng hiện đại chủ nghĩa. Thơ Việt Nam mang tính hiện đại có thể kể Ngựa Biển, Người Đi Tìm Mặt của Hoàng Hưng, Ba Mươi Sáu Bài Tình, Bóng Chữ của Lê Đạt, Ô Mai của Đặng Đình Hưng , Sự Mất Ngủ của Lửa của Nguyễn Quang Thiều, Mưa Ban Mai của Nguyễn Quyến, v.v. Lời khen tiếng chê không ít, nhưng chưa thay đổi được quan niệm và tiêu chuẩn phê bình cổ điển về thi ca đã có.
Những hiện tượng văn học mới lạ và có thể nói là táo bạo về cả văn lẫn thơ trong thời kỳ này đã tạo nên sự phân hóa khá sâu sắc trong giới phê bình, nảy sinh ra nhiều khuynh hướng khác nhau dẫn đến một kỷ nguyên mới đa dạng cho ngành phê bình văn học Việt Nam thế kỷ 21.
Sự tham gia vào lãnh vực nghiên cứu phê bình văn học trong thời kỳ này thật đông đảo (khoảng 40 tác gia và 50 giáo sư Đại Học), tiêu biểu và đáng kể có Đỗ Đức Hiểu,[61] Đỗ Lai Thúy,[62] Lê Trí Viễn,[63] Nguyễn Đăng Mạnh,[64] Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Phạm Hùng,[65] Phan Cự Đệ,[66] Phan Ngọc,[67] Phong Lê,[68] Phương Lựu,[69] Trần Đình Hượu, Trần Đình Sử,[70], Văn Tâm,[71] Vương Trí Nhàn.[72]
KẾT LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN 1987 – HIỆN TẠI
Sau 40 năm dài dưới sự kìm kẹp của Đảng và Nhà Nước, đây là giai đoạn đổi mới của ngành phê bình văn học Việt Nam. Việc tái lượng giá các thành tựu văn học quá khứ được thực hiện, phê bình văn học trở nên sôi nổi với sự xuất hiện của những tác phẩm mới của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo v.v. Tuy đổi mới nhưng trên căn bản vẫn lấy chủ nghĩa Marx – Lénin làm nền tảng, chỉ mở rộng tầm nhìn, không khép kín, biệt lập như trước nữa mà thôi. Không khí hào hứng chỉ được 10 năm, từ 1995 đến nay hoạt động phê bình văn học đứng sững lại với những cuộc tranh luận thiếu phẩm chất cả về ngôn ngữ lẫn nội dung. Phê Bình như ngừng lại chờ đợi một bàu không khí mới đáp ứng đúng mức nhu cầu phát triển văn học của thế kỷ mới.
Đổi mới tự bản chất là sự thay đổi từ cái cũ sang cái mới, do đó, tất nhiên phải có một giai đoạn giao thời, bất ổn, cái cũ xen cái mới, sau đó mới lắng xuống, định hình. Trong lãnh vực phê bình văn học, những đánh giá trong giai đoạn này cần có thời gian đãi lọc như nhà biên khảo văn học Trần Đình Sử nhận định: Tất cả những gì làm được đều đang ở trong quá trình vận động và biến đổi, và có lẽ phải đến giữa thế kỷ 21 người ta mới có thể đánh giá một cách khách quan, đầy đủ và sáng tỏ hơn những thành tựu lý luận phê bình văn học thế kỷ 20. Chỉ đến lúc đó người ta mới biết những gì sẽ mất đi và những gì còn lại.[73]
TRẦN BÍCH SAN
GHI CHÚ
[1] Nhiều người thường gộp chung hoặc lẫn lộn giữa Phê Bình Văn Học, Lý luận và Lý thuyết Văn Học. Lý thuyết Văn Học (Literary Theory) là đường hướng chỉ đạo làm nền tảng cho quan niệm sáng tác và sinh hoạt văn hoc. Lý luận văn học hay Văn Luận (Literary analysis/Explication de texte) là sữ ứng dụng lý thuyết và các quan niệm căn bản trong lúc phân tích văn bản và tác phẩm liên hệ. Còn phê bình là ứng dụng cả lý thuyết lẫn lý luận văn học trong việc phê phán, thẩm định, đánh giá các tác phẩm và hiện tượng văn học.
[2] Xem Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam (nxb Nguyễn Đức Phiên, Hànội, 1941). Xem Lưu Nguyễn Đạt, Văn Luận (nxb Cỏ Thơm, Hoa Kỳ, 2000).
[3] The conception of the critic as a parasite or artist manqué is still popular, especially among artists. It is sometimes reinforced by a dubious analogy between the creative and the procreative functions, so that we hear about the “impotence” and “dryness” of the critic, of his hatred for genuinely creative people, and so on… However, the fate of art that tries to do without criticism is instructive…. There is another reason why criticism has to exist. Criticism can talk, and all the arts are dumb…” (Northrop Frye, Anatomy of Criticism, Princeton University Press, 1957, 10th printing 1990, pages 3-5).
[4] “Nếu Shakespeare sống lại, chắc hẳn ông không nhận ra được một Shakespeare vĩ đại như ngày nay mọi người biết đến (M. Bakhtin, nhà lý luận văn học Nga).
[5] Quan niệm này đã có từ lâu ở Tây phương. Các công trình khảo cứu về tác phẩm, tác giả như Shakespeare, Corneille, Racine, Gide, Sartre, Kafka, Apollinaire, Miller, Faulkner, v.v. đều thuộc phạm vi của phê bình văn học.
