Vừa rồi tôi được một anh bạn gởi cho một tập hình về các món ăn ở Huế, hình chụp rất đẹp, rất hấp dẫn. Hình đầu tiên là Cơm Hến, với bốn câu thơ:
Đã nghe ớt đỏ cay nồng,
Tìm trong vị Hến một dòng Hương xanh.
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành,
Mời anh buổi sáng chân thành món quê.
Thứ đến là bánh Bèo, bánh Nậm, bánh Bột-Lọc, và hình thứ năm là bánh « Phu-Thê » với bốn câu thơ :
Lá dừa ôm bột lọc trong,
Ngọt ngào thơm nhụy đậu xanh ứng vàng.
Phu Thê vui chuyện xóm làng,
Mừng nhau tác hợp thiếp chàng hòa duyên.
Nhìn hình bốn cái bánh Su-Sê với hai chữ « Phu Thê » làm tôi ngạc nhiên, vì chưa từng nghe thấy ba chữ « bánh phu-thê ».
Trước năm 1962, lúc tôi còn ở Việt Nam, còn ở Huế, tôi hân hạnh có liên hệ bà con với các Cụ Ưng-Bình, Ưng-Trình, Tôn-Thất Quảng, Hồ-Đắc Hàm… Các Cụ là những nhân sĩ thời bấy giờ ở Huế và cũng là những nhà văn học uyên thâm. Vả chăng, người Huế, nói chung, hay có tánh « đài các ». Tôi được gặp các Cụ trong những dịp đi hầu thăm, đi dâng tuổi đầu năm, hay trong những dịp đi hầu kỵ. Thế mà tôi chưa bao giờ nghe được ba chữ « bánh Phu-Thê », ở tại chính gia đình tôi, ở ngoài thành phố, ở tại nhà của các Cụ, hay ở tại các nhà thờ họ… Cũng như đã trình trên, người Huế phần đông, thường có tánh « đài các », hễ thấy một danh từ nào đẹp, âm thanh hay thì hay dùng đến, như trái Măng-Cụt (âm do tiếng Pháp của chữ mangoustan), thì người Huế gọi là trái Giáng-Châu (絳珠)…, vậy nếu hai chữ « Su-Sê » là do hai chữ « Phu-Thê » mà ra, thì có lẽ tôi đã nghe qua…
Nói như thế, không có nghĩa là các Cụ hay những người Huế mà tôi đã gặp không biết hai chữ « Su-Sê » là do hai chữ « Phu-Thê » mà ra. Có lẽ họ biết mà không nói cho tôi nghe chăng ? Và tất nhiên, mấy hàng tôi trình trên, cũng không chứng minh gì, là hai chữ « Su-Sê » không do hai chữ « Phu-Thê » mà ra cả.
Bánh Su-Sê ở Huế, lúc bấy giờ, là một loại bánh rất thông thường, thường đi đôi với bánh Ít-Đen, làm bằng lá Gai. Ngày Tết, ngày Kỵ, thì không bao giờ thiếu hai món bánh nầy, cọng (cộng) với những loại bánh « In », làm bằng bột nếp, bột đậu xanh, bột bình tinh hay bằng hột sen tán…. Bánh « In » được in bằng khuôn đồng có dấu chữ Thọ, gói bằng giấy dầu, đủ màu. Ăn rất ngon, rất thơm và trông rất đẹp mắt. Ngoài những ngày Tết, ngày Kỵ tại nhà, hay nếu có đi hầu thăm các Cụ, hay đi hầu Kỵ, thì khi nào, chúng tôi cũng được Cha, Mẹ, hay các Cụ Bà, các Cô, các Dì cho một gói bánh gồm có một ít bánh Su-Sê, bánh Ít-Đen và bánh In…
Tôi nói thế, để nói lên tính cách phổ thông, bình dân, đại chúng của bánh Su-Sê, nhất là ở Huế.
Mặt khác, bánh Su-Sê ở Huế và ở ngoài Bắc có thể khác nhau. Hoặc là ở Huế, người Huế dựa theo người Bắc mà chế ra bánh Su-Sê Huế hay ngược lại. Bánh Su-Sê ở Huế có màu trắng đục, gói bằng lá dừa, mặt có hình vuông, hay kiểu cách hơn, mặt là hình ngũ giác, chứ không có màu vàng ửng và gói bằng lá chuối, như ta thấy ở ngoài Bắc hay trong Nam.
Hiếu kỳ và muốn học hỏi thêm, tôi lên mạng Internet, gõ hai chữ « Su Sê » vào khung Google, thì ôi thôi, có hàng chục trang, có hàng trăm bài viết, mà có đến khoảng trên 95% đều nói bánh Su-Sê « nguyên xưa là bánh ” Phu thê “, một số địa phương nói chệch thành bánh ” Su sê “ ».
Sự ngạc nhiên của tôi đi đến độ choáng váng. Thế rồi, từ giờ nầy qua giờ khác, tôi lo đọc những bài viết đó.
Nào là «Về tên gọi, thảng hoặc ở Huế cũng có người gọi là bánh su sê, đây có lẽ là cách gọi chệch âm theo thói quen thường gặp của người Huế, còn đại bộ phận người Huế vẫn gọi là bánh phu thê như đúng tên gọi vốn có của nó» (vnnavi.com – Bánh Phu Thê –Theo Văn hóa nghệ thuật ăn uống). !
Nào là «bánh phu thê tượng trưng cho sự gắn bó giữa vợ chồng» ! «Bánh su sê hay còn gọi là bánh phu thê. Tên gọi này gắn liền với câu chuyện kể về vợ chồng người lái buôn thuở xưa. Chuyện kể rằng, trước lúc người chồng lên đường đi buôn ở phương xa, người vợ làm bánh tặng chồng và thề rằng cho dù xa nhau nhưng lòng nàng vẫn luôn ngọt ngào, đậm đà như bánh. Chồng cảm động đặt tên cho bánh là phu thê (tức bánh vợ chồng). Chẳng ngờ đến phương xa, người chồng bị say đắm bởi sắc đẹp của các cô gái lạ và không muốn quay về. Người vợ ở nhà biết tin liền làm bánh gởi cho chồng kèm theo lời nhắn :
“Từ ngày chàng bước xuống ghe
Sóng bao nhiêu đợt bánh phu thê rầu bấy nhiêu”.
Nhận được bánh và lời nhắn của vợ, người chồng hối hận liền tức tốc quay về và không còn nghĩ đến chuyện thay lòng đổi dạ nữa. Từ đó bánh phu thê thường hay có mặt trong các tiệc cưới nhằm nhắn nhủ lời thuỷ chung đến các đôi vợ chồng trẻ » (Phố cổ Hội An – Tin Tức, Văn Hóa Hội An, Ẩn Thực). !
