Thế thì đời sống ở Saigon trong giai đoạn này ra sao?. Trước hết ta hãy xem mô tả Saigon và cuộc sống ở đây vào các năm 1819-1823 qua quan sát của thuyền trưởng Mỹ John White, người đã đến và sống tại đây một thời gian. Với mục đích tìm hiểu xứ đàng trong, liên hệ ngoại giao để giao thương buôn bán, trung úy hải quân Mỹ John White, năm 1819 trong chuyến viếng thăm Saigon trên tàu Franklin, từ cảng Salem tiểu bang Massachuset, đã cho ta những thông tin giá trị. Salem là một thương cảng sầm uất có tàu buôn và đánh cá voi đi khắp thế giới trong thế kỷ 17-19. Trước khi viếng Saigon và đàng trong, ông đã có đọc sách nói về đàng trong của John Barrow. Với những kinh nghiệm và chứng kiến ở Saigon trong nhiều tháng sống ở đấy, ông đã viết lại một hồi ký được giữ trong kho lưu trữ của hội “Hội hàng hải Đông Ấn của Salem” (East India Marine Society of Salem). Nhưng các bạn của ông khi đọc, họ thấy có những thông tin hữu ích, nên nên đã in thành sách.
Hành trình của tàu Franklin đi từ Salem ngày 2 tháng 1, 1819 là đi xuống Ba Tây, Nam Mỹ, vượt Đại Tây Dương đến mũi Hảo Vọng để đến Batavia (Nam Dương) thuộc Hòa Lan rồi đến Nam kỳ đàng trong. Sau Côn Đảo, Vũng Tàu, đến Cần Giờ; nhưng ở Cần Giờ tàu Franklin gặp khó khăn phải ở đến 5 ngày đợi lấy giấy phép vào Saigon. Khó khăn nhất là từ quan địa phương quấy nhiễu lên tàu lấy đồ, đòi hỏi đồ tặng như rượu, tiền, quà cáp… Nghĩ là tàu phải chờ đợi rất lâu trước khi xin được phép vào cảng Saigon. ông bỏ ra Đà Nẵng (Turon) hy vọng đến Huế để xin được phép. Nhưng khi tới Đà Nẵng, qua tiếp xúc với các quan lại, ông được biết nhà vua đã ra Bắc Hà và qua sự khó khăn về ngôn ngữ truyền thông, ông quyết định đi Phi Luật Tân với hy vọng tìm người thông hiểu tiếng Onam (Cochinchina, đàng trong) rồi sẽ trở lại đàng trong.
Ở Manila, ông cũng ngạc nhiên là hầu như không ai biết về xứ đàng trong, một vương quốc cạnh đấy. Ông chỉ gặp 3 người có chút kiến thức: một người Đan Mạch, đã sống ở Saigon vài năm nhưng vì đã lâu rồi nên không còn nhớ gì nhiều, một thủy thủ già Tây Ban Nha đã từng buôn bán ở sông Cam Bốt (các sông ở nam kỳ như Cửu Long) và có thấy người đàng trong và nghe nói vê xứ đàng trong. Và một ông cha, giáo sĩ, đã từng ở địa phận Huế một thời gian ngắn trong thời nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh, và đã từ đấy thoát về đây. Cả ba không ai biết tiếng Onam và không biết gì nhiều về đất nước này hay cho thông tin hữu ích về xứ sở này. Tuy nhiên họ đều cho biết ý kiến không luận lợi về đặc tính của chính phủ và người dân Onam. Những khó khăn và nản chí mà chính ông đã gặp khi đến đàng trong ở Cần Giờ và Đà Nẵng dường như trở thành hoàn toàn khi nghe những người này nói về đàng trong. Ông sửa soạn đến Canton (Quảng Đông) lấy hàng thay vì lấy ở Manila trên đường về Mỹ thì xảy ra một sự kiện may mắn hi hữu và không ngờ đã làm ý nghĩ viếng đàng trong của ông quay trở lại. Số là khi tàu ông được coi là tàu Mỹ đầu tiên đến Cần Giờ, mong đi ngược dòng sông Đồng Nai viếng Saigon nhưng đã phải ra đi Đà Nẵng, thì một tàu Mỹ khác vài ngày sau tình cờ cũng đến với cùng mục đích. Tàu này là tàu Marmion từ Boston, một cảng gần Salem, do thuyền trưởng Oliver Blanchard điều khiển. Lúc bấy giờ, vị phó vương (tổng trấn Lê Văn Duyệt) nhận được tin là tàu của John White đã có mặt ở sông, nên ông đã gởi một người thông dịch bản xứ, biết nói tiếng Bồ Đào Nha phương đông, đến Cần Giờ với mục đích là truyền thông được với bất cứ tàu nào sau đó đến.
Đúng vào dịp đó, tàu Marmion đến, trên tàu có một thư ký và thủy thủ nói được tiếng Bồ Đào Nha. Sau một vài khó khăn, thuyền trưởng Blanchard được phép vào Saigon trên tàu của làng Cần Giờ. Nhưng ông không thể mua bán gì được vì số tiền vàng (doubloon) Tây ban Nha mà thuyền mang theo không được người Onam biết mặc dầu chúng có giá trị hơn tiền dollar Tây ban Nha. Một vài người bản xứ chịu nhận tiền vàng nhưng với giá rẻ. Thuyền trưởng quyết định không vào cảng để buôn bán vì sẽ trả giá cắt cổ tiền thuế, tặng phẩm, quà cáp. Người Onam bảo đảm với Blanchard là giá đường và các hàng khác rất rẻ, và nếu tàu có mang tiền dollar Tây ban Nha thì sẽ có hàng ngay lập tức. Nhưng vì chỉ có tiền vàng Tây ban Nha nên tàu Marmion quyết định đi Manilla để mua hàng thay vì ở Saigon.
Thuyền trưởng Blanchard bị bệnh và mất khi tàu vừa rời Cần Giờ. Ở Manilla thuyền trưởng John White tàu Franklin gặp người thay thế Blanchard trên tàu Marmion và bàn tính cùng đi trở lại Saigon, sau khi tiền vàng trên tàu Marmion được đổi qua dollar Tây ban Nha ở Manila.
Trở lại Vũng Tàu và Cần giờ lần này ở cửa sông ông thấy nhiều cá heo sông sống ở nước ngọt (fresh water river dolphin) màu hồng (ngày nay như ta biết không còn cá heo sông ở sông Saigon – Đồng Nai nữa, chỉ còn một ít gần tuyệt chủng ở sông Cửu Long), sau vài ngày chờ đợi cuối cùng được phép cho vào cảng buôn bán nhưng với điều kiện là ngoài tiền thuế phải trả do vua chỉ định, phải có tặng phẩm như là thông lệ bắt buộc (gọi là sagouetes, quà triều cống) cho ngài phó vương và các quan lại. Mặc dầu chấp nhận nhưng White muốn gợi lên vấn đề triều cống khi gặp phó vương vì ông không nghĩ đó là thông lệ tốt cho sự buôn bán có lợi cho cả hai bên.
Sau bao nhiêu thăng trầm, tàu Franklin và Marmion cuối cùng cũng vào đến cảng Saigon. John White và đoàn tùy tùng lên bờ đi qua chợ giữa sự tò mò, bu quanh của dân cư, ồn ào đủ loại chó chạy rông, vào thành qua cửa nam để diện kiến vị phó tổng trấn (lúc đó là Huỳnh Công Lý). Ông mô tả như sau, sau khi qua khỏi khu chợ:
“Ở cuối đường đầu tiên, tuy vậy, khung cảnh trở thành dễ chịu hơn. Con đường chúng tôi đi khúc khuỷu che khuất và hai bên đường là hai tường đá chắn, dài khoảng một phần tư dặm qua một dốc ngược vừa phải, che phủ bởi cây xanh, chúng tôi chẳng bao lâu đến một cầu đá, lúc mà tiện dân, hai chân và bốn chân (chỉ chó rông) đã xa chúng tôi; cầu bằng đá và đất, băng ngang qua một hào nước sâu và rộng, dẫn tới cửa đông nam của thành, hay đúng hơn một thành phố quân sự; vì tường của thành, bằng đá và đất, cao khoảng 20 feet (8m), tường dầy vô cùng, bao quanh khu hình tứ giác dài khoảng 3 phần tư dặm mỗi cạnh. Nơi đây là nơi vị phó vương (tổng trấn) và các lãnh binh cư ngụ, và có rất nhiều doanh trại rộng tiện nghi, đủ chứa 50000 binh lính. Dinh hoàng gia ở ngay giữa thành, trên khu dất xanh tươi đẹp rộng khoảng 8 acres (mẫu anh, 0.4 hecta) bao quanh bởi hàng rào cọc cao.“
Dinh hoàng gia xây bằng gạch, nền gạch trên mặt đất khoảng 6 feet (2.5m) được dành cho vua khi đến ngự. Dinh bỏ trống vì vua Gia Long đã chuyển về Huế, nên dinh được dùng làm kho dữ liệu chứa giấy tờ và dấu ấn hoàng gia.