[6] Ở miền Nam Việt Nam sau 1954, Đàm Trường Viễn Kiến tại tư gia nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh đường Phan Thanh Giản, và những cuộc gặp gỡ ở Câu Lạc Bộ Báo Chí đường Tự Do Sàigòn vào những năm cuối thập niên 1950 là hình thức mô phỏng Salon Littéraire của Pháp.
[7] Nghệ Thuật vị cái gì? là thí dụ điển hình về bút chiến. Thời tiền chiến, khởi đầu từ bài Nghệ thuật với Đời Người của Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 41 ra ngày 09/03/1935, Hải Triều đặt vấn đề với Thiếu Sơn, mở màn cuộc tranh luận văn học gây sôi nổi ngay từ đầu, kéo dài đến năm 1939 mới tạm chấm dứt vì thời cuộc. Tám cơ quan ngôn luận đã tham gia gồm các báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Văn Học Tuần San, Tao Đàn, Đời Mới, Hà Nội Báo, Hồn Trẻ, Tiến Bộ và Tràng An. Các cây viết tham dự gồm có: Thiếu Sơn, Lan Khai, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Phan Văn Hùm, Lê Tràng Kiều (phái vị nghệ thuật), Hải Triều, Hải Âu, Thạch Đông, Tô Vệ, Hải Khánh, Hồ Xanh, Hải Lân, Hoàng Tân Dân, Bùi Công Trừng, Lâm Mộng Quang (phái vị nhân sinh). Cuộc tranh luận này được Đặng Thái Mai tiếp tục trong Văn Học Khái Luận và còn mãi về sau này.
[8] Thibaudet gọi là “Phê Bình Giáo Sư”.
[9] “Nhà côn trùng học nghiên cứu về bươm bướm, không vì quá yêu vẻ đẹp của bướm mà lấy màu sắc sặc sỡ vẽ lên áo mình” (Jean Yves Tadié, Phê Bình Văn Học Thế Kỷ 20, Belfond, 1987, bản dịch của Trung Văn, nxb Bách Hoa Văn Nghệ). Các tác giả lớn từ Platon, Aristotle, Kant, Hégel không ai làm văn chương trong tác phẩm của họ cả (Chu Quang Tiềm).
[10] Các tác phẩm phê bình văn học trong thời kỳ này gồm có: Việt Hán Văn khảo (1918) của Phan kế Bính, Việt Văn Hợp Tuyển Giảng Nghĩa (1925) của Nguyễn Thành Ý, Quốc văn Trích Diễm (1925) của Dương Quảng Hàm, Nam Thi Hợp Tuyển (1927) của Nguyễn Văn Ngọc, Sự Nghiệp và Thi Văn của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ (1928) của Lê Thước, Văn Đàn Bảo Giám (1928) của Trần Trung Viên, Quốc Văn Cụ Thể (1932) của Bùi Kỷ, những bài viết Nam Âm Thi Thoại, sau in thành sách năm 1936 đổi là Chương Dân Thi Thoại của Phan Khôi.
[11] Tản Đà (1888-1939): tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5, 1988, quê làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Ba Vì, ngoại thành Hànội. Con án sát Nguyễn Danh Kế, thi mãi không đậu, hướng vào làm báo, làm thơ, soạn kịch. Chủ bút báo Hữu Thanh, chủ trương tờ An Nam Tạp Chí, viết cho Đông Dương Thời Báo, Tiểu Thuyết Tuần San… Mất ngày 7 tháng 6, 1939, hưởng dương 51 tuổi.
[12] Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942): hiệu Ôn Như, sinh ngày 1 trháng 3, 1890, quê làng Hoạch Trạch (làng Vạc), huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. 1907 tốt nghiệp trường Thông Ngôn, dạy trường tiểu học Hànội, rồi dạy trường Hậu Bổ, sau làm thanh tra các trường Sơ Học ở Bắc Kỳ, đốc học tỉnh Hà Đông. Mất ngày 26 tháng 4, 1942, hưởng dương 52 tuổi.
[13] Vũ Đình Long (1896-1960): sinh ngày 19 tháng 12, 1896, quê thôn Mục Xá, xã Cao Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hànội. Học ở Hànội, dạy học ở Hà Đông, sau chuyển về Hànội. Từ 1925 mở nhà xuất bản Tân Dân, từ 1936 lần lượt chủ trương các báo: Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Ích Hữu, tạp chí Tao Đàn, tuần báo Thiếu Nhi, Truyền Bá. Sáng tác nhiều vở kịch giá trị. Mất tại Hànội ngày 14 tháng 8, 1960, thọ 64 tuổi.
[14] Nguyễn Tường Tam (1905-1963): bút hiệu Nhất Linh, gốc Cẩm Phô, Quảng Nam, sinh ở Cẩm Giàng, tỉnh Hải dương, ngụ ở Hànội. 1926 học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hànội, sang Pháp đỗ cử nhân khoa học năm 1930 và nghiên cứu thêm về báo chí, xuất bản. 1931 về nước dạy tư thục Thăng Long, Hànội. 1932 chủ trương tuần báo Phong Hóa, thành lập Tự Lực Văn Đoàn. 1936, Phomg Hóa bị đình bản, ra tờ Ngày Nay. 1945 giữ chức bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ liên hiệp và được cử làm trưởng phái đoàn VN tham dư hội nghị Đà Lạt đàm phán với Pháp. Lưu vong ở Trung Quốc một thời gian. 1951 trở về ẩn cư ở Đà Lạt. 1956 vào Sàigòn hoạt động văn hóa, chủ trương tập san Văn Hóa Ngày Nay. Uống thuốc độc tự vận ngày 8 tháng 7, 1963 để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm dự định đưa ông ra toà án xét xử.