Nào là «trong các lễ cưới có nhiều lễ vật, nhưng không thể thiếu bánh Su sê» (PhunuNet.com. Thêm vào My Wikiphunu) !
Có người còn dẫn chứng đến các vua, chúa, như « vua Lý Anh Tông đi đánh trận, người vợ ở nhà thương chồng vất vả đã tự tay vào bếp làm bánh gửi ra cho chồng. Vua ăn thấy ngon, nghĩ đến tình vợ chồng đã đặt tên bánh là bánh phu thê (sau này còn có tên gọi là bánh xu xuê) » (Bánh Phu Thê – Lê Minh Hợi). !
Có người còn nói đến cả Bà Ỷ-Lan : « Một lần hội làng, Lý Thánh Tông cùng vợ là Nguyên phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô. Tại đây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên Phi đặc sản của quê hương là bánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng thức món bánh này và khen ngon. Người cho rằng, cuộc đời con người có được hạnh phúc là niềm vui lớn của mỗi lứa đôi, và truyền từ nay, ngày ăn hỏi, ngày cưới thành vợ thành chồng nên có món bánh quý này cho mọi người cùng hưởng. Cũng từ đó bánh Su Sê được gọi là bánh Phu Thê, buộc từng cặp bằng lạt điều và là một trong những lễ vật không thể thiếu trong đám cưới hỏi, bởi nó như một biểu tượng về lòng chung thủy, gắn bó sắt son của tình vợ chồng ». (Góc bếp – Bánh phu thê Đình Bảng, sản vật tiến vua – không cho tên tác giả). !
Có người lại đưa Triết Lý vào cái bánh su sê : « Nhắc tới bánh phu thê, chắc đã không còn xa lạ đối với mỗi người Việt Nam, chiếc bánh vẫn thường xuất hiện trong mỗi dịp lễ tết, cưới hỏi. Bánh phu thê không chỉ là một trong những loại bánh truyền thống của Việt Nam mà còn hàm chứa trong đó triết lý âm dương của cả dân tộc… Tục truyền, tên gọi bánh phu thê là do sự tích vua Lý Anh Tông đi đánh trận, người vợ ở nhà thương chồng vất vả đã tự tay vào bếp làm bánh gửi ra cho chồng. Vua ăn thấy ngon, nghĩ đến tình vợ chồng đã đặt tên bánh là bánh phu thê. Cũng vì tên gọi ấy mà bánh phu thê (hay cũng còn gọi là xu xê) luôn được buộc thành cặp, biểu trưng cho sự gắn bó son sắt của tình chồng vợ » (Kêng14.vn – Nguồn gốc tên gọi của chiếc bánh vợ-chồng. Theo PLXH) !
Tựu trung, hàng trăm bài trên cũng chỉ dựa vào một câu của một tác giả đầu tiên là «nguyên xưa là bánh ” Phu thê “, một số địa phương nói chệch thành bánh “Su sê “», và cũng sao đi, chép lại, mà không cho xuất xứ, không dẫn chứng một tài liệu văn học sử nào !
Rồi từ đó, các bài cứ thao thao bất tuyệt, tràng giang đại hải. Đem vào không biết bao là tưởng tượng, là thêu dệt, mà không cho một mảy may xuất xứ !
Để góp phần vào sự tìm kiếm sự thật, tôi xin chia mục nầy ra làm hai phần (Thật ra, lúc trước chỉ có phần nầy, nhưng khi định cho đăng lên các điện báo, thì có người lại đề cập tới « Ngôn Ngữ Học », cùng Giáo Sư Ngữ Học nổi tiếng Lê Ngọc Trụ, với cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của Giáo Sư, nên tôi phải tìm tài liệu để khảo cứu thêm và để viết thêm phần thứ hai) :
I – Trong phần nầy, tôi không tìm nguồn gốc của hai chữ « Su Sê », mà đơn giản hơn nhiều: Trong dân gian, ba chữ « bánh Su-Sê » có trước hay có sau ba chữ « bánh Phu-Thê » ?
Nếu ba chữ « bánh Phu-Thê » có trước ba chữ « bánh Su-Sê » trong dân gian, thì có thể là hai chữ « Su-Sê » do hai chữ « Phu-Thê » mà ra. Nhưng chưa chắc, vì sau khi có loại bánh Phu-Thê, dân ta có thể đặt thêm loại bánh Su-Sê, khác với bánh Phu-Thê. Trong trường hợp nầy, chuyện hai chữ « Su-Sê » do hai chữ « Phu-Thê » mà ra, chỉ thực hiện được khoảng 50% mà thôi.
Nếu ba chữ « bánh Phu-Thê » có sau ba chữ « bánh Su-Sê » trong dân gian, thì chắc chắn hai chữ « Su-Sê » không do hai chữ « Phu-Thê » mà ra.
Ta thử tìm kiếm trong dân gian.
Nếu bánh Su Sê là do bánh Phu-Thê mà ra, và tượng trưng cho việc hôn nhân, thì ta đã thấy ba chữ « bánh phu-thê » trong các Ca Dao, Tục Ngữ. Tôi đã rà cuốn Tục Ngữ Phong Dao của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (Mặc Lâm Xuất Bản. Yễm Yễm Thư Quán. 1967 – Sàigòn), mà không tìm thấy ba chữ « bánh phu thê », chứ đừng nói gì về chuyện « không thể thiếu » bánh « phu thê » (su sê, sô sê, xu xê, xu xuê) trong những lễ cưới hỏi, như Trầu, Cau mà ta thấy hàng loạt trong các câu Cao Dao, Tục Ngữ, trong các tác phẩm văn học sử, hay trong các lễ Tơ Hồng Nguyệt Lão, lễ Hợp Cẩn với « hoa quả, bình trà, 12 miếng cau, 12 miếng trầu, một be rượu, hai chén nhỏ, dĩa gừng, đèn hương… » (Việt Nam Phong Tục. Phan Kế Bính. Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 1995 hay Một số Phong Tục Nghi Lễ Dân Gian Truyền Thống Việt Nam. Quảng Tuệ. Nhà Xuất Bản Văn Hóa dân Tộc, Hànội, 2004).
Lúc còn ở Huế, tôi có dự vài lễ cưới. Có những « đám cưới » không có bánh Su-Sê, như các tác giả đã khẳng định trên.