Hình 4. Saigon – Thành Quy (Gia Định thành) 1795, vẽ bởi Jean-Marie Dayot năm 1799. Dayot (tên người Việt gọi ông là Đồng Nai) là một trong những sĩ quan hải quân Pháp (như người em Felix Dayot, Jean-Baptiste Chaigneau, Phillipe Vannier (Lê Văn Lang), Victor Olivier (Ông Tín)) giúp Nguyễn Ánh trang bị hải quân và chỉ huy hai tàu Dong-nai và Prince de Cochinchine tham dự đánh Tây Sơn. J. M. Dayot bị đắm tàu chết năm 1809. |
Đi qua cửa vào dinh tổng trấn, trong dinh, trên bục gỗ quí, giống như gỗ hoàng dương bóng loáng như gương là vị phó tổng trấn.
“Trên bệ cao này, vị phó tổng trấn ngồi chân xếp hai bên kiểu người Á, và vuốt râu trắng lưa thưa; ông là một người già ốm, da nhăn, rất thận trọng mà điệu bộ, mặc dù có nở nụ cười không đáng tin cậy, không cho ta thấy một điều gì công chính và thành thật. Trên các bục hai bên là các quan, lãnh binh đủ chức tước được ngồi xa hay gần nhân vật oai phong đại diện đất nước tùy theo chức hạng.”
Trong thành về phía đông bắc có 6 tòa nhà lớn, bao bọc bởi hàng rào cọc, mỗi tòa nhà dài khoảng 120 feet chiều dài và 80 feet chiều ngang. Đây là những nhà kho chứa lương thực, vũ khí, đạn dược…Rải rác trong thành là các nhóm nhà cho binh sĩ giữa những cây vùng nhiệt đới trông rất đẹp mắt, trong đó có vài bụi cây hương hải ly (castor). Nhiều đường đi rất dễ chịu với hai bên thường trồng các cây bông sứ (palmaria) khi nở hoa trắng vào tháng 10 và tháng 11 tỏa hương thơm xa khắp nơi.
John White cho biết dân số Saigon là 180000 trong đó có khoảng 10 ngàn người Hoa. Số liệu này ông cho biết là từ nguồn thông tin xác đáng và chính thức mà ông nhận được từ cha Joseph và chính từ vị tổng trấn Gia định thành Lê Văn Duyệt khi tổng trấn trở lại Saigon từ Huế không lâu sau khi John White đến Saigon. Ở phía tây của thành phố là hai chùa người Hoa, chùa người Việt (Onamese, chữ dùng của John White chỉ người Việt và Onam xứ sở Việt đàng trong) ở rải rác khắp thành phố. Ở chính giữa thành phố có một nhà thờ do hai giáo sĩ Ý cai quản, họ có vài học trò và nhiều người theo đạo. Theo các giáo sĩ và tổng trấn Gia định thành thì ở nam kỳ (đây chỉ cả miền trung và nam việt nam trừ Đông kinh miền bắc) tín đồ công giáo có 70 ngàn và ở địa phận Đồng Nai là 16 ngàn.
Sau khi diện kiến vị phó tổng trấn, đoàn John White viếng chợ ngoài thành, đi xem đường phố. Ông mô tả chi tiết sinh hoạt, con người đủ loại tầng lớp trong xã hội, cũng như lần trước đi đâu đoàn của ông cũng bị mọi người bu quanh, thích thú tò mò sờ mó đến nỗi khi về thuyền, quần áo mọi người tơi tả.
Trong sách John White nói rõ gạo là sản phẩm chiến lược quan trọng, không ai được xuất cảng, người đi tàu xa chỉ được cung cấp đúng khẩu phần cho thủy thủ đoàn trong thời gian đi mà thôi. Ông thấy một tàu kiểu Siam của người bản xứ trên cạn gần sông, và được biết là thuyền trưởng và nhân viên đã bị tử hình và thủy thủ đoàn bị giam vì đã vi phạm điều luật xuất cảng gạo này. Ông cũng viếng thăm khu đóng tàu ở phía gần sông Saigon và rạch Thị nghè, ông thán phục kỹ thuật đóng tàu và chất lượng của gỗ quí làm tàu từ nguồn tài nguyên trù phú ở đàng trong.
Ông cho biết thành phố Saigon lúc đầu là ở phía cực tây của địa điểm gần thành Saigon. Tức là Chợ Lớn thành lập trước và là Saigon xưa. Vì thế phía Chợ Lớn có những kiến trúc cao tốt đặc sắc hơn. Một vài con đường ở Chợ Lớn được lót bằng đá phiến; các bến tàu làm bằng gạch dài gần một dặm dọc theo sông. Thành Saigon và xưởng hải quân, trừ một vài chòi cho các thợ máy, là duy nhất có cư ngụ ở phần phía đông; nhưng sau khi chiến tranh Nguyễn Ánh – Tây Sơn chấm dứt, dân cư phát triển nhanh chóng về phía đông cho đến khi cả hai nơi trở thành một thành phố, lên đến bên kia rạch Thị nghè bao bọc thành Saigon và công xưởng hải quân.
Cũng theo John White ở Chợ Lớn có con kênh vừa được đào:
“Ở phía tây của thành phố, một sông hay kênh vừa được đào (thật ra chưa hoàn tất khi chúng tôi đến) dài 23 dặm Anh, nối với một nhánh của sông Cam Bốt, từ đó thông thương qua đường thủy với Cam Bốt, mà người Việt gọi là Cou-maigne (Cao Miên). Kênh này sâu 12 feet (5m), rộng 80 feet (32m), được đào xuyên qua rừng đầm lầy lớn bao la, trong vòng 6 tuần. Hai mươi sáu ngàn dân công, ngày và đêm đào công trình vĩ đại này, với 7 ngàn người chết vì cực nhọc hay bệnh. Hai bên bờ kênh này đã đựợc trồng các cây hoa bông sứ, là cây mà người Việt rất thích.“.
Kênh này chính là kênh An Thông Hà do Huỳnh Công Lý đứng ra huy động xây theo lệnh vua Gia Long. An Thông Hà, thay thế Kinh Ruột ngựa (Mã Trường Giang) đã bị cạn lấp, nối rạch Tàu Hủ xuống sông Rạch Cát và từ đó xuống Cần Giuộc, Tân An và sông Vàm Cỏ và các tỉnh miền Tây.
Cuôi cùng sau khi tổng trấn Lê Văn Duyệt hoàn thành công tác ở Huế (năm sau 1820 thì vua Gia Long mất) trở về Saigon, John White cũng được diện kiến với Lê Văn Duyệt trong dịp bá quan văn võ nghênh đón ông tổng trấn và ngày hôm sau tại chính dinh thự của ngài tổng trấn trong bữa tiếp chuyện và khoãn đãi dành riêng cho phái đoàn ông John White
“…Đúng thời điểm hẹn, chúng tôi đến dinh phó vương, ngài phó vương (vice-roy, chỉ Lê Văn Duyệt) đã có chủ đích trong dịp này không tiếp khách bản xứ, chỉ có những nhân viên thân cận giúp việc trong dinh ông, độ khoảng 40 người và 4 thông dịch viên của chính quyền là Antonio, Mariano, Joseph và Vicente, họ là người bản xứ theo đạo. Chúng tôi được tiếp đón rất thân tình và chi li. Ngài phó vương lúc này đã bỏ qua tất cả những “hãnh diện, nghi lễ, nghi thức” của chức vụ ngài, ngài nói chuyện thoải mái tự do với chúng tôi; và sự háo hức tò mò của ngài, sự chọn lựa sáng suốt đúng đắn các đề tài trong sự tìm hiểu thẩm tra, chứng tỏ ông có một đầu óc mở rộng, thúc đẩy bởi một sự khao khát không nguôi về tri thức và thông tin; và những lời bình chính chắn của ông trong nhiều đề tài đã thuyết phục chúng tôi về khả năng thiên tư cao độ của ông. Chiến tranh, chính trị, tôn giáo, phong tục, cách xử sự của các nước Âu châu là những đề tài mà ông rất chú trọng; và khi nghe là tôi từng phục vụ trong hải quân ở nước tôi, ông đặc biệt tập trung tìm hiểu hỏi tôi về các chiến thuật hải quân và chiến trận hàng hải. Khi sự tò mò của ông đã được thỏa mãn về các chi tiết này, ông vui vẻ khen ngợi sự thông minh, kỹ năng và năng lực của người “Olan” (Tây dương), và, với một cảm xúc buồn tủi, ông lấy làm tiếc phàn nàn về tình trạng còn thiếu văn minh của nước ông.
Sau hai giờ đàm đạo rất thích thú, ông thông báo chúng tôi là có một buổi tiệc giải lao đãi chúng tôi theo kiểu Âu, dưới sự điều hành của Antonio, thông dịch viên trước đây đã ở Macao. Trên một bàn nhỏ ở giữa sảnh đường có đầy các dĩa, chén chứa đủ loại thức ăn Á châu, gà, vịt luộc, cơm, khoai, khoai lang, heo nướng, cá, bánh và cá giầm muối… Antonio đã tìm được ở đâu đó, có thể từ Pasqual, hai con dao và một nĩa cũ, để chúng tôi chia nhau dùng để cắt thịt, và sau đó dùng các lông nhiếm để cắm đồ ăn và bỏ vào miệng.