[15] Ngô Đức Kế (1878-1929): hiệu Tập Xuyên, quê làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, con tham tri Ngô Huệ Liên. 1901 đỗ tiến sĩ nhưng không ra làm quan, hoạt động cách mạng. 1908 bị bắt đày ra Côn Đảo đến 1921 mới được thả. Từ 1922 làm báo Hữu Thanh ở Hànội. Mất ngày 10 tháng 12, 1929, hưởng dương 51 tuổi.
[16] Nguyễn Đôn Phục (? -1954): tự Hi Cán, hiệuTùng Vân, nguyên quán Thanh Hóa, định cư ở làng La Nội, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc tỉnh Hà Tây, thuở nhỏ theo Hán học, 1906 đỗ tú tài, sau không thi nữa. Cộng tác với các báo Nam Phong, Tri Tân trong nhiều năm. Mất năm 1954.
[17] Lê Thước (1890-1975): quê xã Lạc Thiên, huyện La Sơn (nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh, thuở nhỏ theo Hán học, sau theo Tây học, đỗ bằng thành chung, làm giáo sư trường Bưởi, Hànội. Thời gian sau chuyển về làm phụ tá tại trường Viễn Đông Bác Cổ Hànội. Mất ngày 1 tháng 10, 1975, thọ 85 tuổi.
[18] Võ Liêm Sơn (1888-1949): hiệu Ngạc Am, quê xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ cử nhân năm 1912, làm tri huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Sau chuyển sang ngành giáo dục làm huấn đạo, rồi giáo sư Hán văn và Quốc văn tại trường Quốc Học Huế. Cùng với Đào Duy Anh lập ra Nam Hải Tùng Thư. 1930 vị Pháp bắt giam, ra tù về sống ẩn dật nơi quê vợ ở Bình Thuận, chuyên tâm sáng tác văn học. Mất ngày 22 tháng 2, 1949, thọ 61 tuổi.
[19] Phan Kế Bính (1975-1921): hiệu Bưu Văn, quê làng Thụy Khê, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà Đông, nay thuộc thành phố Hànội. 1906 đỗ cử nhân, không ra làm quan, sống nghề dạy học. Từ 1907 viết báo, phụ trách phần chữ Hán trong Đăng cổ Tùng Báo, lần lượt cộng tác với Đông Dương Tạp Chí, Trung Bắc Tân Văn. Mất năm 1921, hưởng dương 46 tuổi.
[20] Phan Khôi (1887-1960): hiệu Chương Dân, quê làng Bảo An, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cha là phó bảng Phan Trân, mẹ là con gái tổng đốc Hoàng Diệu, thi Hương ở Huế đậu tú tài, sau đó bỏ khoa cử, làm báo. 1906 ra Hànội học tiếng Pháp, tham gia phong trào Duy Tân tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục. 1908 bị bắt ở Hànội, giam tại nhà lao Hội An (Quảng Nam). 1911 được thả, sau đó làm báo. 1957-1958 tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Mất tại Hànội năm 1960, thọ 73 tuổi.
[21] Phạm Quỳnh (1892-1945): hiệu Thượng Chi, Hồng Nhân, sinh ngày 17 tháng 12, 1892 tại Hànội, nguyên quán làng Thượng Hồng, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. 1908 tốt nghiệp trường Thông Ngôn, bổ làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ Hànội. 1917 chủ nhiệm kiêm chủ bút Nam Phong Tạp Chí. 1932 giữ chức Ngự Tiền Văn Phòng cho vua Bảo Đại, rồi thăng thương thư bộ Học, bộ Lại. Ngày 23 tháng 8, 1945 bị CS bắt ở Huế, sau đó bị xử bắn ở làng Hiền Sĩ, tỉnh Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.
[22] Tìm hiểu tác giả để giải thích tác phẩm là nguyên tắc phê bình được sử dụng từ Sainte- Beuve (tên thật Charles Augustin 1804-1869), sử gia và là nhà phê bình chân dung của Pháp.
[23] Các tác giả tham gia tranh luận về Truyện Kiều gồm có: Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam, Trần Trọng Kim, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng.
[24] Lê Thanh ghi nhận trong Cuốn Sổ Văn Học như sau: Giở những tạp chí, những tờ báo xuất bản những năm ấy ta thấy nhan nhản những bài phê bình.
[25] Trần Trọng Kim (1882-1953): hiệu Lệ Thần, quê làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. 1903 tốt nghiệp ưu hạng trường Thông Ngôn, bổ về làm việc ở Ninh Bình. Cuối 1904, cùng Nguyễn Văn Vĩnh sang Pháp học ở Lyon. 1911 về nước làm ở Nha Học Chánh, thanh tra các trường tiểu học, tham gia hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, dạy Sư Phạm Thực Hành Hànội, giám đốc các trường Nam Hànội. 1943 về hưu. Cuối 1944 Nhật đưa đi lánh nạn ở Singapore. 1945 về nước làm thủ tướng chính phủ của Bảo Đại. Từ chức sau biến cố 19 tháng 8, 1945. Từ trần ngày 2 tháng 12, 1953 tại Đà lạt, thọ 71 tuổi.
[26] Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí với tác phẩm Phê Bình và Cảo Luận là tác giả mở đầu loại phê bình này ở nước ta. Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan, Phỏng vấn Các Nhà Văn của Lê Thanh, đều thuộc loại chân dung văn học, mặc dù cách vẽ có khác nhau.
[27] Thể loại này đã có từ thời kỳ trước (Sự Nghiệp và Thi Văn của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ , 1928, của Lê Thước). Tác phẩm trong giai đoạn này gồm có: Thi Sĩ Tản Đà (1939), Tú Mỡ (1942), Trương Vĩnh Ký (1943) của Lê Thanh, Cao Bá Quát (1940), Chu Mạnh Trinh (1942), Bùi Huy Bích (1944) của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Trông Dòng Sông Vị (1935), Hàn Mạc Tử, Thân Thế và Thi Văn (1941) của Trần Thanh Mại, Tùng Thiện Vương (1944) của Ưng Trình.
