Hiện tại, Việt Nam đang phải trực diện trước hai vấn nạn lớn trong lãnh vực môi trường là ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước ở khắp nơi, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Đứng trước nạn gia tăng dân số và hiện tượng dân chúng nhập cư vào các thành phố lớn để mưu sinh, vấn đề nước rỉ từ rác và rác gia cư là nguyên nhân chính tro ng việc ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm.
Như mọi người đếu biết, tình trạng rác gia cư và nước rỉ từ rác là một trong nhiều vấn đề cấp bách cần phải giải quyết ở Việt Nam, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Sài Gòn, v.v… Cho đến nay, mặc dù có những cố gắng về phía chính quyền để giảm bớt áp lực của vấn đề như: việc thiết lập các bãi rác mới, và dự án mới nhất là dự án khu liên hợp xử lý chất thải Đa Phước, Bình Chánh. Tuy nhiên, rác vẫn là một vấn nạn lớn của Tp HCM, và tổng lượng rác thải hàng ngày ở nơi nầy vào khoảng 6.000 m3/ ngày.
Thành phố luôn luôn bị động, vì các bãi rác mới vừa khánh thành thì lại phải chuẩn bị bãi rác mới khác và tình trạng của các nhà máy xử lý nước rỉ càng tệ hại hơn nữa vì khả năng không đủ đáp ứng khối lượng khổng lồ nước rỉ phát thải từ các bãi rác. Do đó, mặc nhiên, nước rỉ sẽ mau chóng thấm vào trong đất và vào mạch nước ngầm. So với vũ lượng ở Việt Nam từ 1.800 đến 2.000 mm/năm, lượng nước rỉ phát thải sẽ gấp nhiều lần hơn so với nước rỉ ở các quốc gia khô hạn như California và nhất là do khí hậu ẩm thấp, quá trình phân hủy của rác xảy ra nhanh hơn và phóng thích nước rỉ nhiều hơn. Vì vậy, vấn nạn trên trở nên ngày càng cấp bách nhất là trong mùa mưa.
Đứng về phương diện thu nhận rác từ người dân, thùng chứa rác sinh hoạt ở Tp được các công ty rác lấp đặt ở nhiều nơi, đặc biệt ở các giao lộ. Thùng chứa có dung tích khoảng 2 m3. Ở các chợ thì có thùng lớn hơn, từ 10 đến 20 m3. Tuy nhiên, vì mật độ dân chúng quá lớn, số lượng rác rơi rãi khắp các mặt đường chung quanh các thùng rác vào mỗi khi chiều xuống. Phu bốc rác phải làm việt cật lực suốt đêm để giải tỏa số lượng rác nầy. Điều nầy là một trong những sự việc vừa làm mất vệ sinh và vừa làm giảm đi cảnh quan của thành phố đối với những khách du lịch, nhất là người ngoại quốc đến Việt Nam viếng thăm.
Sau đó, rác được các xe tải rác có máy ép rác di chuyển đến các bãi rác nằm ở ngoại thành như Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Thủ Đức v.v…. Nên nhớ ngoài rác sinh hoạt gia cư, các bãi rác trên còn phải chứa thêm chất thải y tế và chất thải công nghiệp nữa.
Theo những thông tin trên báo chí, có nhiều bãi rác được thiết kế và lấp đặt nhà máy xử lý nước rỉ, tiêu tốn hàng chục triệu Mỹ kim, nhưng vì việc thiết kế vướng phạm nhiều lỗi lầm kỹ thuật, cho nên nhiều nhà máy phải bị đóng cửa chỉ sau một thời gian ngắn sau khi khánh thành. Điển hình như nhà máy xử lý nước rỉ Đông Thạnh, Hốc Môn, tiêu tốn 32 triệu Mỹ kim, được khánh thành ngày 7/6/2002 và vận hành chưa đến một tháng thì phải đóng cửa vĩnh viển. Nước rỉ tại bãi rác nầy, tuy đã đóng cửa không thu nhận rác nữa, từ đó đến nay vẫn là nước rỉ không được xử lý chứa nhiều hợp chất hữu cơ và kim loại độc hại, cùng các hoá chất bảo vệ thực vật đã ngấm sâu vào lòng đất hoặc chảy thẳng vào sông Rạch Tra vì đã tràn bờ ở hai hồ chứa hiện tại. Nước rỉ từ sông Rạch Tra chảy thẳng vào sông Sài Gòn và sông nầy đã biến thành dòng sông đen nhất là vào mùa khô. Qua phân tích, một số rau đậu trồng chung quanh vùng Hốc Môn đã có chỉ dấu nhiễm hoá chất độc hại như arsenic , mangan, và một số hợp chất hữu cơ chứa chlor khác.
Bãi rác Gò Cát. Sau 4 năm xây dựng, trạm phát điện công nghệ xử lý rác Gò Cát đã chính thức khai trương ngày 2/8/2005 với số vốn đầu tư tương đương 17 triệu Mỹ kim. Khí methane thải hồi từ sự phân hủy của rác được thu hồi và biến thành điện. Ngày 20/7 vừa qua, trạm đã chuyển 125.000 KW điện vào lưới điện quốc gia với giá bán là 634 Đồng/KWgiờ. Còn công ty xử lý rác Gò Cát chỉ bảo đảm nước rỉ rác được gạn lọc sơ bộ, và tẩy mùi trước khi trả về tự nhiên (nghĩa là đi vào sông rạch). Như vậy tại nơi nầy nước rỉ chỉ được gạn lọc và khử mùi chứ không tẩy rửa được hữu cơ và kim loại độc hại.