Ngay lúc đầu buổi tiệc, ngài phó vương đã thân tình chăm sóc chúng tôi, cầm chai rượu mà chúng tôi đã tặng ngài trong một tay còn tay kia cầm một ly, ông mời chúng tôi uống không ngưng nghỉ cho đến khi chúng tôi van xin được tha, lúc đó ông mới cho phép chúng tôi nghỉ mệt khỏi sự hiếu khách nhiệt thành, nhưng cản trở của ông. Tuy nhiên, vì sự băn khoăn muốn cho chúng tôi được tận hưởng tất cả những cao lương thú vui trước mắt chúng tôi, ông đã tiếp tục ép chúng tôi ăn uống, và ông đã tự tay cầm đưa vào miệng chúng tôi đủ loại thức ăn, cá, gà, cơm, cơm chiên, cà ri, thịt heo, khoai, kẹo bi, v.v… không cần thứ tự, cho đến khi mắt chúng tôi bắt đầu lồi ra khỏi tròng, và nước mắt chảy liên tục xuống má chúng tôi. “
Sự hiếu khách, luôn mong học hỏi, phát triển hiện đại đất nước của Lê Văn Duyệt lại là tương phản với hầu hết những quan lại, nhân viên viên chính quyền dưới quyền ông ở Gia Định.
John White đã kể lại các chi tiết về hành xử của quan lại, nhân viên cũng không khác như tình hình ngày nay là bao. Tàu Franklin và Marmion đậu tại cảng và phải trả thuế tính theo trọng tải, được ước lượng qua chiều ngang gần mũi tàu. Tàu Franklin được tính ngang gần mũi tàu 17.6 covids (1 covid khoảng 40cm) hay 176 tấc (đơn vị thời đó) với giá 160 quan (1 quan là 10 tiền, 1 tiền là 60 đồng, đồng làm bằng kẽm (zinc) có lỗ hổng ở giữa để tiện cho việc xâu lại thành bó. Ngoài ra còn có “bạc đính” tức thỏi bạc lớn bằng ngón tay út và “bạc nén” lớn nặng 375gr có giá trị 16 tiền (piaster) mexicaine, mỗi tiền mexicaine là 7 quan (29 )).
Giá trị 1 quan tương đương với 50 cent dollar Tây ban Nha (Spanish dollar). John White than về chi phí tặng phẩm cho quan lại vua chúa, quà cáp cho đủ loại nhân viên từ thuế vụ đến lãnh bình. Riêng thuế lên đến 2700 dollars chỉ riêng tàu Franklin. Vào 9 giờ sáng, trước khi đo đạc để trả thuế, nhân viên thuế đòi phải có rượu uống trước. Sau khi thâu thuế, nhân viên thuế vụ đòi hỏi được đãi ăn, nhậu. Đến 12 giờ trưa, sau khi đã say sưa họ ra về, để lại cho thủy thủ đoàn lau rửa dọn dẹp, mà khó rửa nhất là các bãi nước trầu đỏ ghê tởm mà họ phun từ miệng xuống đầy sàn tàu.
Những người đầu tiên muốn tiếp xúc và buôn bán hàng hóa với ông là những thương gia phụ nữ, ông gặp họ khi ông đến nhà của một người Tagal (gốc Phi Luật Tân, đảo Luzon) nói tiếng Tây ban Nha tên là Pasqual định cư ở Saigon khi lấy một người Việt. Pasqual trước đó đã lên tàu Franklin mời đoàn của ông John White đến thăm nhà. John White cho biết đa số các thương gia môi giới hàng là phụ nữ và họ giỏi hơn đàn ông.
Trong những lần thương lượng với các nhà buôn để mua đường, ông đã gặp rất nhiều khó khăn về sự thiếu thành thật. Các nhà buôn hôm nay đồng ý giá này nhưng không lâu sau đó thấy có cơ hội lại đưa giá cao hơn nhiều, hứa sẽ có mẫu hàng nhưng không có, luôn luôn tìm cách bóp chẹt…
Ông đã gặp phó tổng trấn (chỉ Huỳnh Công Lý) xin giúp để nhanh chóng làm việc, nhưng sau nhiều lần tiếp thì ông mới biết là chính vị phó tổng trấn đã thông đồng và cùng làm chung với các nhà buôn để bắt chẹt, lừa dối và tống tiền gây giá cao so với giá ở chợ, cùng với các quan chức với các thủ tục quan liêu làm tiền bằng mọi cách. Khi phái đoàn John White cho ý kiến về tư cách của các nhà buôn
“ Có thể ông ấy cảm thấy bị đụng chạm nao núng; nhưng làm sao mà chúng tôi có thể biết, hay đoán là, ngài ‘Oung-quan tung keon’ (ông quan tổng trấn), người giữ chức vị thứ hai ở Đồng Nai, và đã một lần có vinh dự đại diện cho nhà vua oai nghiêm ở triều đình Bắc Kinh (đây là sự kiến có thật), thực ra là một người nhỏ mọn buôn đường và các hàng khác, thông đồng với các con buôn lặt vặt tầm thường khác để hưởng lợi bằng sự lừa gạt và tống tiền những người nước ngoài, đã dùng hết sức của mình để đến từ xa mong đáp lại những thuận lợi và vui thú trong cuộc trao đổi thương mại thân thiện với họ ?…
Sau bữa ăn ngắn, ông ta đứng lên khỏi ghế và trở lại bục ngồi, và ngay lập tức hỏi là chúng tôi có những đồ gì đặc sắc lạ không để cho ông xem; chúng tôi trả lời là không có, vì biết được hậu ý của ông ta; nhưng một trong những người thông ngôn (những người này, nói ra, đều là đểu cáng không biết xấu hổ) nói với ông ta là nó đã thấy trong phòng tôi một khẩu súng săn hai nòng, nên bắt buộc tôi phải đưa ra; sau khi chiêm nghiệm thán phục tài nghệ khéo léo của cây súng; ông ta tỏ ý hạ cố muốn mượn cho chuyến đi săn ngày mai. Tôi đành phải tuân theo ước muốn một cách miễn cưỡng hết sức của tôi; và may mắn đây là cơ hội mà tôi rời nó cuối cùng, không có cơ hội nào khác sau này, bởi vì tôi không bao giờ thấy nó lại nữa, ngay cả những cố gắng sau này trong lúc còn ở đây, tôi cũng không thấy một thoáng của nó, ngài phó tổng trấn tự cho rằng đây là một món quà.“
Ngày hôm sau, đoàn đến gặp phó tổng trấn về thủ tục trả thuế tàu đậu tính theo tiền Việt. Đoàn muốn trả tiền thuế bằng đô la Tây Ban Nha theo giá thị trường ở chợ nhưng vị phó tổng trấn bắt là phải trả đô la theo giá chính thức mà xê xích 1 đô la là 18 tiền chính thức so với 19 tiền ở chợ. Đoàn thương lượng tìm cách trả thẳng bằng tiền Việt, cuối cùng vị tổng trấn cũng miễn cưỡng đồng ý. Đoàn ông White ra chợ đổi tiền và sâu vào thành bó trong các bao mang đến ngân khố trả mới biết là họ tìm cách làm khó khăn, đóng cửa, đếm sai gian trá, kéo dài thì giờ và ngay cả ăn cắp… Về nhà trọ mướn thì tối đến bị ném đá liên tục mà hướng là từ phía nhà của vị phó tổng trấn bên kia kênh.
“Sau khi trả thuế, phái đoàn chúng tôi đến gặp phó tổng trấn với mục đích bàn về vấn đề qui luật triều cống. Vị phó tổng trấn tiếp ở nhà trong một phòng lớn có 1 thư viện nhỏ, một trường kỷ bên cạnh một bục nhỏ mà vị tổng trấn ngồi và một vài đồ đạc kiểu Trung hoa. Ở đây không có lính hậu vệ mà chỉ có hai cậu bé giúp việc, một cậu đứng quạt cho vị phó tổng trấn. Ông phó tổng trấn tiếp khách ân cần mời phái đoàn ngồi với nước trà, trầu và đồ ngọt. Sau khi trả lời thỏa mãn sự tò mò của ông qua các câu hỏi về Âu châu mà tổng trấn cũng coi Mỹ như là thuộc châu này (gọi chung không phân biệt là người ‘Olan’), chúng tôi nêu vấn đề mong muốn không có triều cống. Ông cho chúng tôi biết là có một luật cố định và không thể thay đổi của vương quốc về vấn đề này, mà ông không dám bãi bỏ hay tránh được; và ngay cả nếu ông ta muốn nhưng vì có quá nhiều các giới chức sắc khác cũng có can dự, nên có cố gắng cũng là vô vọng.
Sau buổi tiếp chuyện khoảng ba phần tư tiếng đồng hồ, lúc chúng tôi đứng lên ra về thì ông nói gì đó với các người thông dịch, muốn chúng tôi ngồi lại. Các thông dịch nói với chúng tôi là tổng trấn sửa soạn gởi người mang thơ đến cho vua, với các giấy tờ chính thức liên quan đến sự việc chúng tôi đến đây, và muốn biết là chúng tôi có muốn gởi nhà vua quà tặng gì không. Chúng tôi trả lời là có, và biết rằng có một sĩ quan người Pháp đang phục vụ cho vị vua này, chúng tôi xin phép được viết cho vị sĩ quan này. Ông phó tổng trấn chấp nhận ngay. Chúng tôi sau đó ra về húa là sáng sớm mai quà và lá thơ sẽ có sẵn.