[28] Gồm các tác phẩm: Kinh Thi Việt Nam (1940) của Trương Tửu, Nguyễn Du và Truyện Kiều (1943), Văn Chương Truyện Kiều (1944), Tâm lý và Tư Tưởng Nguyễn Công Trứ (1942) của Nguyễn Bách Khoa (bút hiệu khác của Trương Tửu), Khảo Luận về Kim Vân Kiều (1943) của Đào Duy Anh.
[29] Thể loại này đã có từ thời kỳ trước (Nam Thi Hợp Tuyển, 1927, của Nguyễn Văn Ngọc). Trong giai đoạn này có Thi Văn Bình Chú (1941) của Ngô Tất Tố.
[30] Thiếu Sơn (1908-1978): tên thật Lê Sĩ Quí, nguyên quán làng Đan Loan, tỉnh Hải Dương, thuở nhỏ sống ở Hànội, nhưng sau vào ở trong Nam trước 1930, công chức của Pháp, nổi tiếng từ 1928, cộng tác với các báo Nam Phong, Phụ Nữ Tân Văn, Đuốc Nhà Nam, Nam Kì Tuần Báo, Đại Việt Tap Chí, Phổ Thông, Giáo Dục Phổ Thông. 1971 bị bắt đày ra Côn Đảo. 1973 được trao trả tù binh, sang Pháp vận động chấm dứt chiến tranh VN. 1975 về Sàigòn, mất ngày 5 tháng 1, 1978, thọ 70 tuổi.
[31] Trần Thanh Mại (1911-1965): sinh ngày 3 tháng 2, 1911, quê làng Tân Nội, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, nay thuộc ngoại ô thành phố Huế. Từ 1930 chuyên sáng tác văn học, cộng tác với nhiều báo ở Bắc và trong Nam. Mất tại Hànội ngày 2 tháng 2, 1965, hưởng dương 54 tuổi.
[32] Đào Duy Anh (1904-1988): hiệu Vệ Thạch, nguyên quán làng Khúc Thủy, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, từ đời ông nội vào cư ngụ ở Thanh Hóa. Thuở nhỏ học ở Thanh Hóa, sau học trường quốc học Huế. 1923 tốt nghiệp bằng Thành Chung, làm giám học ở Đồng Hới, Quảng Bình. 1926 cộng tác với báo Tiếng Dân. 1927 chủ trương Quan Hải Tùng Thư. 1929 bị Pháp bắt, được thả năm 1930 về dạy tư tại trường Thuận Hóa ở Huế và chuyên tâm nghiên cứu sử và văn học. 1945 dạy Đại Học Hànội, sau tản cư vào Thanh Hóa. 1950 phụ trách ban Văn Sử Địa, bộ Giáo Dục. 1953 giáo sư sử học lớp Dự Bị Đại Học ở Thanh Hóa. 1954 ra Hànội dạy sử học tại trường Đại Học Sư Phạm và Tổng Hợp Hànội. 1957-1958 liên hệ vụ Nhân Văn Giai Phẩm bị chuyển về làm công tác dịch thuật ở Viện Khoa Học Xã Hội tới khi về hưu. Mất năm 1988 tại Hànội, thọ 84 tuổi.
[33] Hải Triều (1908-1954): tên thật Nguyễn Khoa Văn, hiệu Xích Nam Tử, sinh ngày 1 tháng 10, 1908 tại An Cựu, mgoại thành Huế, nay thuộc tỉnh Thừa Thiên, đảng viên lớp đầu của đảng Cộng Sản Đông Dương. 1931 bị bắt tại Sàigòn, đưa về Huế kết án 9 năm khổ sai và 8 năm quản thúc, nhưng đến tháng 7, 1932 lại được thả. Tháng 8, 1940 bị bắt đi an trí tại Phong Điền (Thừa Thiên), được thả tháng 3, 1945, làm giám đốc Sở Tuyên Truyền Trung Bộ, sau làm giám đốc Sở Tuyên Truyền liên khu IV, ủy viên ban chấp hành Chi Hội Văn Nghệ liên khu IV. Mất tại Hà Lãng, tỉnh Thanh Hóa ngày 6 tháng 8, 1954, hưởng dương 46 tuổi.
[34] Trương Tửu (1913-1999): bút hiệu Nguyễn Bách Khoa, sinh ngày 18 tháng 10, 1913 ở Hànội, học tiểu và trung học ở Hànội, rồi học trường Kỹ Nghệ Thực Hành ở Hải Phòng cùng lớp với Lê Văn Siêu. Tốt nghiệp, không làm công chức, tiếp tục học hết chương trình tú tài Pháp-Việt, sau đó viết văn, làm báo. Từ 1931-1938 cộng tác với các báo Đông Tây Tuần Báo, Loa, Ích Hữu, Tiếng Trẻ, Hà Nội Báo, Mùa Gặt Mới, Văn Mới…Giám đốc nhà xuất bản Hàn Thuyên, cùng Nguyễn Đức Quỳnh trông nom tạp chí Văn Mới (thực chất là sách). 1946 tản cư vào Thanh Hóa, giữ chức phó Chi Hội Văn Hóa tỉnh. 1952 dạy trường Dự Bị Đại Học chuyên về lý luận, phê bình văn học. Sau 1954 hồi cư về Hànội dạy trường Đại Học Sư Phạm, Đại Học Văn Khoa Hànội. 1957 được phong giáo sư đại học cùng với Đào Duy Anh và Nguyễn Mạnh Tường. 1958 liên hệ vụ Nhân Văn Giai Phẩm bị buộc nghỉ việc, về sống với gia đình chuyên nghiên cứu y học Đông phương, sống bằng nghề Đông y cho tới khi mất ngày 16 tháng 6, 1999 tại Hànội, thọ 86 tuổi.