Tại bãi rác Phước Hiệp cũng có dự kiến thiết lập nhà máy thu hồi khí methane và gạn lọc nước rỉ trong khoảng thời gian sắp tới. Cũng như ngày 11/9 vừa qua, Phó CT UBND Tp HCM (Sài Gòn) Nguyễn Văn Đua đã khai mạc lễ khởi công xây dựng Nhà máy xử lý chất thải rắn do Cty Viet Srar thuộc tổ hợp Lemna, Hoa Kỳ đầu tư. Đây là một nhà máy xử lý lớn với diện tích 70 mẫu tây, có khả năng xử lý 1.200 tấn rác/ngày, với số vốn đầu tư 36 triệu Mỹ kim. Hệ thống xử lý nầy tương tự như ở Gò Cát nhưng không có nhà máy thu hồi khí methane để biến thành điện năng.
Và gần đây nhất, Cty Liên hợp Đa Phước sẽ khánh thành vào ngày 1/11/2007 trong đó hệ thống xử lý nước rỉ, hệ thống thu hồi khí methane và hoán chuyển thành điện năng, cùng nhà máy biến phân compost cũng đã được ghi trong dự án.
Nhìn chung, tình trạng cùng cung cách quản lý và xử lý nước rỉ ở các bãi rác ở thành phố Sài Gòn cũng như ở các thành phố lớn khác vẫn chưa được lưu tâm đúng mức, vì với cung cách xử lý như trên, các hoá chất độc hại vẫn còn tồn đọng trong nước rỉ và xâm nhập vào nguồn nước tạo nên ô nhiễm môi trường nước chung quanh.
Để có một khái niệm về vấn đề xử lý nguồn nước rỉ từ rác, một phương pháp xử lý nước rỉ đã được hầu hết các quốc gia Tây phương áp dụng hiện tại. Đó là phương pháp vi sinh biomass (xin xem bài Nhà máy xử lý phế thải của cùng tác giả). Phương pháp nầy dựa theo nguyên tắc dùnh vi sinh vật hiện có trong nước rỉ, kết hợp với than họat tính, và bồn xử lý phaỉ được bơm không khí liên tục để kích thích tăng trưởng các vi sinh vật trên. Với phương pháp nầy, vi sinh vật và than hoạt tính sẽ phân hủy các hợp chất hữu cơ nhẹ và hấp thu kim loại độc hại có trong nước rỉ. Và sau khi đã được xử lý, nước rỉ có thể được phát thải vào tự nhiên và không ảnh hưởng đến mội trường chung quanh.
Lý do tại sao tình trạng các nhà máy xử lý của Việt Nam hiện tại vẫn được thiết lập một cách tạm bợ và không hiệu quả là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đưa đến. Trước hết, có thể nói nhận thức của các cấp quản lý môi trường về ô nhiễm chưa đạt đến tầm quan trọng đúng mức; thứ đến là sự hạn chế của ngân sách quốc gia chi dùng cho công tác trên.
Như chúng tôi đã cảnh báo nhiều lần trên nhiều bài viết khác nhau, vấn đề phát triển kinh tế quốc gia cần phải được cân bằng trong với việc bảo vệ môi trường. Hiện nay, thành thực mà nói, dường như lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa lưu tâm đến vấn nạn ô nhiễm môi trường đúng mức, và chính vì thế mà việc bảo vệ môi trường không nằm trong các ưu tiên hàng đầu trong việc thiết lập chính sách quốc gia.
Từ đó, đưa đến những hệ lụy khác là: 1- Ngân sách cần chi tiêu cho các bãi rác cũng như nhà máy xử lý còn hạn chế, 2- Nhân sự chuyên môn và quản lý không đáp ứng kịp thời với nhu cầu gia tăng của rác sinh hoạt gia cư do sự gia tăng dân số tạo ra.
Thêm nữa, tầng lớp nhân sự chuyên môn và cán bộ quản lý cũng không được đào tạo chuyên sâu cả về phẩm cũng như về lượng so với tỷ lệ dân số tăng trưởng theo thời gian ngõ hầu giải tỏa những tồn đọng ở nhiều năm trước của vấn nạn nầy. Tình trạng trên vẫn không thay đổi, mặc dù trong những năm gần đây, Tp Sài Gòn đã nhận được rất nhiều trợ giúp kỹ thuật và tài chánh từ phiá chính phủ Hoà Lan và Đan Mạch trong công nghệ xử lý rác.
Một điểm cần lưu ý nữa là, công tác giáo dục và hướng dẫn quần chúng cũng còn lơ là trong việc hạn chế lượng rác thải cũng như phân loại và thu hồi các loại rác có thể tái xử đụng được như thu gom bao bì plastic, giấy, chai lọ… Công tác sau nầy sẽ làm cho công nghệ xử lý nước rỉ dễ dàng và mau chóng hơn.
Cũng cần nến biết thêm là tại thành phố Sài Gòn, ngoài vấn đề rác gia cư, và nước thải sinh hoạt, hệ thống sông ngòi, kinh rạch ở nơi nầy đã bị ô nhiễm trầm trọng và mức độ ô nhiễm ngày càng tăng thêm. Cộng thêm mức độ ô nhiễm không khí, tiếng động càng làm cho môi trường thành phố trở nên tệ hại hơn, đe doạ trầm trọng đến sức khoẻ người dân sống tại nơi đây. Nếu chính quyền không có biện pháp giải quyết thích đáng vấn đề rác thì trong tương lai, chi phí y tế cho việc chửa trị sẽ cao gấp nhiều lần hơn chi phí cho việc “ngừa bịnh” môi trường nầy.
Mai Thanh Truyết
West Covina 11/2007