Khi chúng tôi trở về tàu, chúng tôi gặp một viên quan quân nhu đi cùng với một viên chức khác; người viên chức này mời chúng tôi đến nhà ông, cũng gần tàu. Sau khi mời chúng tôi nước trà, trầu, etc.., chủ nhà mang ra một chai không chứa mù tạc với hình huy hiệu Vua nước Anh trên tờ nhản hiệu của chai và hàng chữ lớn “Best Durham Mustard” ở phía dưới, và trình thêm một miếng giấy mà trên đó có một phệt dài gì đó. Vệt đó giống như thuốc cao của người bào chế thuốc nhưng màu đen, đã khô không còn mùi hay vị nữa. Cái này họ cho biết là mẫu mà chai này trước đây đã chứa, và hỏi chúng tôi có thứ này trên tàu chúng tôi không. Chúng tôi trả lời là có, và chúng tôi đã mang một vài thứ này để cho vua. nghe vậy, họ rất vui và nói chúng tôi là nhà vua cực kỳ thích thứ này, và đã gói cẩn thận gởi chai không và giấy có hàng mẫu đến từ Huế vài tháng trước như là mẫu để đưa cho người nước ngoài mà nhà vua muốn có hàng như vậy. Đây cũng là mẫu hàng mà họ đã đưa cho chúng tôi hồi ở Đà Nẵng tháng 8 năm ngoái, vì thế khi ở Phi Luật Tân chúng tôi đã mua nhiều hàng này trước khi trở lại Cochinchina. Trở lại tàu, chúng tôi soạn lá thư viết cho ông Vannier, đề đốc của nhà vua ở Huế, nhờ ông đại diện chúng tôi cố gắng thương thảo giảm lượng quà cáp triều cống (sagouète); và trao cho nhà vua bảo kiếm kèm theo bức thơ này.
(chú thích dịch giả: Vannier và các sĩ quan Pháp như Chaigneau, Dayot theo Gia Long sau khi được Bá Đa Lộc tuyển ở Pondicherry vừa khi cách mạng Pháp bùng nổ. Vannier đã từng tham dự chiến tranh cách mạng dành độc lập ở Mỹ. Sau này, cũng như Chaigneau, làm quan ở Huế dưới triều Gia Long. Cả hai đều có vợ Việt, con trai Chagneau là Đức Chaigneau, tác giả sách “Souvenirs de Hue”. Không lâu sau khi Minh Mạng lên ngôi với chính sách cấm đạo và thù ghét người ngoại quốc, Chaigneau và Vannier gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng cả hai mang gia đình hồi hương trở về Pháp)
Sáng ngày mai, những thông dịch viên và vài viên chức đến đòi hỏi và được trao tặng phẩm cho vua. Họ hết sức vui với cái sáng long lanh rất đẹp, và trang trí của lưỡi gươm, và cán gươm lộng lẫy, các câu thốt ra, “Kaa”, “Kaa” (chú thích dịch giả: có lẽ là “kìa”, “kìa”) tỏ vẻ thán phục và ngạc nhiên được lập đi lập lại nhiều lần. Lá thư gởi ông Vannier sau đó được đưa cho họ cùng với một chục chai mù tạc cho nhà vua, khi họ đi, mà họ chỉ ra đi sau khi đã xin và uống rất nhiều cốc rượu.”
Trong thời gian ở Saigon, đoàn ông White mướn một nhà, do một góa phụ người Việt, vợ một thương gia Bồ ở Macao làm chủ. Nhà ở dọc bờ một con kênh trong Chợ Lớn nơi có nhiều người nước ngoài trú khi họ đến Saigon vì nơi đây có nhiều hàng hóa, kho chứa hàng và nhà buôn. Ông đã đi thăm những kho chứa hàng của người Hoa dọc theo kênh để xem nhưng gì có thể mua được. Đối diện với nhà mướn này bên kia kênh là nhà của vị phó tổng trấn (Huỳnh Công Lý). Ông được biết là khi tổng trấn (Lê Văn Duyệt) ra Huế để trả lời về các vu khống nặc danh là lạm dụng chức quyền, vị tổng trấn thay vì bị khiển trách lại được vua Gia Long an thưởng, trở về an toàn sau khi đã giải bày tình hình.
Trong hồi ký của John White viết về vị tổng trấn (Lê Văn Duyệt) và phó tổng trấn (Huỳnh Công Lý), ta thấy rõ đặc tính, tư cách và tầm nhìn của hai người hoàn toàn khác nhau như một trời một vực. Về chức vụ, Lê Văn Duyệt là tổng trấn và là quan võ, trong khi Huỳnh Công Lý là phó tổng trấn và là quan văn. Lê Văn Duyệt rất chính trực, cai trị nghiêm minh đôi lúc có phần độc đoán thì Huỳnh Công Lý rất tham ô, lươn lẹo và hèn nhát. Lê Văn Duyệt hiểu rõ tình hình trong và ngoài nước (ông biết rõ diễn biến tình hình của Napoleon và chính trị ở Âu châu đương thời, hàng hải, khoa học kỹ thuật hiện đại… và thường đàm đạo với những người nước ngoài), mong muốn phát triển và khuyến khích thương mại, thường than phiền về sự yếu kém, suy nghĩ thấp và thiển cận nhưng vẫn tự mãn của người Việt trong khi Huỳnh Công Lý thì lại hoàn toàn ngược lại. Không lạ gì mà sau này Lê Văn Duyệt đã xử tội Huỳnh Công Lý, dù lúc đó Huỳnh Công Lý là cha vợ của vua Minh Mạng.
Qua nhiều thử thách và kinh nghiệm, ông nói về tính cách cá biệt của người Cochinchina trong sự giao dịch buôn bán như sau:
“Họ hoàn toàn dựa vào lòng tin cậy. Luôn muốn gạt và tìm lợi thế trên chúng tôi, sự kiên trì bướng bỉnh cố được hơn bằng cách thay qua đổi lại và bằng các thủ đoạn, mà thật ra họ có thể dễ dàng đạt được bằng sự thoáng mở trong suốt và thỏa thuận công bình; những thủ tục, hình thức nhiêu khê trong đủ loại giao dịch thương mại, cho đến những giao dịch tầm thường nhất; sự bất định trong sự đồng ý coi như là sau cùng sau thương lượng (với hy vọng mỏng manh sẽ làm người mua hết kiên nhẫn, và làm người mua phải trả thêm một chút, cũng đủ để làm vô hiệu những qui định hợp đồng bằng miệng), và không có đường khiếu nại, trừ khi có hợp đồng được ghi ra giấy, mà nói ra không bao giờ có được, cho đến khi mọi phương thức được dùng, mọi cách lạm thâu ép buộc được đưa ra và dùng hết sức để lợi hơn một chút ít; những phiền nhiễu này cộng với sự tham lam, không có niềm tin, độc tài, và đặc tính chống ghét thương mại của chính phủ, cho đến khi nào mà các cơ nguyên này vẫn còn, sẽ làm cho Cochinchina (xứ đàng trong) là một nước ít được ưa thích nhất cho những nhà thám hiểm thương mại. Những lý do này cũng làm cho người Nhật từ bỏ thương mại: họ đã đẩy những người Bồ Đào Nha ở Macao ra khỏi xứ, chuyển thương mại qua những kênh khác, và nhanh chóng hàng năm giảm thông thương với Trung Quốc và Siam. Những người có thiện ý, những nhà doanh nghiệp kỹ nghệ, và nói chung cả thế giới văn minh, có thể thấy tình trạng khốn khổ hiện nay của một đất nước đẹp trời cho này, không có gì hơn là tiếc và buồn cho nó.”
(chú thích dịch giả: Lúc này Nhật vẫn còn bế quan tỏa cảng chống thương mại)
John White kể lại ngày cuối ở Saigon trước khi hai tàu Franklin và Marmion nhổ neo ra đi. Qua những gì ông viết trong nhật ký, ta thấy tình cảm quí trọng của ông cho vị tổng trấn Gia Định thành, Lê Văn Duyệt sau nhiều tháng sống ở đây, chứng kiến bao nhiêu thăng trầm và kinh nghiệm với nhiều tầng lớp trong xã hội:
“Sau khi trả tiền hết các đòi hỏi, chúng tôi đến gặp phó vương để từ giã và lấy các chữ ký cho giấy tờ để chúng tôi ra đi cũng như biên nhận thuế tàu neo tai cảng Saigon, quà triều cống, v.v… Ngài phó vương bày tỏ rất hối tiếc về những gì chúng tôi đã gặp khó khăn khổ sở ở đây, và than phiền về sự mong muốn ông có được quyền lực để diệt hết những nguyên cơ của những sự than van của chúng tôi, ông mong rằng sẽ được gặp lại chúng tôi sớm lần nữa ở Saigon, và nói lời từ giã chúng tôi với nhiều xúc động và quan tâm.
Cảm tưởng sau khi giã từ con người vĩ đại này, mang đến trong lòng tôi một sự hối tiếc vô cùng là tình huống đã không trao gậy trị vì của bán đảo tốt đẹp này vào tay ông, một người biết hơn nhiều làm sao mang nước này thành một nước vinh quang và hạnh phúc, hơn vị vua độc tài hiện nay, mà con tim ích kỷ chỉ đập để đáp ứng với cái đầu óc lạnh và dễ sai trái bao quanh bởi một mũ miệng vương quyền.