Mặt khác, nếu bánh « Su-Sê » là do bánh « Phu-Thê » từ xưa mà ra, thì trong các tác phẩm văn học, hay các Từ/Tự Điển chữ Nôm phải đề cập tới ba chữ « bánh Phu-Thê ». Vì sao chữ Nôm ? Vì chữ Nôm có trước chữ « Quốc Ngữ » (dùng mẫu tự Latinh). Cũng vì thế không nên tìm sáu chữ đó (« bánh Phu-Thê » và « bánh Su-Sê ») trong các tác phẩm hay Từ/Tự Điển viết bằng chữ « Quốc Ngữ », vì các tác phẩm đó hay các cuốn Từ/Tự Điển đó mới có sau nầy.
Tôi có nhờ anh bạn, ở Garden Grove, California, Mỹ, đến thư viện giúp tôi tra hai chử « Sê ; Su » trong cuốn Từ Điển Chữ Nôm Trích Dẫn – TĐCNTD (Viện Việt Học), hầu mong tìm được hai chữ « Su Sê » và hai chữ nầy là do hai chữ « Phu Thê » mà ra, cùng những câu trích dẫn những chữ nầy trong các tác phẩm văn học sử, nhưng rủi thay, anh đã cho biết « Đã xem kỹ các trang trong, không tìm thấy hai chữ “su, sê” tách rời hay liền chữ kép “su sê” hay bánh su sê, bánh phu thê, mà chỉ có hai chữ phu , thê ».
Tôi cũng có nhờ một chuyên gia về chữ Nôm, tại Paris, Pháp, tìm giúp trong các Từ/Tự Điển chữ Nôm bốn chữ « Sê ; Su ; Phu ; Thê », thì ông ta cho biết « Bánh su sê phải có từ lâu đời thì may ra mới có trong sách cổ (dù là văn chương hay từ điển). Tui có thử tìm thì không thấy từ điển cổ đề cập tới loại bánh này ».
Hay « Tự Điển của Trương Đình Tín và Lê Quý Ngưu gồm 2 tập: tập 1 sắp xếp theo ABC (2643 tr.); tập 2 theo bộ thủ và số nét (2756 tr.).
Về “Su sê” thì:
* tập1: “phu thê” hoặc “su sê”
– không có ở mục từ “phu” (tr 1683), “su” (tr. 1924-1925), “thê” (tr. 2118).
– có ở mục từ “sê” (tr. 1888)
* tập2: “phu thê” hoặc “su sê”
– không có ở mục từ ” 夫 phu ” (tr 541-542).
– có ở mục từ ” 妻 thê – sê ” (tr. 559)
Định nghĩa ở tập 1 và tập 2 (sê / 妻 ) giống y nhau.
Gửi Bác ảnh chụp trang 559 của tập 2.
Ngoài ra đó là giải thích không có dẫn xuất xứ cho hai chữ ” 夫 妻 ” đọc “su sê”. Tất cả cũng là do hai tác giả kết luận mà thôi.
Hy vọng Bác có thể tham khảo được. ».
Sau đây là trang 559 của cuốn Đại Tự Điển Chữ Nôm, của Trương Đình Tín, Lê Quý Ngưu – ĐTĐCNTĐTLQN (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa. Công ty Văn Hóa Hương Trang. Huế. 2007), mà ông ta đã cho :
妻
1. SÊ
N : Đọc trại âm « thê » (phương ngữ Huế), chỉ dùng trong cụm từ 夫 妻 Su sê = phu thê,
食 丙 夫 妻 Bánh su sê : tên một loại bánh thông dụng ở Thừa Thiên Huế, bên ngoài có khuôn bằng lá dừa bẻ vuông đậy úp lên nhau, bên trong là bột lọc trộn lẫn dừa và đường rồi cháo lên, nhụy làm bằng nhân đậu xanh xay nhuyễn. Bánh dùng trong việc cúng, kỵ, cưới hỏi.
2. TÊ
N : Kia, ấy. …
3. THÊ
H : Vợ cả, vợ chính. …
Rõ ràng trong ba chữ 食 丙 夫 妻 của cuốn Tự Điển trên, có một chữ Nôm, gồm chữ Thực 食 và chữ Bính 丙 ghép lại được đọc là Bánh, với hai chữ Hán Phu 夫 Thê 妻 , cả ba chữ được đọc là Bánh Phu Thê. Còn nói « đọc trại âm », thì phải đọc trại « âm “phu” », cớ sao trong từ « Phu » lại không nói đến âm « Su » ?
Vậy hai tác giả trên đã bị chi phối bởi những bài mà ta đã thấy trên các trang mạng, hay bởi cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị, và ông chuyên gia chữ Nôm ở Paris, đã góp ý : « Ngoài ra đó là giải thích không có dẫn xuất xứ cho hai chữ “ 夫 妻 đọc “su sê”. Tất cả cũng là do hai tác giả kết luận mà thôi ».
Ông cũng có nhã ý cho tôi một khâu trên mạng chữ Hán, khi gõ ba chữ « 夫 妻 餅 » (phu thê bính) vào khung Google, thì được trang « wretch/blog/clairehsiao » và có « 夫 妻 餅 . 這 是 越 南有 名 夫 妻 餅 » (Banh Phu The) (Đọc âm : Phu Thê bính. Giá thị Việt Nam hữu danh Phu Thê bính. Dịch : Bánh Phu Thê. Đây là bánh Phu Thê có tiếng của Việt Nam) (sau hàng chữ Hán có chua thêm trong vòng ngoặc đơn ba chữ « Banh Phu The » bằng chữ Việt không dấu). Ở dưới câu có hình chiếc bánh Su-Sê với cái nắp hình ngũ giác. Dưới đó nữa là mấy hàng chữ Hán nói đến nguyên liệu của bánh…
Ông ta cũng kết luận : « Tuy thế không có thông tin gì cụ thể cho thấy dịch hay tiếng Hán của “su sê” là “phu thê” ».
Như thế trang mạng nầy cũng bị chi phối bởi những bài bằng tiếng Việt tìm thấy trên Internet, như đã trình trên, hay do những người Việt đã cho rằng hai chữ « Su-Sê » là do hai chữ « Phu-Thê », mách cho.
Tôi tìm trong Đại Từ Điển Tiếng Việt – ĐTĐTV. Chủ biên : Nguyễn Như Ý. (Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hóa Việt Nam. Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin. Hànội, 1999), thì thấy :
Trang 104,
bánh phu thê dt Bánh đặc sản của người Huế, cắt thành miếng, màu trắng trong, ba lớp, giữa màu vàng, mềm dẻo, béo, ngọt, mát, làm bằng bột sắn lọc bỏ khuôn hấp chín.
Trang 1464,
dt su sê Bánh làm bằng bột nếp lọc, trong và quánh, màu hổ phách, có nhân bên trong.