[35] Hoài Thanh (1909-1982): tên thật Nguyễn Đức Nguyên, sinh ngày 15 tháng 7, 1909, quê Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, lúc nhỏ học ở Nghệ An và Huế, tốt nghiệp trung học, dạy học và làm việc ở Huế. Mất ngày 14 tháng 3, 1982, thọ 73 tuổi.
[36] Vũ Ngọc Phan (1902-1987): sinh ngày 8 tháng 9, 1902 tại Hànội, nguyên quán huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, sống và làm việc ở Hànội từ lúc còn trẻ cho đến khi mất. Từ 1930 viết tiểu luận, phê bình, dịch thuật. Cộng tác với các báo Phong Hóa, Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, và với nhóm Tân Dân của Vũ Đình Long. Sau 1946 giữ các chức vụ chủ tịch Ủy Ban Kháng Chiến khu Đống Đa, Hànội, ủy viên thường trực Đoàn Văn Hóa Kháng Chiến liên khu IV, ủy viên ban chấp hành Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam. Mất tại Hànội ngày 14 tháng 6, 1987, thọ 85 tuổi.
[37] Từ 1951 đến 1975 Đảng CSVN có tên gọi là Đảng Lao Động Việt Nam.
[38] Chính sách của Đảng CS tạo nên sự hèn nhát và nỗi sợ hãi của nhà văn. Hoài Thanh phải chối bỏ giá trị tác phẩm của mình, xem những bài thơ trong Thi Nhân Việt Nam là những vần thơ có tội của những kẻ bạc nhược không dám làm người. Nguyễn Minh Châu tả lại về nhà văn Nguyễn Tuân: nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: Tao còn sống đến bây giờ là nhờ biết sợ. Nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng.
[39] Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989): Hãy Đọc Lời Ai Điếu Cho Một Giai Đoạn Văn Nghệ Minh Họa, tạp chí Văn Nghệ của Hội Nhà Văn, tháng 10/1987.
[40] Đề Cương Văn Hóa xác định văn hóa không thể tách rời với cách mạng giải phóng dân tộc và có nhiệm vụ: 1. Chống các học thuyết Khổng, Mạnh, Descartes, Bergson, Kant, Nietzsche làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng 2. Chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v. làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng. Tuy các tư tưởng này còn rất sơ lược và khiếm khuyết, nhưng là buớc khởi đầu đưa chủ nghĩa Marx thành tư tưởng thống trị, Marxist hóa toàn bộ văn hóa Việt Nam.
[41] Tố Hữu (1920 – 2002): tên thật Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 04/10/1920 quê làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình nhà Nho nghèo. Học và tập làm thơ từ năm 6, 7 tuổi. Đỗ bằng Thành Chung, lãnh đạo Đoàn Thanh Niên Dân Chủ ở Huế. Tháng 04, 1939 bị Pháp bắt, giam ở nhà lao miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 03, 1942 vượt ngục. 1945 Chủ Tịch Ủy Ban Khởi Nghĩa Thừa Thiên – Huế. 1951 Ủy Viên Dự Khuyết Trung Ương Đảng. 1958 – 1980: Ủy Viên Ban Bí Thư. 1976 – 1986: Ủy Viên Bộ Chính Trị. Có lúc giữ chức Phó Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (Phó Thủ Tướng). Tác phẩm: Từ Ấy (thơ, 1946), Việt Bắc (Thơ, 1954), Gió Lộng (thơ, 1961), Ra Trận (thơ, 1972), Máu Và Hoa (thơ, 1977), Một Tiếng Đờn (thơ, 1992), Xây Dựng Một Nền Văn Nghệ Lớn Xứng Đáng Với Nhân Dân Ta, Thời Đại Ta (tiểu luận, 1973), Cuộc Sống Cách Mạng và Văn Học Nghệ Thuật (tiểu luận, 1981).
[42] Hà Xuân Trường (1924 – ): tên thật Hà Nghệ, Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa, Tổng Biên Tập tạp chí Cộng sản, sát cánh cùng Trường Chinh, Tố Hữu trong việc lãnh đạo, quản lý văn nghệ. Tác phẩm: Đường Lối Văn Nghệ của Đảng: Vũ Khí, Trí Tuệ, Ánh Sáng (1974), Sự Nghiệp Văn Hóa, Văn Nghệ Dưới Ánh Sáng Đại Hội V (1983), Trên Một Chặng Đường (1984), Văn Học, Cuộc Sống, Thời Đại (1984).
[43] Trường Chinh (1907 – 1988): tên thật Đặng Xuân Khu, sinh ngày 09/02/1907 tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường (nay là xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy) tỉnh Nam Định. 1926 bị đuổi học vì là một trong những học sinh lãnh đạo bãi khóa để truy điệu chí sĩ Phan Châu Trinh tại Nam Định. Lên Hà Nội học trường Cao đẳng Thương Mại. 1927 một trong những người đầu tiên gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. 1930 được chỉ định vào ban tuyên truyền cổ động Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương, cuối năm bị bắt và kết án 12 năm tù cấm cố, đày đi Sơn La. Cuối 1936 được thả, sau đó tham gia Xứ Ủy Bắc Kỳ. 1940 Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương. 1941 Tổng Bí Thư Đảng và chủ bút các báo Giải Phóng, Cờ Giải Phóng, tạp chí Cộng Sản. 1981 Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước và Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Phòng. 1987 Tổng Bí Thư Đảng CSVN. Chết ngày 30/09/1988. Tác phẩm: Vấn Đề Dân Cày (1940), Đề Cương Văn Hóa (1943), Chủ Nghĩa Mác và Văn Hóa Việt Nam (1948), Tập Thơ Sông Hồng I & II (1966).