Bây giờ là lúc chúng tôi đi theo vị quan quân nhu, và hai vị quan khác đến điện hoàng gia, vào một phòng rộng rãi và nghiêm trang với nền nhà gỗ đánh bóng. Trên tường, ở ba bên treo các màn chiếu và ở mặt thứ tư là một ngăn chia bằng gạch tráng vôi, ngăn với một phòng tiếp khách (saloon) rộng hơn mà chúng tôi được dip ghé mắt nhìn vào. Chúng tôi không thấy trong đó có gì đặc biệt; ngoại trừ một tủ lớn bằng gỗ hồng mộc, còn lại hoàn toàn không có đồ đạc hay vật cố định nào, gian nhà tối và ẩm hầu như hoàn toàn đóng lại. Từ cái tủ trên, một hộp bằng gỗ mun trang trí đẹp được lấy ra, chứa những con dấu lớn được ấn trên các giấy tờ của chúng tôi chỉ với sự hiện diện của ba hay bốn người lính canh gác đi chậm và yên lặng qua lại dưới ánh sáng yếu ớt của hoàng hôn trong điện cô đơn này.
Sáng ngày hôm sau, 30 tháng 1 (1820), chúng tôi nhổ neo và ra sông. Ngày kế, dòng nước xiết làm tàu Marmion trôi tới một giải đất ngầm như đã đề cập trước đây khi vào Saigon, bắt buộc tàu phải thả neo chờ thủy triều lên. Khi đi qua ‘Seven Mouths” (“bảy miệng”, khúc sông Đồng Nai có nhiều cửa rạch chảy ra biển), chúng tôi lại nghe tiếng hòa tấu của đàn cá dưới lòng tàu. Và ngày 1 tháng 2 lúc 8 giờ sáng chúng tôi thả neo đối diện với Cần Giờ, và thả xuống hai người lính đi kèm chúng tôi từ Saigon, và tiếp một quan văn ở Cần Giờ. Tôi cũng nên nói ở đây là tất cả các trạm lính canh ở dọc bờ biển xứ này, nơi mà khi ở chổ đất thấp thì có các bục được dựa trên bởi 4 cột cao từ 20 đến 40 feet (9 đến 18 m) là những đài quan sát mà một người lính trên đó có thể quan sát tất cả những gì trong tầm nhìn ở dưới. Ở Cần Giờ cũng có 1 đài như vậy.
Lúc 8 giờ sáng hôm sau, chúng tôi thả neo ở Vũng Tàu để chờ đợi tàu Marmion, và cũng để dựng lại cột buồm chính vì cây cột đang dùng đã bị bật sút ra. Ngày mùng ba, tàu Marmion gặp lại chúng tôi.
Và lúc 3 giờ chiều, chúng tôi nhổ neo ra biển cả. Một dải san hô ngầm, dưới mặt nước ít nhất khoảng 4 sải (7.2m) ở phía nam của mũi Cape St James (Cap St Jacques hay mũi Vũng Tàu) khoảng hơn 2 dặm, nhưng không coi là nguy hiểm cho tàu thương mại.
Tôi nghĩ tôi sẵn sàng tin, khi tôi nói ra, là một vài giọt nước mắt của chúng tôi đã nhỏ xuống, khi chúng tôi rời khỏi một đất nước, nơi mà chúng tôi đã gặp quá nhiều trục trặc gian nan và khó khăn; chỉ có vài người mà chúng tôi kính trọng thật sự đó là vị phó vương (tổng trấn), Cha Joseph và ông già Polonio. Pasqual là người thành thật nhưng tính khờ dại, và hoàn toàn bị lấn áp bởi một người vợ mưu mô và tham lam. Joachim (đã lấy được thông hành và sắp sửa rời khỏi nước để đi Siam, khi chúng tôi ra khơi) mặc dầu anh ta đã đi nhiều nơi ở Á châu, một người có nhiều nhận xét đáng kể và có trí nhớ lâu, và nói được nhiều ngôn ngữ phương đông, mặc dầu không hoàn toàn, lại thêm biết được tiếng Pháp và vài từ tiếng Anh, vẫn chưa phải là con người đáng quí trọng, vì ngoài nguồn gốc xuất thân từ một dân tộc nơi có một số lượng lớn những thói xấu không đáng kể có nguồn gốc Âu châu, ông ta lại ghép thêm những mầm trồi, từ đất màu mỡ nhất, của các phần xấu mất phẩm cách Á châu. ”
5. Saigon qua nhận xét của bác sĩ George Finlayson (1821)
Sau John White không lâu, năm 1821 John Crawfurd được toàn quyền Anh ở Ấn độ cử là sứ giả đến Siam và Cochinchina (đàng trong), ông đã tường thuật chi tiết những gì ông hoạt động và chứng kiến ở Saigon và Đàng Trong trong năm 1823. Ông cũng gặp một số nhân vật mà John White trước đó đã tiếp xúc, như tổng trấn, Antonio (thông dịch viên)… ông cho biết những sản vật mà Nam Kỳ sản xuất, lương của lính là một quan một tháng,… Tuy nhiên vì đây là bản tường trình chính thức nên những chi tiết về đời sống xã hội ở Saigon không có được chi tiết, cho ta nhiều thông tin như là những gì ghi chép của bác sĩ và nhà thiên nhiên học đi cùng với ông John Crawfurd là bác sĩ và nhà thiên nhiên học George Finlayson.
Bác sĩ Finlayson đã viết hồi ký về chuyến đi và sau khi ông mất trên đường trở về Anh, quyển hồi ký được lưu lại trong viện bảo tàng của công ty Đông Ấn cho đến khi được in và xuất bản vào năm 1826 (21).
Một đoạn Finlayson mô tả là sau khi đoàn của ông được đón tiếp từ trên tàu đậu ở Cần Giờ xuống ghe vào Saigon, và được cho ở trong một nhà có lính canh chung quanh. Ông có gặp và tiếp một nhà thiên nhiên học người Pháp tên là M. Diard, đã sống ở đây hơn 1 năm, ăn mặc như người Việt . Sau đó ngày 30/8/1821, ông đã tự đi ra ngoài sau khi được lính canh cho phép ông và người họa sĩ trên tàu được ra. Ông quan sát ở khu chợ ở Bến Nghé như sau:
“Những sản phẩm mà người bản xứ dùng đều có rất nhiều ở mọi cửa hàng. Có lẽ không có nước nào sản xuất nhiều trầu hay cau như nơi này. Lá trầu ít dồi dào hơn; cá khô và tươi; gạo, khoai lang chất lượng rất tốt; ngô bắp Ấn độ (Indian corn), măng (tre) đã được nấu chín; hạt lúa đã nảy mầm, đường thô, chuối lá, cam, bưởi, mãng cầu, lựu, và thuốc lá, có rất nhiều. Heo được bán ở tất cả các cửa tiệm, và gà trong tình trạng tốt đều bán rất rẻ. Thịt cá sấu(*) rất được chuộng, và người thông ngôn Hoa kiều của chúng tôi nói rằng ở đây cũng có bán thịt chó.
Các cửa tiệm rộng đủ thuận tiện, trong đó các hàng được trưng bày thuận lợi nhất. Một trường hợp không thể bỏ qua, vì nó cho thấy một sự khác nhau rõ ràng về thị hiếu và phong tục của dân ở đây với các dân ở các nước ở Ấn độ. Ở những nước này, trong rất nhiều trường hợp, sản phẩm chế tạo của Âu châu tràn lấn sản phẩm bản xứ; và anh khó có thể kêu một tên sản phẩm Âu nào mà không tìm thấy ở các cửa tiệm. Ở đây trái lại, trừ duy nhất ba hay bốn thùng chai với thủy tinh thô, không có một sản phẩm nào tìm thấy được mà giống chút ít gì sản phẩm Âu châu. Một tiêu chuẩn thị hiếu khác thống lãnh ở đây. Vải bông rất hiếm. Vải kếp đen, satin và lụa duy nhất là được dùng; đa số là được sản xuất từ Trung quốc và Bắc kỳ (Tonkin), ở đây hầu như rất ít hay không có kỹ nghệ chế tạo nào.
Những sản phẩm mà họ làm không có nhiều. Tôi có thể liệt ra vài thứ như sau: các loại chiếu đẹp và thô, đan để làm buồm cho tàu và ghe, các giỏ thô, các hộp mạ vàng và đánh bóng vạt ni, dù, các túi lụa đẹp, chúng được dùng phổ thông mà cả đàn ông và đàn bà đều mang theo mình; đinh sắt, và một loại kéo thô sơ. Tất cả những thứ khác đều được nhập từ các xứ sở chung quanh. Để đổi lại các hàng nhập, xứ của họ có gạo rất nhiều, bột gia vị bạch đậu khấu, tiêu, đường, ngà voi, trầu, etc… Ở đây có một vài người Hoa giàu có, họ buôn bán trãi rộng khắp nơi trong khu vực này; còn lại đa số là rất nghèo, chỉ một số ít có điều kiện buôn bán nhưng trong một giới hạn rất nhỏ. Rất ít các tiệm trong phố buôn bán chứa đựng những hàng có giá trị hơn giá tiền mua bốn chục hoặc sáu chục đô la, và đa số hàng không có giá bằng nửa số tiền trên.