Trong Từ Điển Việt Pháp – TĐVP – của Lê Khả Kế, Nguyễn Lân. (Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001), cho :
Trang 783,
phu thê (cũ) entre mari et femme; conjugal.
Trang 870,
su sê gâteau de pâte de riz couleur d’ambre.
Không có ba chữ « bánh phu thê » trong cuốn Từ Điển nầy.
Trong Đại Tự Điển Chữ Nôm của Vũ Văn Kính – ĐTĐCNVVK. (Nhà Xuất Bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu Quốc Học, 1999), cho :
Trang 60, 61,
BÁNH ÂHV (âm hán việt) 掽
Vó câu khấp khểnh BÁNH xe gập ghềng (KVK) (Kim Vân Kiều), BÁNH đa, BÁNH lái, BÁNH kẹo, BÁNH mứt, BÁNH dẻo, BÁNH chưng, BÁNH lá, BÁNH hỏi, BÁNH ít, BÁNH ngọt, BÁNH xe, BÁNH không nhân, cho ăn BÁNH vẽ, BÁNH tầy, BÁNH dầy, BÁNH phồng.
Ở từ Bánh nầy, có tất cả 14 chữ Nôm dưới dạng Hài Thanh (HT), như :
軿 HT Xa 車 + Tinh 并 , 片 丙 HT Phiến 片 + Bính 丙 , 米 丙 HT Mễ 米 + Bính 丙 …
Không có ba chữ « bánh Su Sê » cùng ba chữ « bánh phu thê » trong mục từ « BÁNH » nầy.
Trang 1082,
PHU 夫 伕 ÂHV 孚枹 趺 鈇 孵 麩 敷 膚 鄜 (tất cả có 14 chữ).
Hảy xin báo đáp ân tình cho PHU (KVK), Ai chẳng khen là đức PHU nhân (GHC) (Gia Huấn Ca), Cong PHU, Đi PHU, Mướn PHU xây nhà.
拊 GT (giả tá) ÂHV Phụ
Không có ba chữ « bánh Su Sê » cùng ba chữ « bánh phu thê » trong mục từ « PHU » nầy.
Trang 1349,
THÊ ÂHV 妻 梯 悽 棲
Buổi tiễn đưa lòng bịn THÊ noa (CPN) (Chinh Phụ Ngâm), THÊ lương, THÊ thảm, Phu THÊ, Lê THÊ.
Không có ba chữ « bánh Su Sê » cùng ba chữ « bánh Phu Thê » trong mục từ « THÊ » nầy.
Trang 1215,
SÊ (không viết ra được) 棲 GT ÂHV Si, Thê
Bánh Su SÊ, Nước SÊ Si Ri A, Thành SÊ Sa Ri A, SÊ Nô Ca, Phi li SÊ (M.) (Majorica).
HT Thủ 扌 + Thê 妻
槎 GT ÂHV Tra (Mộc + Sai)
HT Túc 足 + Xa 車
HT Mộc 木 + Sư 師
Có ba chữ « bánh Su Sê » trong mục từ « SÊ » nầy.
Trang 1237,
SU 秋收 GT ÂHV Thu
Củ SU hào, Cây SU, Cao SU, Bánh SU sê, Đất SU Du Ma, Đức Chúa Giê SU sinh thì trên cây Thánh giá.
樞 趨 GT ÂHV Xu
HT Thảo 艹 + Sô 芻
HT P. hiệu ” + Thu 秋
HT Mộc 木 + Sô 芻
GT Sô (viết đơn, gồm nửa chữ Sô ở trên, dưới là nháy).
Có ba chữ « bánh Su Sê » trong mục từ « SU » nầy.
Vậy hai Từ Điển ĐTĐTV và TĐVP có cho ba chữ « bánh Su-Sê », và Tự Điển ĐTĐCNVVK cũng cho ba chữ « bánh Su-Sê » ở các từ « Sê », « Su » và còn cho cả chữ Nôm của hai chữ « Su ; Sê », cùng cho dẫn chứng (tuy không cho tác phẩm văn học sử nào) ở các trang 1212 và 1237. Ta thấy đàng hoàng ba chữ « Bánh 米 丙 », « Su 木 芻 », « Sê 扌 妻 ».
Cũng nên nhớ ba tác giả Nguyễn Như Ý (cùng với ban Biên Tập là Nguyễ Văn Khang, Vũ Quang Hào, Phan Xuân Thành), Lê Khả Kế (cùng với Nguyễn Lân) và Vũ Văn Kính là ba nhà uyên bác đã làm Từ Điển lâu năm, và đã có tiếng tăm trong giới văn học, trước năm 1975.
Điều nầy cho ta thấy : Ca Dao, Tục Ngữ, Phong Tục, Lễ Nghi xưa trong dân gian, không đề cập đến loại « bánh Phu-Thê » trong các lễ cưới hỏi ; các Từ/Tự Điển chữ Nôm xưa, có đề cập đến ba chữ « bánh Su-Sê », còn các Từ/Tự Điển chữ Nôm mới đây, hoặc không đề cập đến ba chữ « bánh Phu-Thê », hay nếu có như ĐTĐCNTĐTLQN mà không cho dẫn chứng (bị chi phối bởi các bài trên các trang mạng Internet hay bởi cuốn Việt Ngữ Chánh Tà Tự Vị, xem Phần 2).
Vậy rõ ràng trong dân gian, ba chữ « Bánh Su-Sê » có trước ba chữ « bánh phu-thê » và như thế « Bánh Su-Sê » không do « bánh phu-thê » mà ra, như một số người ngày nay đã khẳng định và cho là « đọc trại âm ».
II – Ngữ Học với cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của GS. Lê Ngọc Trụ.
Cũng vì, trước khi cho đăng phần 1, có người đã đề cập tới cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của nhà Ngữ Học nổi tiếng Lê Ngọc Trụ, và cho tôi hình chụp trang 556 của cuốn Tự Vị đó (Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị (NXB Thanh Tân, Sài Gòn, 1959). Trong đó GS. Lê Ngọc Trụ cho:
Su (n) 1. tên loại cây : cây – ; củi – .;
2. thô tục ; ngu si : – si ; – sơ ;
3. cứt su < sơ (初 ), con nít mới sanh tiêu ra lần đầu, cứt đen và dẻo : đời ông Nhạc ỉa cứt su = lâu đời quá.
4. bánh su-sê hoặc sô-sê do tiếng “phu thê bính” đọc trại.
5. phiên âm : su-hào (chou rave) ; cao-su (caoutchouc).
Cũng vì thế, nên tôi mới viết thêm phần nầy.