[44] Trường Chinh, tạp chí Tiên Phong, số 2, 1945.
[45] Trường Chinh, Báo Cáo tại Hội Nghị Văn Hóa lần thứ hai, tháng 07, 1948.[46] Trường Chinh, Văn nghệ phải góp phần giải phóng Miền Nam, bảo vệ Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, tiến tới thống nhất nước nhà (Báo Cáo tại Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc lần thứ IV, 1968)
[47] Karl Marx (1818 – 1883): triết gia Đức, tác giả hai cuộc biến động lớn nhất trong lịch sử thế giới cận đại: Dân Chủ Xã Hội (Democratic Socialism) và Cách Mạng Cộng Sản (Revolutionary Communism). Chủ thuyết Marx thường được gọi là Biện Chứng Pháp Duy Vật (Dialectical Materialism), một phần chủ thuyết thường được sử dụng là Duy Vật Sử Quan (Historical Meterialism).
[48] V.I. Lenin (1870 – 1924): sáng lập Đảng Cộng Sản Nga, đảng Cộng Sản độc tài dầu tiên trên thế giới. Sát cánh với Trotsky lãnh đạo thành công cuộc cách mạng tháng 10, 1917 và trở thành chủ tịch Nga cho đến khi chết năm 1924. Nền tảng lý thuyết của Lenin là dùng bạo lực cách mạng tiêu diệt tự do kinh doanh (quyền sở hữu), và tạo một xã hội vô giai cấp (không có người giàu và kẻ nghèo).[49] Hoài Thanh (1909 – 1982): tên thật Nguyễn Đức Nguyên, sinh ngày 15/07/1909, quê ở Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Học ở Nghệ An, Huế, tốt nghiệp trung học, dạy học và làm việc ở Huế. Mất ngày 14/03/1982 tại Sàigòn. Tác phẩm: Văn Chương và Hành Động (1936), Thi Nhân Việt Nam (hợp soạn với Hoài Chân 1941), Có Một Nền Văn Hóa Việt Nam (1946), Nói Chuyện Thơ Kháng Chiến (1951), Nam Bộ Mến Yêu (1955), Phê Bình & Tiểu Luận (3 tập, 1960, 1965, 1971), Chuyện Thơ (1978). Hoài Thanh là nhà phê bình theo phái ấn tượng, sau 1945 đổi sang phê bình văn học theo quan điểm Marx – Lénin. Theo Nói Chuyện Thơ Kháng Chiến thì Xuân Diệu là người đầu tiên khởi xướng những tiêu chuẩn phê bình thơ cách mạng.
[50] Xuân Diệu (1916 – 1985): tên thật Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 02/02/1916 tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, gốc người làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Đậu bằng Tú Tài, làm sở Thương Chính, Hà Nội. Kiện tướng của phong trào Thơ Mới. 1946: thành viên đầu tiên của Hội Văn Hóa Cứu Quốc. 1946 – 1960: Ủy Viên Ủy Ban Trung Ương Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật. Mất ngày 18/12/1985. Tác phẩm: Thơ: Phấn Thông Vàng, Thơ Thơ, Gửi Hương Cho Gió, Tiểu Luận & Phê Bình: Tiếng Thơ (1951), Những Bước Đường Tư Tưởng Của Tôi (1958), Dao Có Mài Mới Sắc (1963), Đi Trên Đường Lớn (1968), Và Cây Đời Mãi Mãi Xanh Tươi (1971), Mài Sắt Nên Kim (1977), Lượng Thông Tin và Những Kỹ Sư Tâm Hồn Ấy (1978), Các Nhà Thơ Cổ Điển Việt Nam (2 tập 1981 – 1982).
[51] Xuất bản năm 1987 gồm các tác giả: Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Ngô Thảo, Vương Trí Nhàn. Năm 1995 tái bản đổi là Một Thời Đại Mới Trong Văn Học.
[52] Đại Học Sư Phạm I, Đại Học Tổng hợp, Trường Viết Văn Nguyễn Du, tạp chí Văn Nghệ Quân Đội phối hợp tổ chức năm 1995, có hơn 50 bản tham luận do Đại Học Quốc Gia xuất bản năm 1997, tái bản năm 1999.
[53] Do Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức năm 1995.
[54] Do Viện Văn Học tổ chức.
[55] Do Huy Cận và Hà Minh Đức chủ biên nhân dịp kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ Mới.
[56] Do Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức ở Viện Văn Học để kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 90 của Hoài Thanh.
[57] Vũ Trọng Phụng (1911 – 1939): quê ở ngoại ô Hànội, gia đình nghèo, cha mất lúc mới 7 tháng, vào đời mưu sinh sớm. Thư ký hãng buôn Godard, rồi nhà in IDEO. Tự trau dồi, viết cho các báo Công Dân, Ngọ Báo, Tân Thiếu Niên, Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tạp Chí Đông Dương, Sông Hương, Tao Đàn, v.v. Mắc bệnh lao, từ trần ngày 13/10/1939. Tác phẩm: Chống Nạng Lên Đường (truyện ngắn, nxb Tân Dân 1932), Cạm Bẫy Người (phóng sự, nxb An Nam 1934), Không Một Tiếng Vang (kịch, nxb Đông Tây, 1934), Giông Tố (tiểu thuyết, nxb Văn Thanh, 1936), Cơm Thày Cơm Cô (1936), Lục Sì (phóng sự, nxb Minh Phương, 1937), Số Đỏ (tiểu thuyết, nxb Lê Cường, 1938), Làm Đĩ (nxb Mai Lĩnh, 1939), Trúng Số Độc Đắc (tiểu thuyết, 1939), Dứt Tình (tiểu thuyết, Phổ Thông Bán Nguyệt San 1941), Vỡ Đê (tiểu thuyết, nxb Minh Đức, 1941), Lấy Nhau Vì Tình (tiểu thuyết, nxb Minh Phương, 1941), Người Tù Được Tha (di cảo).