Khó có thể tưởng tượng là một dân số lớn lao như vậy, sống chung và hiện hữu trong hình thái này mà doanh thương lại quá nhỏ bé: thật ra có hai thành phố ở đây, mỗi thành phố lớn bằng như là thủ đô của Xiêm La (Siam). Một thành phố xây dựng gần mới đây gọi là Binghe; và thành phố kia ở cách đó khoảng một hay hai dặm, gọi là Saigon. Thành phố đầu ở cạnh một thành, được xây dựng các năm gần đây, dựa trên nguyên lý thành quách của Âu châu. Nó được dựng trên đồi có dốc là, có hào nước và tường thành cao, nhìn xuống chung quanh vùng. Thành có hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng nửa dặm. Thành chưa hoàn tất xây xong, không có ô cửa lỗ châu mai, và cũng không có các khẩu đại bác trên tường thành. Đường ngoành vòng quanh lên thành rất ngắn, và lối đi vào cổng thành thẳng tắp; các cửa thành được làm rất đẹp và trang trí theo kiểu Trung Hoa. Chúng tôi không lấy được thông tin gì về dân số của hai thành phố này. …“
((*) Cá sấu xưa kia có nhiều ở sông Đồng Nai từ cửa Cần Giờ đến thượng nguồn mà các tác giả Pháp cuối thế kỷ 19 còn ghi nhận. Ngày nay chúng chỉ còn rất ít ở bầu Sấu, trong vườn quốc gia Nam Cát Tiên, thượng nguồn sông Đồng Nai)
Finlayson nói rõ có hai thành phố cách nhau khoảng một hay hai dặm: Binghe (Bến Nghé) vừa mới thành lập và Saigon (tức Chợ Lớn ngày nay) lớn hơn và đã thành lập trước lâu. Như vậy Saigon là tên của thành phố Chợ Lớn ngày nay. Và nguồn gốc của từ “Saigon” chắc là bắt nguồn từ vùng Chợ Lớn. Gia Định thành thông chíĐại nam nhất thống chí cũng có nói: “Chợ Sài Gòn cách phía nam trấn (tức thành Bát quái) 12 dặm”. John Crawfurd cũng viết: “Thành phố Saigun gồm hai thị tứ tách biệt nhau, cách nhau 3 dặm. Pingeh (bến nghé) là lỵ sở cai trị và thành trì, nằm ở phía tây bờ sông lớn, còn Saigun đích thực thì nằm cạnh sông nhỏ thông liền với Pingeh” (19). cũng như
Finlayson đã tả một buổi viếng thăm Saigon (tức Chợ Lớn ngày nay) như sau:
“Ngày 1 tháng 9 – Dường như là vị tổng trấn Saigon không có gì phủ nhận về đề tài của các giấy tờ đã đưa trình lên hôm qua; một viên quan hôm nay trở lại để lấy các bản sao, nói rằng các giấy tờ đã trình lúc ban đầu đã được gởi ngay lập tức đến triều đình. Ngay sau khi các bản sao đã được đưa cho viên quan, chúng tôi đi lên tàu với ông Diard để viếng Saigon. Khoảng cách của thành phố này khoảng 3 dặm cách thành. Nhưng trên đường đến thành phố phần lớn có nhiều nhà dọc theo hai bờ sông. Có ít ghe và các tàu đi biển là do ở cuối mùa. Số lượng tàu đi qua đi lại tuy vậy rất đáng kể. Vùng đất chung quanh đây cho thấy rất là màu mỡ; các bờ sông rạch được che phủ bởi các cây cau và cây dừa, chuối, mít và những cây ăn trái khác. Rất nhiều các con rạch đi lại đan xéo cắt ngang vùng đất này ở đủ mọi hướng, tạo ra mọi phương tiện để gia tăng kỹ nghệ thương mại.
Ở đây, cũng giống như ở Xiêm La, các nghề và việc cực nhọc đều do đàn bà làm, và các ghe tàu trên sông thông thường là do những người đàn bà chèo lái. Một thông lệ, không được “ga lăng” cũng như bất công, được áp dụng thường thấy ở đây cũng như ở Xiêm La, là chỉ bắt đàn bà trả tiền khi đò ghe chở khách qua sông rạch còn đàn ông đưa qua thì không tốn tiền. Lý do biện hộ cho thông lệ này là đàn ông tất cả đều được tuyển dụng làm dịch vụ cho nhà vua. Rất là đáng tiếc, khi thấy rằng một số rất lớn đàn ông ở nước này được xử dụng trong những nghề hoàn toàn không giúp ích, sản xuất gì cho xứ sở, mà còn gây thiệt hại cho kỹ nghệ quốc gia. Tất cả mọi viên quan dù nhỏ bé cũng đều có nhiều người hầu hạ.
Thành phố Saigon được xây trên một nhánh đáng kể của con sông lớn và trên các bờ của hằng hà các kênh rạch. Nó là trung tâm thương mại của tỉnh màu mỡ này. Thành phố Bingeh (Bến Nghé), trong khi đó ít bận tâm theo đuổi mục đích thương mại này. Một vài di dân từ Trung Hoa buôn bán lớn ở một mức độ qui mô vượt bực rất đáng kể, nhưng còn người đàng Trong (Cochin China, chỉ người Việt) thì đa phần là quá nghèo để có thể tham gia vào những nghề nghiệp như vậy.
Chúng tôi đáp tàu xuống khoảng ở giữa thành phố, và sau khi đi một khoảng ngắn, chúng tôi vào nhà một người Trung Hoa. Ông ta tiếp đón chúng tôi rất lịch sự và mời chúng tôi cùng dùng giải khát. Ông ta nói là ông ta rất mong mỏi muốn thông thương với người Anh, và hiện trong tay ông có nhiều hàng rất hợp thuận cho thương mại này.
Chúng tôi bỏ ra vài tiếng để viếng thăm nhiều khu khác nhau của thành phố, và trở về chỗ chúng tôi trú ngụ vào lúc chiều tối rất là hài lòng với những gì chúng tôi đã chứng kiến, và với ấn tượng tốt nhất về tư cách đối xử và tâm tính của người dân ở đó.
Sự tân tâm, tử tế và hiếu khách mà chúng tôi kinh nghiệm nhận được, cho đến nay vượt quá những gì chúng tôi đã chứng kiến ở các nước Á châu, đến nỗi chúng tôi không thể tin và mơ tưởng rằng chúng tôi đang ở giữa những người dân hoàn toàn có một tính tình khác. Chúng tôi là những người hoàn toàn lạ, chỉ trãi qua vài tiếng đến thành phố này vậy mà hầu như ở mọi đường phố chúng tôi được mời bởi nhiều người Hoa giàu có vào thăm nhà, và dùng giải khát. Họ không thể biết trước được là chúng tôi đến thăm thành phố này, vậy mà một vài chiêu đãi giải trí mà chúng tôi nhận được rất là thanh lịch và phong phú dư dật, nói lên sự giàu có và lòng hiếu khách của chủ nhà mời chúng tôi.
Trong số họ, chúng tôi được mời bởi ba anh em người Hoa đã đến lập nghiệp ở xứ này từ lâu. Họ mặc đồ người Đàng Trong, và trông không khác gì người bản xứ. Phong cách của họ rất là hấp dẫn lôi kéo, hoàn toàn dễ dãi và lịch sự; nhà của họ rất đẹp và rộng rãi; không có đồ gì làm ra vẽ đây là một biệt thự cao cấp, ngay cả trong ý kiến của một người Âu. Họ tiếp chúng tôi trong một phòng khách lớn được trang bị đầy đủ đồ đạc; một bàn ngay sau đó được phủ đầy các loại trái cây, các loại mứt kẹo thanh nhã nhất, và nhiều loại bánh và thạch. Tự họ khẩn khoản mời chúng tôi ngồi xuống bàn và lo cho chúng tôi, và dù làm cách nào họ cũng không ngồi xuống cùng bàn khi chúng tôi hiện diện trong nhà họ. Trà được dọn mời trong những tách nhỏ; một bàn lớn cũng được trãi ra cho những tùy tùng của chúng tôi với rất nhiều bánh, mứt, kẹo. Chủ nhà của chúng tôi nói rất ít; họ có vẽ rất hài lòng chúng tôi đến viếng, cũng như chúng tôi với sự tiếp đãi ân cần độ lượng của họ cho chúng tôi.
Hãy để những người khác nói về mục đích gì mà sự hiếu khách và quan tâm quá mức của những người Hoa thông minh và có đầu óc cấp tiến này cho những người thật xa lạ; về phần tôi, tôi phải công tâm bảo vệ thật đúng cho họ và tin là họ hoàn toàn vô vụ lợi.
Các hàng chợ ở Saigon chứa nhiều hơn tất cả các thứ hàng ở Bingeh (Bến Nghé). Các nhiễu, kếp đen (crape) Trung Hoa và Bắc Hà (Tonkin), lụa, satin, quạt Trung Hoa, đồ gốm etc..là những loại thường có trong các tiệm. Đường phố thẳng, rộng và tiện lợi. Dân số rất đông. Chúng tôi vào thăm một đền Trung Hoa rất đẹp, xây rất mỹ thuật, và có rất nhiều trang trí. Những đền của người Đàng Trọng, mặc dầu có vẽ thờ giống nhau, nhưng bề ngoài kém hơn không bằng đền Trung Hoa…“
Qua Finlayson và Purefoy ta thấy ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, thành phố Chợ Lớn là trung tâm thương mại rất trù phú ở Nam kỳ với các trạm thương mại của người Bồ Đào Nha đặt ở đó, các tàu nước ngoài đến mua bán và người Hoa đã có hệ thống doanh thương rộng lớn khắp trong vùng. Sản phẩm chính là gạo, tiêu, đường, cá khô, ngà voi, sừng tê giác. Trần Văn Giàu (19) khi trích một đoạn rất ngắn về sự tận tâm hiếu khách của những người Hoa mà Finlayson đã tả như trên để tổng quát là con người Saigon tử tế và lịch thiệp thì e không đúng lắm vì thật ra Finlayson nói về con người ở khu Chợ Lớn ngày nay.