Tôi đã từng nghe tiếng GS. Lê Ngọc Trụ, nhưng cũng vì xa Việt Nam quá lâu (từ 1962 đến bây giờ), nên tôi không biết nhiều về các tác phẩm của GS. Lê Ngọc Trụ. Có chăng, là tôi có đọc Cách Phiên Thiết của Lê Ngọc Trụ trên mạng mà tôi rất khâm phục. Khó ai mà phản bác được giá trị của những công trình khảo cứu của GS. Lê Ngọc Trụ đối với văn học nước nhà. Mặc dù với tấm lòng ngưỡng mộ của tôi đối với GS. Lê Ngọc Trụ, nhưng mấy hàng trên « Bánh su-sê hoặc sô-sê do tiếng “phu thê bính” đọc trại » chưa thuyết phục tôi. Vả chăng, có thể GS. Lê Ngọc Trụ, vì đã biết ba chữ « Phu-Thê Bính » nên mới có xu hướng cho « bánh Su-Sê » là do « Phu-Thê Bính » mà ra chăng ? Nên tôi đã vất vả tìm kiếm hai cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị và Tầm Nguyên Từ Điển Việt Nam của giáo sư, từ Mỹ đến Việt Nam, để tìm hiểu cách giải thích của giáo sư, nhưng đến bây giờ cũng chưa có được (đã trên 1 tháng).
Thật sự như đã trình, lúc đầu tôi không đi tìm nguồn gốc hai chữ « Su Sê », vì tìm làm gì ? Có thể Ông Bà, Tổ Tiên chúng ta khi tạo ra loại bánh đó rồi tùy tiện (arbitrairement / arbitrarily) gọi là « bánh Su-Sê » thì sao ?
Khi ta đặt tên cho một sự vật, thì thường ta có ba ý :
– Đặt tên một cách tùy tiện. Cái đó là tên A, và hết.
– Đặt tên có dụng ý, như « bánh da lợn » vì loại bánh nầy giống « thịt heo (lợn) ba chỉ » (?).
– Lấy tên của ngoại quốc đặt, rồi ta đọc trại ra, như « bu gi ; bu ri » (bougie = nến điện đánh lửa), hay « bánh Trung-Thu » (Trung Thu Nguyệt Bính中 秋 月 餅 ).
Vậy không chắc gì hai chữ « Su Sê » do người ngoại quốc đặt, mà phải đi tìm kiếm nguồn gốc chữ ngoại quốc. Nhưng GS. Lê Ngọc Trụ đã cho trong cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị, nên tôi phải tìm hiểu cách giải thích của giáo sư.
Hiện bây giờ, tôi chỉ được một trang lời Tựa của cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị tìm thấy ở Loinho’s Blog, Trong đó cho biết là GS. Lê Ngọc Trụ chỉ chuyên khảo cứu các chữ Hán-Việt. Vậy nếu hai chữ « Su-Sê » là tên đặt tùy tiện, hay do gốc của các thứ tiếng khác (không phải chữ Hán), như hai chữ « Sa-Kê » trong cây Sa-Kê là do chữ Thái « saké ( สๅเก) » (đọc là xa kê) mà ra, thì sao ? Lúc trước, ở nhà tôi, tại Huế, có trồng một cây Sa-Kê. Trái như trái Mít, nhưng tròn và nhỏ hơn trái Mít nhiều. Chúng tôi chỉ lấy hột, luộc lên mà ăn, rất ngon (xem thailande culture et tradition, trên mạng).
Sau đây là trích một phần lời Tựa đó :
« Vả lại, về tự-nguyên, chúng tôi chỉ chú-trọng phần lớn vào tiếng Hán-Việt, dựa nơi âm, nghĩa của nó mà truy-khảo; những tiếng Việt chuyển gốc hoặc tương-đương với mấy tiếng Mường, Chàm, Đồng-bào Thượng…hoặc tiếng các xứ láng-diềng, tiếng Thái, tiếng Môn-Miên, tiếng Mã-lai…vì thiếu tài-liệu đích-xác, nên không xét đến. Vì vậy, trong quyển nầy, riêng chúng tôi cũng tự thấy còn khuyết-điểm sai-lầm. Nhưng vì nhiệt-tâm với tiền-đồ ngôn-ngữ văn-tự nước nhà, chúng tôi mạo-muội cho xuất-bản, dám mong được quý ngài phủ-chánh và chỉ-giáo cho, để cùng đi lần đến sự thống-nhứt chánh-tả. »
Mặt khác, cũng do chuyện đi tìm tài liệu của GS. Lê Ngọc Trụ, tình cờ tôi được biết BS. Nguyễn Hy Vọng và đã được bác sĩ cho tôi khoảng 25 bài viết của bác sĩ.
Bác Sĩ Nguyễn Hy Vọng, ngoài việc hành nghề Y Khoa, còn khảo cứu thêm nguồn gốc tiếng Việt trên 30 năm (từ năm 1981). Bác Sĩ đã cho ra cuốn Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt dưới dạng 10 CD và dưới dạng in trên giấy khoảng 4 000 trang (đang cho tái bản lại), gồm khoảng 275 000 thí dụ về đồng nguyên của 58 tiếng nói ở Đông Nam Á, dùng làm chỗ dựa cho khoảng 27 400 tiếng Việt (từ đơn, kép, ghép ba, ghép bốn).
Chúng ta hãy nghe BS. Nguyễn Hy Vọng.
Trích bài Những cái bất ngờ lý thú trong khi tìm hiểu tiếng Việt và nguồn gốc Nam-Á. BS. Nguyễn Hy Vọng :
« Ông Lê ngọc Trụ, cách đây 40 năm, nhìn đâu cũng thấy tiếng Tàu, nên đã gượng ép gán cho rất nhiều tiếng Việt, từ Việt những cái âm hưởng đồng nguyên giả tạo [false cognatic inferences ] với tiếng Tàu hay âm Hán Việt, mà không hề đưa ra bằng chứng có thật về đồng nguyên với các ngôn ngữ khác ở Đông nam Á :
chỉ 紙 sinh ra [sic] giấy
tranh 爭 sinh ra giành
chủng 種 sinh ra giống
chính 正 sinh ra giêng [sic] / chính nguyệt là tháng giêng !
khang 腔 sinh ra xương
cấp 急 sinh ra gấp
cương 綱 sinh ra giềng [- mối]
tiết 節 sinh ra Tết
tải 載 [chuyên chở] sinh ra chài [ghe chài] [?!]
Ta hãy xem dưới đây nguồn gốc [cognates] thật sự của các tiếng trên :
GIẤY [paper / papier]
Mường : k-chấy
Burma : s-giuếy
[nếu bảo là âm này là Tàu thì tại sao người Mường và Burma còn phát âm giống Việt hơn nhiều ?]