[58] Leon Trotsky (1879 – 1940): cùng Lenin lãnh đạo cuộc cách mạng Bolshevik tháng 10, 1917 ở Nga. Cách mạïng thành công, Trotsky được cử giữ chức Ủy Viên Ngoại Giao, sau đó, Ủy Viên Chiến Tranh. Nhân vật số 2 đảng Cộng sản Nga khi Lenin còn sống, và được coi là người sẽ kế vị Lenin. Nhưng sau khi Lenin chết, Stalin chiếm được quyền, Trotsky bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản năm 1927, và bị đày đi Trung Á năm 1928. Bị trục xuất khỏi Thổ Nhĩ Kỳ năm 1929, Trotsky lưu vong đến Na Uy, rồi Mễ Tây Cơ, chống Stalin từ hải ngoại. Hối hận vi` đã khoan dung cho Trotsky, Stalin gửi điệp viên đến Mễ Tây Cơ thảm sát Trotsky ngày 21 tháng 8, 1940.
[59] Nguyễn Tuân (1910 – 1987): sinh ngày 10/07/1910, quê xã Nhân Mục, huyện Từ Liêm, Hànội, nguyên quán tỉnh Thanh Hóa. Cộng tác với các báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tao Đàn, Hà Nội Tân Văn, Thanh Nghị, Trung Bắc Chủ Nhật, v.v. Tổng Thư Ký Hội Văn Nghệ Việt Nam, Ủy Viên Ủy Ban Trung Ương Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, Ủy Viên Thưòng vụ, Cố Vấn Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam. Mất ngày 28/07/1987. Tác phẩm: Ngọn Đèn Dầu Lạc (1939), Nhà Bác Nguyễn (Tân Việt, 1940), Vang Bóng Một Thời (Tân Dân, 1940), Một Chuyến Đi (Tân Dân, 1941), Tùy Bút (Cộng Lực, 1941), Tàn Đèn Dầu Lạc (Mai Lĩnh, 1941), Chiếc Lư Đồng Mắt Cua (Hàn Thuyên, 1941), Thiếu Quê Hương (1943), Quê Hương (1943), Tóc Chị Hoài (1943), Chùa Đàn (1944), Nguyễn (1945), Đường Vui (1949), Thằng Càn (1953), Tình Chiến Dịch (1950), Tùy Bút Kháng Chiến (1955), Truyện Một Cái Thuyền Đất (1958), Sông Đà (1960), Hà Nội Ta Đánh Mĩ Giỏi (1972), Chuyên Nghề (1986).
[60] Hội thảo do trường Đại Học Tổng Hợp tổ chức vào tháng 05/1989.
[61] Đỗ Đức Hiểu (1924 – 2002): trước là nhà lý luận phê bình Marxist nhiệt thành. Sau 1985 đi vào Thi Pháp Học, phân tích các giá trị văn học qua nghệ thuật ngôn từ, chiều sâu vô thức. Tích cực đánh giá lại các hiện tượng văn học lớn trước 1945. Tác phẩm: Phê Phán Chủ Nghĩa Hiện Sinh (1979), Đổi Mới Phê Bình Văn Học (1993), Đổi Mới Đọc và Bình Văn (1998), Thi Pháp Hiện Đại (2000).
[62] Đỗ Lai Thúy (1948 – ): Sử dụng Thi Pháp Học phân tích thơ của các tác giả chính trong phong trào Thơ Mới tiền chiến. Tác phẩm: Con mắt Thơ (1992), Hồ Xuân Hương, Hoài Niệm Phồn Thực (1998).
[63] Lê Trí Viễn (1919 – ): tác phẩm: Tổng Quan Văn Chương Việt Nam (1994), Đặc Trưng Văn Học Trung Đại Việt Nam (1996), Quy Luật Phát Triển Lịch Sử Văn Học Việt Nam (1998).
[64] Nguyễn Đăng Mạnh (1930 – ): nghiên cứu tương quan phong cách văn học với tư tưởng nhà văn, viết chân dung văn học. Tác phẩm: Nhà Văn, Tư Tưởng và Phong Cách (1983), Con Đường Đi Vào Thế Giới Nghệ Thuật của Nhà Văn (1994), Chân Dung và Phong Cách (2000).
[65] Nguyễn Phạm Hùng: tác phẩm: Về Một Hiện Tượng Phê Bình (1998), Văn học Cổ, Cách Nhìn Mới (1995), Trên Hành Trình Văn Học Trung Đại (2001).
[66] Phan Cự Đệ (1933 – ): nhà phê bình hàng đầu về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tác phẩm: Phong Trào Thơ Mới (1966), Cuộc Sống và Tiếng Nói Nghệ Thuật (1971), Tiểu Thuyết Việt Nam Hiện Đại (2 tập 1974, 1975), Nhà Văn Việt Nam (viết chung 1979, 1983), Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX (viết chung 2005).
[67] Phan Ngọc (1925 – ): sử dụng phương pháp ngôn ngữ học giải thích phong cách thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyện Kiều.