Finlayson có tả về hình thái của người Việt ở Saigon mà Charles Darwin đã viết như sau trong quyển “The Descent of Man: and selection in relation to sex” (23):
“Finlayson, sau khi mô tả chi tiết người ở Nam kỳ (Cochinchina), nói rằng đầu và mặt tròn của họ là đặc tính chính; và ông thêm là ‘dáng người tròn của họ nổi bật ở phụ nữ, được coi là đẹp cân xứng trên khuôn mặt của họ’. Người Xiêm La có mũi nhỏ với hai lỗ mũi chìa ra, miệng rộng, môi hơi dầy, khuôn mặt thật lớn, với xương má cao và rộng. Vì thế không có gì ngạc nhiên kỳ thú là ‘cái đẹp, dưới quan điểm của chúng ta, là rất lạ lùng với họ. Họ coi là phụ nữ của họ đẹp hơn hẳn các phụ nữ Âu châu.”
Nói về thành Saigon, Finlayson cho biết thêm về cuộc gặp gỡ trong Thành của sứ bộ Crawfurd (do Toàn quyền Anh ở Ấn Độ gởi đến Xiêm và Đàng Trong để giao thương) với tổng trấn Lê Văn Duyệt sau khi Crawfurd được tổng trấn mời đến Saigon từ tàu của sứ bộ đang đậu ở Cần Giờ trên đường đi Đà Nẵng, và sau đó chứng kiến cuộc đấu ngoạn mục giữa cọp và voi ở Saigon như sau:
“Ngày 2 tháng 9 – Chúng tôi được thông báo là ngài tổng trấn sẽ cho tiếp sứ giả của Toàn Quyền Ấn Độ sang sớm hôm nay. Lúc 10 giờ, viên quan, người đã đưa chúng tôi từ tàu trước đây, đến nói là Tổng Trấn đang chờ chúng tôi. Sau khi chúng tôi hỏi được dùng phương tiện nào để đến thành, ông ta nói rằng chúng tôi phải đi bộ đến thành. Sau khi chúng tôi không đồng ý, năm con voi được rước đến. Các con voi này đều có ghế (haudah) ngồi trên lưng voi, như những ghế mà người dân ở Ấn Độ dùng. Một vài phút chở chúng tôi vào thành nơi ngài Tổng Trấn cư ngụ. Nhà của ông, mặc dù lớn, nhưng giản dị không có nhiều trang trí ở phía trong và phía ngoài. Dinh này tọa lạc hầu như ở giữa trung tâm thành giữa khoảng trống rộng. Khi chúng tôi đến trong khoảng năm mươi thước Anh (yard) trước cửa dinh, chúng tôi được thông báo xuống voi và đi bộ phần còn lại. Một đám binh sĩ, đa số cầm giáo, đứng hai bên sân. Ngài Tổng Trấn, chung quanh là các quan, ngồi ở trong điện lớn nhìn ra phía sân. Chúng tôi đi tiến lên, trực tiếp trước ông, lấy nón ra và chào ông như phong tục của nước chúng tôi. Ghế đã được sửa soạn sẵn, và chúng tôi ngồi xuống phía trước một chút, ở phía phải các vị quan. Ở phía sau của điện là viên Tổng Trấn ngồi trên một bục cao không có trang trí, rộng khoảng mười hai phút (foot) vuông có chiếu phủ ở trên, và bên trên chiếu có một hay hai nệm. Ở bục thấp hơn, phía bên trái ông, và một chút về phía trước là ông Phó Tổng Trấn ngồi, một ông già dễ nhìn, có vẽ đã hơn bảy mươi tuổi. Trực tiếp đối diện với ông phó Tổng trấn là khoảng một chục viên quan, mặc áo đóng đen, ngồi xếp chân kiểu Ấn, trên một bục giống như bục đối diện, và phía sau có các người hầu cầm vũ khí đứng tụ lại một chỗ. Trước mặt ngài Tổng Trấn, có hai người Xiêm, đã đến trước có việc riêng, đang nằm phủ phục ở dưới đất, theo phong cách mà họ theo khi tiếp kiến thủ lãnh của họ.
Ngài Tổng Trấn được biết là một hoạn quan, và hình dạng của ông đúng một mức nào đó với ý niệm trên. Ông ta có vẻ khoảng năm mươi tuổi, dáng thông minh, và có lẽ được kính trọng là có hoạt động trí tuệ và thể lực dồi dào; gương mặt của ông tròn và mịn, hình thể nhão và nhăn; ông ta không có râu, và có dạng giống một bà già: giọng nói của ông, cũng vậy, the thé và nữ tính; nhưng điều này tôi cũng quan sát thấy, mặc dầu mức độ ít hơn, ở những người đàn ông ở nước này. Y phục của ông, không những trơn tru không màu mè, hầu như nhớp nhúa, trông giống như đồ dơ của những người nghèo nhất.
Ông ta đã đòi hỏi là lá thư của Toàn Quyền Bengal phải được chúng tôi mang đến khi diện kiến. Trông thấy lá thư ấy ở trong tay tôi, ông hỏi tôi đang cầm gì; và sau khi đã xem xét mảnh vải vàng đựng bức thư, ông ta trả lại và cùng lúc nói rằng sau khi đã làm cóp-pi bản chính, theo như thông luật của xứ này, là không được mở ra nữa.
Bây giờ ông ta mới tìm hiểu hỏi chúng tôi là đã bao lâu từ khi chúng tôi rời Calcutta đến nay và tuổi của chúng tôi. Ông cho rằng thường thì chỉ có vua mới viết thư gửi cho vua khác, “Vậy thì tại sao”, ông ta nói, “Toàn quyền Bengal lại có thể gửi thư cho vua Đàng Trong ?”. Ông ta có vẽ hiểu các mục đích của chuyến đi chúng tôi, và có nhận xét thuận lợi về các mục đích này. “Tất cả các tàu”, ông cho rằng, “đều được thông thương buôn bán với Đàng Trong. Nếu”, ông nói tiếp, “thần dân của vua Đàng Trong đến Bengal hay bất cứ lập địa nào của Anh, thì rất đúng khi ở đó họ phải theo luật của nơi đó và xử theo luật. Cũng như vậy, thần dân của những nước khác đến Đàng Trong phải theo và được xử theo luật hiện hành của nước đó. Nếu không thì sẽ không có sự công bình thực sự. Ông hỏi chúng tôi là sẽ đi thẳng đến Turon (Đà Nẵng), hay là cảng ở Huế, và với tư cách gì sứ bộ của Toàn Quyền muốn theo đuổi khi đến nơi ấy. Chúng tôi nói với ông là bản tường trình về việc chúng tôi đến nên được gởi ngay đến triều đình khi chúng đến cảng. Khi nghe xong, ông cho ý kiến là vị quan coi về voi (mandarin of the elephants) là vị có nhiệm vụ về vấn đề này và sẽ cho biết tất cả những thông tin cần thiết về vấn đề thương mại.
Tôi đã diễn tả như trên, dùng những từ tổng quát về nội dung và phạm vi của cuộc đối thoại đã diễn ra. Các viên quan có vẻ như rất thoải mái dưới sự hiện diện của ngài Tổng Trấn, không có lộ vẻ gì sợ hay kinh sợ. Họ thường đặt câu hỏi với chúng tôi trong buổi phỏng vấn này. Cuộc đối thoại diễn ra dùng tiếng Bồ Đao Nha là phương tiện diễn đạt, qua một người bản xứ tên là Antonio.
Gần cuối của cuộc đàm thoại, ông Diard đi vào, ông mặc một bồ đồ kiểu quan lại, và ngồi xuống ghế cạnh chúng tôi. Chúng tôi được mời uống trà, như thông lệ.
Ở trước điện là một cái chuồng nhốt trong đó một con cọp rất lớn, mà ngài Tổng trấn đã ra lệnh bắt để ngài có thể triển lãm cho chúng tôi thấy một cuộc giao đấu giữa con vật hung dữ nhất trong các loài vật, với một con voi. Chúng tôi được hỏi là liệu cảnh tượng của cuộc đấu voi và cọp này có hợp với chúng tôi không, sau khi nhận được trả lời là đồng ý, ngài Tổng trấn ra chỉ thị sửa soạn bắt đầu cuộc đấu voi-cọp. Ở ngay giữa một đồng cỏ dài khoảng nữa dặm, và chiều ngang cũng có khoảng cách dài như vậy, có chừng khoảng sáu chục hay bảy chục con voi rất đẹp mắt, đứng xếp theo vài hàng, mỗi con voi có một quản tượng ngồi trên đầu điều khiển và một ghế trống trên lưng voi.