GIÀNH [to dispute, compete, vie for, to accaparate, take away from, ] [se disputer, entrer en compétition, s’emparer de].
Mường : chènh, chèng
Nùng : cheng = tranh giành
Thái : pr-chành
gièng chjing = giành nhau
Mon : k-giành
Khmer : pr-chèng
chèng
kòn-nhèng
tròn-chèng
Indonesia : saing = giành giựt
[nếu bảo là do chữ tranh của Tàu mà ra thì tại sao không nói là cạnh giành, giành thủ, giành chấp, chiến giành! Mà lại nói là cạnh tranh, tranh thủ, tranh chấp, chiến tranh ?].
GIỐNG [species, gender, race] [espèce, genre, race]
Hmong : t-zống
Thái : kh-yong (âm : kh-giống)
GIÊNG (tháng giêng) [first month of the lunar calendar][premier mois lunaire] không phải là do chữ chính mà ra, vì nguồn gốc và nghĩa nó khác hẳn !
Thái : chiêng, kiêng
đươn chiêng = tháng giêng
đươn kiêng = tháng giêng
Nùng : chiêng
hươn chiêng = tháng giêng
Lào : đươn giêng = tháng giêng
Burma : a-yiêng [đầu tiên, trước hết]
Pali/Sanscrit : yir [ id ]
Chàm : bulăn đhia = tháng giêng
[nếu bảo là do chữ chính của Tàu mà ra, thì tại sao không nói là giêng trị, giêng quyền, giêng sách [sic] v..v.. mà lại nói chính trị, chính quyền, chính sách] ?
XƯƠNG [bone][os]
một tiếng rất hay nói : [bộ -, – xóc, – xẩu, gãy – v..v…] mà ông Lê ngọc Trụ gán cho nó một âm hưởng Hán Việt là khang [sic], trong khi hàng chục đồng nguyên của hàng chục ngôn ngữ anh em với tiếng Việt dưới đây, cho thấy quá rõ nó nguồn gốc từ đâu.
Mường : xang
Nùng : xang
Khmer : x-ưang
Aslian [bên Malaysia] : xương
Hmong/Mèo : x-âng
Bahnar : x-ang, k-xang
Sedang : k-siang, k-xiang
Katu, Bru : ng-ang
Rengao : k-xâng
Mdrah, Didrah, Todrah [gần Kontum] : k-xeng
Palaung/Wa : x-ang
Mundari, Santali [đông bắc Ấn độ] : xang, zang, jang
[hàng chục sắc dân này đâu có dính dáng gì đến Tàu đâu, họ đều phát âm như Việt vậy].
GẤP [hurried, hasty, urgent][urgent, en hâte, hâtif]
Malay: gapah
Thái : khu-ấp (âm : khấp)
k-kấp k-kap = gấp gáp !
hu-ấp háp = id
h-ngốp h-ngap = id
Khmer : hi-ấp
Saora [dòng Munda] : s-gấp
Lào : hấp / rấp
hấp rịp = gấp và rộn rịp!
hấp pày = đi gấp
Chàm : h-gấp = gấp, vội.
[cả vùng ngôn ngữ Đông nam Á mấy trăm triệu người cũng nói vậy, đâu phải chỉ là vấn đề riêng giữa Việt và Tàu đâu ? mà bảo là gốc Tàu !].
GIỀNG [- mối]
English : established customs, habits, patterns of transaction, business or ways of life.
Francais : coutumes, habitudes de vie, pratiques de transactions.
Một chữ nghe âm hưởng rất làViệt và có vẻ quê mùa, vậy mà dính gốc với Thái Lào thuần ròng và đúng điệu !
Thái : yiềng, ji êng = kiểu cách, cách thức đường lối.
Khmer : riềng = hình thức, kiểu mẫu, mô hình.
Lào : yiềng = sự sắp xếp, xếp đặt, dàn xếp.
[chữ giềng tự nó đã có nguồn gốc rõ ràng, cần gì phải gượng ép bắt nó dính líu vào chữ cương của Tàu ? ].
TẾT [ngày -, ăn -, pháo -, chúc -, lễ -, hội -, mừng -, đi -, biếu -, quà -, sắm – // – nhất, – ta, – tây v… v…]
Tết là ngày hội hè đầu năm
Eng : lunar new year festival, celebration, holidays.
Fr : nouvel an oriental, du calendrier lunaire.
Một tiếng « nhức nhối » về ý nghĩa, các ông Hán Việt cho là nó đọc trẹ cái âm của Tàu là Tiết [season, time, climate change…]
Từ điển Huỳnh tịnh Paulus Của : tiết đầu năm [sic].
Từ điển Khai TríTiến Đức : không hề cho rằng tết là tiết .
Từ điển của Al de Rhodes : có nhắc đến những từ ngữ : tết năm, tết ai, ăn tết.
Nhưng coi chừng, cả mấy chục ngôn ngữ ở Đông nam Á không dính dáng gì đến Tàu, cũng nói như vậy ! coi chừng bé cái lầm. Sự thực cái lầm này không bé tí nào, nó lầm lớn lắm và lầm lẫn đã hơn hai ngàn năm nay rồi, hãy xem xét trong các ngôn ngữ sau đây :
Nùng : Tét = Tết
nièn Tét = năm Tết
Chàm : băng Tít = ăn Tết [băng là ăn]
Tít = Tết [lễ tháng năm của lịch Chàm]
Bùlăn : Chết = tháng Tết
Khmer: Chêtr = lễ tháng năm [lịch xưa của Khmer], tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại, tháng của mùa gió nồm ở Đong nam Á, tháng của mùa mưa đến trên lục địa Ấn và miền ĐNÁ. [Tùy theo vị trí từng nước, mưa đến với gió mùa từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm ] = tên tháng 4 và 5 của lịch Ấn xưa.
khae Chết = tháng tết [tháng 4 dương lịch] [khae là tháng]. Tháng Tết Khmer khoảng 13 tháng tư dương lịch, khoảng 23 tháng ba âm lịch.
Chết khal = thời gian có lễ Tết ấy [khal là thời gian, lúc, khi ]
Thái : Thết
thết khal = mùa tết, những ngày tết. [annual Thết celebration / new year propitious ritual]
thết Thày = tết Thái / Thái new year ritual celebration.
trếts = tết [từ điển Francais -Thái của Pallegoix]
trêts chền = Chinese new year [ chền là Tàu]
chêtr = fifth lunar month [mid April]
trôts = lễ hội đầu mùa mưa của lịch Thái xưa, cuối April-May
trôts farăng dịch là Tết hoa lang [western new year]
chú ý: farăng = Hoa lang = occidental, western
Zhuang : Sit = Tết của người Zhuang bên Quảng Tây, một bộ tộc thuộc dòng Tai, họ đông đến 25 triệu người, nói tiếng thái xưa.