[68] Phong Lê (1938 – ): tên thật Lê Phong Sừ, góp phần nhìn lại các hiện tượng văn học trước 1945. Tác phẩm: Văn Học Việt Nam Hiện Đại, Những Chân Dung Tiêu Biểu (2001), Văn Học Việt Nam Hiện Đại, Lịch Sử và Lý Luận (2003).
[69] Phương Lựu (1936 – ): tên thật Bùi Văn Ba, giới thiệu lý luận phê bình văn học Tây Phương thế kỷ 20, thi học so sánh. Tác phẩm: Tìm Hiểu Một Nguyên Lý Văn Chương (1983), Góp Phần Xác Lập Hệ Thống Quan Niệm Văn Học Trung Đại Việt Nam (1996), Lí Luận Văn Học (viết chung 1997), Lý Luận Phê Bình Văn Học (2004).
[70] Trần Đình Sử (1940 – ): Đi sâu vào lãnh vực Thi Pháp Học. Tác phẩm: Lý Luận và Phê Bình Văn Học (1976), Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam (1998), Thi Pháp Thơ Tố Hữu (2001), Thi Pháp Truyện Kiều (2003).
[71] Văn Tâm (1933 – 2004): tên thật Nguyễn Văn Tâm. Tác phẩm: Vũ Trọng Phụng, Nhà Văn Hiện Đại (1957), Tản Đà, Khối Mâu Thuẫn Lớn (1964), Giảng Văn Văn Học Lãng Mạn (1991), Góp Lời Thiên Cổ Sự (1992), Đoàn Phú Tứ, Con Người và Tác Phẩm (1995), Vườn Khuya Một Mình (2001).
[72] Vương Trí Nhàn (1942 – ): quê Thuận Thành, Bắc Ninh, vừa là nhà văn vừa là nhà phê bình văn học.
[73]Trần Đình Sử, Lý Luận, Phê Bình Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX, nxb Giáo Dục, 2005
TÀI LIỆU THAM KHẢO
– Đỗ Lai Thúy, Phê Bình Văn Học: Chòng Chành Mà Tiến Tới, tạp chí Văn Học số 6, 2000.
– Hà Minh Đức (chủ biên), Nhìn Lại Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX, nxb Chính Trị Quốc Gia, Hànội, 2002.
– Hoài Thanh & Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam, nxb Nguyễn Đức Phiên, in lần thứ 2, Hànội, VN, 1943.
– Irving Howe, Modern Literary Criticism, Beacon Press, Boston, USA, 1958.
– Jennifer Bothamley, Dictionary of Theories, Gale Research inc., USA, 1993.
– Nhiều Tác Giả, 50 Năm Văn Học Việt Nam Sau Cách Mạng Tháng Tám, nxb Đại Học Quốc Gia, Hànội, VN, 1996.
– Nhiều Tác Giả, Việt Nam, Nửa Thế Kỷ Văn Học, nxb Hội Nhà Văn, Hànội, VN, 1997.
– Nhiều Tác Giả, Lý Luận Phê Bình Văn Học Miền Trung Thế Kỷ XX, nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, VN, 2001.
– Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Tuyển Tập Phê Bình Văn Học Việt Nam (5 quyển), nxb Văn Học, Hànội, VN, 1997.
– Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Tranh Luận Văn Nghệ Thế Kỷ XX (2 quyển), nxb Lao Động, Hànội, VN, 2001.
– Nguyễn Q. Thắng, Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (bộ mới), nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh, Sàigòn, VN, 2006.
– Nguyễn Q. Thắng, Từ Điển Tác Gia Việt Nam, nxb Văn Hóa, Hànội, 1999.
– Northrop Frye, Anatomy of Criticism, Four Essays, 10th printing, Princeton University Press, New Jersey, USA, 1990.
– Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, quyển 3, nxb Anh Phương, Sàigòn, VN, 1965.
– Phan Cự Đệ (chủ biên), Trần Đình Sử, Đinh Văn Đức, Mã Giang Lân, Phan Trọng Thưởng, Tất Thắng, Bùi Việt Thắng, Hà Văn Đức, Bích Thu, Lê Dục Tú, Văn Học Việt NamThế Kỷ XX, nxb Giáo Dục, Hànội, VN, 2005.
– Phương Lựu, Lý Luận Phê Bình Văn Học, nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, VN, 2004.
– Tao Đàn Tạp Chí, Sưu tập trọn bộ tạp chí văn học của nhà xuất bản Tân Dân, nxb Văn Học, Hànội, VN, 1998.
– Terry Eagleton, Literary Theory, An Introduction, 2nd Edition, The University of Minnesota Press, Minnesota, USA, 1996.
– Thanh Lãng, 13 Năm Tranh Luận Văn Học Việt Nam (3 quyển), nxb Văn Học, TP Hồ Chí Minh, VN, 1995.
– Tố Hữu, Xây Dựng Một Nền Văn Nghệ Lớn Xứng Đáng Với Nhân Dân Ta, Với Thời Đại Ta, nxb Văn Học, Hànội, VN, 1973.
– Trần Đình Sử, Lý Luận, Phê Bình văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX, nxb Giáo Dục, Hànội, VN, 2005.
– Trần Văn Giáp, Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam, nxb Văn Học, Hànội, VN, 2000.
– Trịnh Bá Đĩnh, Phê Bình Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX, tạp chí Nhà Văn số 3, 2001.
– Tri Tân Tạp Chí, Phê Bình Văn Học (sưu tập tư liệu), nxb Hội Nhà Văn, Hànội, VN, 1999.
– Trường Chinh, Về Văn Hóa và Nghệ Thuật (2 quyển), nxb Văn Học, Hànội, VN, 1986.
– Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại, nxb Tân Dân, Hànội, VN, 1942, nxb Thăng Long tái bản, Sàigòn, VN, 1960.