Ở một bên khán đài có các ghế ngồi được xếp đặt thuận lợi; tổng trấn, các quan và nhiều binh lính đều có mặt xem cảnh đấu voi-cọp này. Ở phía bên kia là đám đông khán giả. Con cọp được cột vào một cây cột đặt giữa cánh đồng, bằng một sợi dây chắc nịch buộc chung quanh lưng của nó. Chẳng bao lâu chúng tôi nhận thấy cuộc đấu này rất không cân bằng; các móng vuốt của con vật tội nghiệp này đã bị rút ra và hai môi của nó đã bị khâu lại bằng chỉ chắc, không cho nó mở miệng ra được. Khi được thả ra khỏi chuồng, nó cố gắng nhảy qua cánh đồng nhưng khi biết mọi cố gắng tự giải thoát đều vô ích, nó nằm dài xuống cỏ, và khi thấy con voi lớn với ngà dài tiến đến, nó đứng dậy và đối diện với hiểm nguy đang tới.
Con voi thấy thái độ của con cọp và nghe tiếng gầm gừ ghê sợ của con cọp, cảm thấy sợ hãi, và quay lại chạy trong khi con cọp đuổi nhanh phía sau, quất vào hông sau của con voi bằng chân trước, làm con voi chạy nhanh thêm. Người quản tượng thành công kéo con voi quay tấn công trở lại trước khi nó chạy quá xa, và lần này con voi giận giữ chạy nhanh lại, chúi hai sừng của nó vào mặt đất dưới con cọp, nâng con cọp lên cao và quăng nó ra xa khoảng ba mươi feet (tức khoảng 9 mét). Tới đây là điểm lý thú của cuộc chiến; con cọp nằm dài dưới đất như là đã chết, nhưng dường như nó không bị suy suyển gì mấy, bởi vì trong lần tấn công kế tiếp nó đứng dậy trong dáng điệu phòng thủ, và khi con voi sửa soạn húc nó lên, nó phóng vào trán con voi, hai chân sau bám chặc vào vòi voi. Con voi bị thương trong cuộc tấn công này, và quá sợ nên không có gì cản nó chạy phá qua các chướng ngại vật, nó chạy biến mất. Người quản tượng coi như là không hoàn thành nhiệm vụ, và chẳng bao lâu sau với hai tay trói buộc sau lưng được mang tới trước mặt Tổng trấn, và ngay tại chỗ bị đánh 100 roi phạt tội.
Một con voi khác được mang ra, nhưng con cọp chống cự yếu dần với mỗi lần tấn công kế nhau. Rõ ràng các lần bị quăng ra xa, chẳng bao lâu sẽ làm nó chết. Tất cả các con voi mang ra đấu đều có ngà, và phương thức tấn công ở mọi lần, của các con voi kế tiếp nhau, là chạy đến con cọp dùng ngà húc phía dưới rồi nâng lên, và quăng ra xa. Các con voi dĩ nhiên rất cẩn thận với vòi của chúng, cẩn thận cuốn vòi dưới cằm. Khi con cọp hoàn toàn chết, một con voi được mang tới, thay vì nâng con cọp bằng ngà của nó, nó dùng vòi túm con cọp, và quăng con cọp xa ba chục feet.
Cuộc trình diễn tiếp theo hoàn toàn khác. Mục đích của cuộc đấu này là cho thấy khả năng của một hàng voi vững chãi tiến lên và phá phòng tuyến của quân thù.
Hai hàng phòng thủ được thiết lập tại chỗ, và trước mỗi hàng là các cây cọc phía trên được đốt cháy bằng một chất liệu với pháo bông tủa ra đủ loại hình, và một vài khẩu đại bác loại nhỏ. Chỉ trong một chốc tất cả đều cháy sáng chói và lửa pháo bông hay đẹp như vậy được giữ cháy. Các con voi tiến lên thẳng hàng, bước đều và nhanh, nhưng mặc dầu chúng đến gần hàng cột lửa, chỉ có rất ít con bị thúc tiến qua được, còn lại chạy vòng quanh lửa qua lối này hay lối nọ. Tấn công kiểu này được lập lại lần nữa, và sau đó chấm dứt thú vui tiêu khiển.
Ngài tổng trấn lúc này kêu chúng tôi lại chỗ ông ngồi và nói rằng ông ta rất vui lòng nếu chúng tôi ở lại thêm một ngày nữa để tham quan thành phố; và sẽ có một hài kịch được diễn cho chúng tôi xem giải trí. Ông Crawfurd nói những lý do mà chúng tôi muốn lên đường ra đi, và chúng tôi từ giã ông; và biết ơn ông rất nhiều đã tận tình tiếp đã chúng tôi.
Ngày 3 tháng 9 – Các thuyền trước đây chở chúng tôi (từ Cần Giờ vào Saigon) đợi chúng tôi vào sáng sớm. Chúng tôi lên vào lúc 6 giờ sáng và đến tàu lớn của chúng tôi khoảng 5 giờ chiều cùng ngày.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi nhổ neo, và tiếp tục hành trình đến Turon (Đà Nẵng) dưới hướng gió thổi mạnh từ Tây Nam. Trên đường ra khỏi sông, tàu suýt đụng một cồn cát hay bờ cát, không có ghi trên bản đồ…“
Qua những gì Finlayson viết, ta thấy tổng trấn Saigon Lê Văn Duyệt rất là hiếu khách và muốn mở rộng buôn bán với các nước tây phương. Ông hiểu biết rất nhiều về họ. Điều này phù hợp với những gì John White viết về ông. Tuy vậy sứ bộ Crawfurd sau đó thất bại trong mục đích thiết lập đường thương mại với Việt Nam. Khi phái đoàn đi ra Đà Nẵng và Huế, vua Minh Mạng (vừa lên ngôi 1 năm sau khi Gia Long mất) đã từ chối không tiếp sứ bộ Crawfurd, cho rằng sứ bộ Crawfurd không xứng đáng vì Crawfurd chỉ là sứ giả của vị toàn quyền Anh ở Ấn Độ chứ không phải là do vua nước Anh gởi qua. Cuộc đấu giữa cọp và các con voi chắc chắn là xảy ra ở phía ngoài, sát cạnh thành Saigon vì đồng cỏ nơi diễn ra trận đấu có chiều dài và ngang khoảng nửa dặm và thành Saigon cũng lớn bằng cánh đồng cỏ này. Vì thế trận đấu không thể ở trong thành. Khả năng lớn là cánh đồng cỏ này chính là cánh đồng tập trận ở phía tây kế thành Saigon và cạnh cánh đồng mả.
Ta cũng thấy George Finlayson có cảm tưởng tốt đẹp về Saigon và con người ở đó so với John White. Lý do chính là Finlayson nằm trong phái bộ ngoại giao trong khi John White chỉ là thuyền trưởng tàu thương mại Mỹ đến Saigon để buôn bán nên sự tiếp đãi và đối xử có khác nhau. Hơn nữa John White đã sống tại Saigon lâu dài (nhiều tháng) trong khi George Finlayson chỉ viếng có ba ngày nên không thể có kinh nghiệm sống thật sự với tất cả bề mặt và bề trái mà John White đã trải qua.
Sau John Barrow, John White, John Crawfurd và George Finlayson, Trương Vĩnh Ký cho ta biết thêm nhiều chi tiết về các khía cạnh địa phương ở các khu vực trong Saigon. Quyển “Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs” viết bằng tiếng Pháp của ông xuất bản năm 1885 ghi lại phố xá Saigon vào những năm trước khi người Pháp phát triển thành phố này. Vì thế ông so sánh vị trí thành phố, đường xá thời kỳ trước dựa vào các đường đang có ở thời kỳ người Pháp đến thiết lập 25 năm sau khi họ chiếm Saigon-Gia Định (1859). Một thời gian không lâu lắm để có thể hoàn toàn biến dạng bộ mặt thành phố.
Nguyễn Đức Hiệp
Tham Khảo
(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai,
http://namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf
(2) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille), 1883.
(3) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.
(4) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d’état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.
(5) Trần Ngọc Quang, Saigon và những tên đường xưa,
http://namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-saigontenduongxua.pdf .
(6) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ
(7) John Crawfurd, Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong Street. 1830.
(8) John White, A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London, 1824. Online:
http://www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up
(9) Nguyễn Công Tánh, Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993,
http://motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Saigon
(10) Hình ảnh, tư liệu, http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm
(11) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.
(12) John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the Strand, London, 1806. online : http://purl.pt/126
(13) Jules Blancsubé, Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l’organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix), 1879.
(14) Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L’âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris), 1887.
(15) P. Midan, La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l’histoire de Saïgon-Cholon, Impr. de l’Union Nguyên-van-Cua (Saïgon), 1934.
(16) Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon, 1880.
http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination
(17) J. Bouchot, Saigon sous la domination cambodgienne et annamite, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1926, 1926 (Nouv Ser,T1), pp. 3-82, Société des études indochinoises (Saïgon).
(18) Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 125-231.
(19) Trần Văn Giàu, Lược sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 235-420.
(20) Josiah Conder, Birmah, Siam, and Anam, London: printed for J. Duncan, Oliver & Boyd, Edingburgh, M. Ogle, Glasgow and R. M. Tims, Dublin, 1826,
http://www.archive.org/stream/birmahsiamanam00condrich#page/n11/mode/2up
(21) George Finlayson, The mission to Siam and Hue the capital of Cochin China in the years 1821-2, London, John Murray, Albemale Street, 1826.
http://www.archive.org/stream/missiontosiaman00raffgoog#page/n7/mode/1up
(22) R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic journal and monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp. 143-147, pp. 652-655 London, 1826.
(23) Charles Darwin, The Descent of Man: and selection in relation to sex, John Murray, London, 1879.
(24) Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l’itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aine, Paris, 1869.