đươn sít = tháng tết [yearly monsoon festival ritual celebration]
Mon : K-têh = first days of Mon new year
Nepal : Teej [Teetj Brata] = lễ đầu năm của người Nepal [theo báo Người Việt Oct 9, 1992/ số báo 305]
Mustang : Tij, tiji = ngày lễ mùa mưa đến [xứ Mustang ở sát với Nepal]
Đông Bắc Ấn độ : Teej = monsoon festival [theo National geographic thì : swinging in celebration, village girls sing the ancient melodies of Teej , the festival marking the return of the monsoon and the promise of prosperity].
Sau cùng , cái cú dứt điểm [knock out punch] chấm dứt cái quan niệm sai lầm 2 100 năm hơn của chúng ta là cái cú [coup] này :
Chính Khổng Tử cũng không hề nói tết là do tiết mà ra ! Ông nói rằng :
“… ta không biết tết là gì ! nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn người Man[sic] họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó mà không phải là những ngày đầu năm của chúng ta. Nghe đâu họ gọi là Tế-Xạ 祭 蜡 [sic] / [theo kinh Lễ ký].
Nếu Khổng Tử nghĩ rằng tiết sinh ra tết, sao lại còn đi phiên âm một cách khá vụng về là Tế-sạ làm gì ? Chữ tiết của Tàu dù là đời Khổng Tử đi nữa làm sao mà “trẹ” cái âm thành ra “tế-sạ” được ? Bởi vì ổng không nghĩ như thế !
Rồi không lẽ ổng không nghĩ như thế mà ta lại cứ khư khư bo bo mà suy nghĩ như thế làm gì nhỉ, hơn nữa có cả chục ngôn ngữ khác chẳng ăn thua gì đến tiếng Tàu mà cũng lại nói trại trại trẹ trẹ Tết, y như ở trên làm ta phải suy nghĩ lại về cái hiểu lầm “tết = tiết”.
CHÀI [kẻ -, ông -, người -, bạn -, tay -, thuyền -, đi -, làm nghề -, thả -, kéo -, đan -, quăng -, cất -, dở -, kéo -, vạn -, làng – // – lưới, – cá // chóp -, nắm chóp -].
~ chài là cái lưới cái rớ, cái đồ đánh cá, dụng cụ để bắt cá
~ chài là tung ra, rải ra, quăng ra, vất ra, ném ra, lia ra, liệng ra, làm cho bung ra
~ chài [nghĩa bóng] là quyến rủ, dụ dỗ, mê hoặc, nhử cho ai bị mắc bẫy, mắc lưới, vào tròng [chài gái, chài yểm, đi chài kẻ khờ khạo]
Eng : fish net, fish trap / to throw a fish net, to set a fish trap / to trap, to entrap, to lure into entrapment, to catch with a snare, to ensnare.
Fr : filet de pêche, épervier, tramail, carrelet de pêche / jeter l’épervier / jeter un sort, envouter, captiver qq par des paroles douceureuses.
Pali/Sanskrit/Thái : chal = cái chài [lưới, rớ]
Lào : chal = cái chơm tre để chơm cá
Chàm : chal = cái chài, lưới cá, rớ cá
thrah chal = thả lưới, thả rớ để bắt cá
Indonesia : jala = cái chài [lưới, rớ, dụng cụ bắt cá]
mata jala = mắt lưới
chjala = cho vào lưới, làm cho mắc bẫy, gài bẫy
chú ý: nghĩa bóng cũng giống nhau giữa tiếng Indonesia và Việt !
Bấy nhiêu cũng đủ đánh gục cái quan điểm hời hợt giả tạo là tiếng Tàu tiếng Việt một lò mà ra [sic].
Ông ấy lại còn viết : « trong sự truy nguyên, còn xét những tiếng gần với tiếng Mường Chàm Thái Khmer, Mã lai; công việc này ngoài phạm vi chính tả của chúng tôi » [sic]
Vậy hóa ra ổng làm như thể là những tiếng đó không có chính tả, muốn viết sao thì viết à ?
Tại sao ông ấy lại cứ phải né tránh, mà chỉ muốn truy nguyên riêng cho Hán Việt ?
Đã gọi là truy nguyên mà cứ nhè một người / đối tượng mà truy thôi, hèn gì mà đối tượng đó lãnh đủ ! Có bao nhiêu tiếng Việt , ổng đều quy cho là tại tiếng Tàu mà sinh ra cả !
Cũng tội nghiệp cho tiếng Tàu, ai ăn đâu mà mình phải chịu trận.
Vậy thì chân tay ở đâu mà sinh ra, không lẽ do thủ túc mà sinh ra ?
mặt mũi, mắt ở đâu mà sinh ra, không lẽ lại bảo là ngoài phạm vi chính tả của ổng ?
Tệ hơn nữa là gần đây, ông Nguyễn Phương, giáo sư Đại học Huế trước 1963, còn viết:
« … người Việt chẳng qua là người Tàu [sic] mà tràn xuống sinh sống ở vùng quanh châu thổ sông Hồng hiện nay, rồi khi đủ điều kiện thuận tiện [sic] thì trở thành người Việt... » ! [xin miễn phê bình].
« …tiếng Việt chẳng qua là tiếng Tàu xen lẫn một vài tiếng Mường tiếng Mọi mà thôi {sic]…vì chẳng qua gặp dịp có thêm một vài tiếng để mà tiện nói chuyện hay buôn bán với họ …» [sic] [miễn phê bình luôn vì nhận xét ấy quá kì !] ».
Hết trích. (Hơi dài, nhưng tôi phải trích ra cho hết ý).
Vậy theo tôi, Giáo Sư Lê Ngọc Trụ đã lầm chăng ? Vì đã biết đến ba chữ « Phu-Thê Bính » nên có xu hướng cho Bánh Su-Sê là do Phu-Thê Bính đọc trại ?
Phu-Thê Bính và Bánh Su-Sê khác nhau rất xa về hình dạng cũng như nguyên liệu. Phu Thê Bính là loại bánh nướng làm bằng bột mì, không gói lại hay gói bằng giấy, năm bảy cái lại với nhau, còn Bánh Su-Sê làm bằng bột lọc trộn với dừa rồi hấp lên, gói bằng lá dừa. Xin xem trang mạng «www.wretch/blog/clairehsiao », đã trình ở phần 1 trên.
Ngoài ra ở Thái Lan, có loại bánh tựa tựa như bánh Su-Sê, cũng làm bằng bột nếp, nước dừa, dừa nạo, gói bằng lá chuối, và được hấp lên, có tên là Khanom Sod-Sai / Sord-Sai. Khanom hay Kanom nghĩa là bánh (xem Salee Thai Food Recipe, trên mạng).
Nếu hai chữ « Su-Sê » là do tiếng ngoại quốc đọc trại thì hai chữ « Sod Sai / Sord-Sai ขนมสอดไส» (đọc là xô xê) gần với hai chữ « Su Sê » hơn là hai chữ « Phu Thê ». Còn nguyên liệu thì hai loại bánh Sod-Sai và Su-Sê cũng gần gần giống nhau, trong khi Phu-Thê Bính là loại bánh nướng làm bằng bột mì, không có dừa. Tôi chỉ nêu ra, chứ không khẳng định (hai chữ « Su Sê » là do hai chữ « Sod Sai » mà ra) gì hết.
Trong phần [I] của bài nầy, tôi đã cố gắng chứng minh, trên phương diện Ca Dao, Tục Ngữ, Phong Tục xưa, Từ/Tự Điển chữ Nôm, ba chữ « bánh Su-Sê » có trước ba chữ « bánh Phu-Thê » trong dân gian. Trong phần nầy, tôi đã đưa ra lời Tựa của cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị và bài Những cái bất ngờ lý thú trong khi tìm hiểu tiếng Việt và nguồn gốc Nam-Á để nói ra sự lầm lẫn, có thể có, rất trầm trọng của GS. Lê Ngọc Trụ, để kết luận rằng :
Hai chữ « Su Sê » không do hai chữ « Phu Thê » mà ra.
Có thể, có loại bánh « Phu-Thê », nhưng loại bánh nầy chỉ mới đặt ra sau nầy, và có lẽ, ở Huế, là sau nền Đệ Nhất Cọng Hòa Miền Nam. Và nếu có, thì hình dạng và nguyên liệu hai thứ bánh đó cũng không giống nhau (xem ĐTĐTV ở phần 1).
Những trang mạng trên và những Từ/Tự Điển mới làm sau nầy, e bị cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị (1959) chi phối. Nếu quả thật là GS. Lê Ngọc Trụ đã lầm, và như đã trình bày trên, GS. Lê Ngọc Trụ có thể lầm lắm, thì mấy cuốn Từ/Tự Điển mới làm sau nầy sẽ gây tai hại rất nhiều cho văn học cho hậu thế. Làm Từ/Tự Điển phải hết sức cẩn trọng, phải khảo cứu tường tận, nếu có nghi ngờ thì phải nói thẳng ra, chứ đừng cắm đầu vào sự biên chép sách nầy vở khác, tùy tiện giải thích, mà gây tai hại rất lớn cho Văn Học, cho Giới Trẻ, cho Hậu Thế sau nầy.
Sau một thời gian, nhất là ở ngoài Bắc, một số người Việt hay tránh chữ Hán để gọi những sự vật bằng tiếng Việt, như « máy bay lên thẳng » (trực thăng), « tên lửa » (hỏa tiển)…, thì từ khoảng 1990 cho đến ngày nay, một số người Việt lại muốn « Nói Chữ (Hán) », như « bài giảng » được thay bằng « giáo trình » ; « mau mắn», « lẹ làng» hoặc « căng thẳng» (tùy nghĩa trong câu) được thay bằng « khẩn trương »….
Theo Lê Hữu trong Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi, « Các ví dụ trên cũng cho thấy một điều hơi lạ, người Việt trong nước, một mặt có xu hướng thuần-Việt-hóa các từ ngữ Hán-Việt, một mặt lại sính dùng các từ ngữ này. Có vẻ như đối với những gì “trân quý” hoặc muốn “phô trương thanh thế” thì họ chuộng sử dụng tiếng Hán-Việt, hoặc giữ nguyên tên Hán-Việt chứ không muốn đổi sang tiếng thuần Việt. »…
Vì thế mà tôi ngờ là có người muốn « Nói Chữ », cho ra vẻ có « chữ nghĩa », cho ra vẻ « trí thức », nên mới viết « nguyên xưa là bánh ” Phu thê “, một số địa phương nói chệch thành bánh ” Su sê “ ». Những người đó khẳng định như thế, nhưng không đưa ra một dẫn chứng văn học sử nào cả.
Nếu muốn « Nói Chữ » mà không cho xuất xứ, thì rồi đây, cũng có thể, có người sẽ cho hai chữ « Cơm Hến » là do hai chữ « Cao Hứng 高 興 » mà ra, vì « Cơm Hến » là một món ăn rất hứng thú cao thượng…, và cứ như thế, mà thêu dệt, nào là triết lý, là phong tục, là lễ nghi, là vua chúa…, cho sát với chữ Tàu chăng ?
Kính mong độc giả cho ý kiến.
TS. Nguyễn Vĩnh-Tráng
Mùa Hè năm Con Mèo.
309 082 011 nvt*ttl*
609 092 011 nvt*ttl*
One Comment
No Name
Kinh thua qui vi,
(Sorry, I had to use English since I do not have access to Vietnamese font at Canadian Library).
I really admire you for all the work you’ve done to research the originality of a name for cake (which I happen to like very much).
But I have an experience that I would like to share with all of you…
When my child was young (very..), I left her at my mother’s care.
One day, she was taken to a pagoda and she had eaten a cake called Banh It.
She also got a few home as a gift from the nuns at the pagoda.
That evening, she refused to eat anything. My mother was worried and as any mother would, she resorted to asking her niece to eat what she had eaten that morning. (‘Hay la, con an banh cua su co cho nhe!`’). The niece agreed and said ‘Banh su co!’.
From then on, we always refer to Banh It tran (or banh Nep) as ‘Banh Su Co’
Certainly, nobody outside our family would know what in the world is ‘Banh Su Co’…But now, you, and all will know, and who knows one day… Somebody like you…could search and search and …search for the originality of the words.
Could it not be like that in the case of Banh SU SE. It could be some kids,
somewhere in our country, with their babies’ talk had made some mistakes in pronouncing it, maybe at an important event (ong hoang hay ba cong chua nao do), which makes people remember it more.
But thank you for your effort in researching!
My other question is: The way we wrap the Banh Su-Se or Phu-The using the palm leaf arrived in our culture before or after the Japanese had invent the box (origami) that way? I have always hoped that we invented it and the Japanese learned from us since world war II. Remember, we also wrap Banh Chung that way, too, except it was not so enginous as in the use of palm leaf. (Cac cu dung la dong de co cai song la nhu la dua). And Banh chung has appeared a long, long time in our culture.
Have a nice day!
No Name!