Cho đến bây giờ, tôi vẫn ngưỡng mộ những người cộng sản thuộc thế hệ thứ nhất, những người vào đảng và tham gia cách mạng trước khi Việt Nam độc lập. Tôi vẫn tin họ là những người tốt. Tốt theo ba nghĩa: yêu nước, có lý tưởng và can đảm. Xin đừng quên: thời Pháp thuộc, tương lai của mọi cuộc cách mạng đều mù mịt. Dấn thân vào cách mạng, bất cứ là thứ cách mạng nào, cũng có nghĩa là dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bất trắc. Số người bị bắt bớ, bị tù đày và bị giết chết nhiều vô kể. Vậy mà họ vẫn sẵn sàng đem chính mạng sống của mình, và đôi khi, của cả gia đình mình, để thế chấp cho một tương lai hoàn toàn vô định. So với những người muốn sống một cách an thân, họ, dù sao, cũng đáng cho chúng ta ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, sau khi ngưỡng mộ, điều khiến tôi không ngớt băn khoăn là: tại sao, chỉ một thời gian ngắn sau khi có chút quyền lực, họ lại biến chất nhanh đến vậy?
Biến chất về nhận thức: Từ những người tin tưởng nhiệt thành vào quy luật vận động của lịch sử, họ lại muốn quay ngược lịch sử trở lại thời kỳ trung cổ với những ràng buộc và hạn chế khắc nghiệt chỉ có mục đích duy nhất là kiềm hãm sự phát triển của trí tuệ, và từ đó, của lịch sử. Tại sao?
Biến chất về lý tưởng:
Từ những người sẵn sàng hy sinh để tranh đấu cho tự do, họ lại cố hết sức để thiết lập một chế độ toàn trị chà đạp lên mọi thứ quyền tự do căn bản của con người, từ tự do tư tưởng đến tự do ngôn luận, từ tự do tôn giáo đến tự do chính trị. Tại sao?
Biến chất về đạo đức:
ừ những người phẫn nộ trước tội ác của thực dân họ lại trở thành những đao phủ không gớm tay trong việc giết chết và đày đoạ hàng triệu đồng bào của chính mình trong các cuộc chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, đánh tư sản mại bản, chống xét lại và những cái gọi là diệt tề, diệt nguỵ. Tại sao?
Biến chất về nhân cách:
Từ những anh hùng theo đuổi những lý tưởng cao cả, họ biến thành những kẻ độc đoán, quỷ quyệt, thâm hiểm, xảo trá, và thật lạ lùng, biến thành con giun con dế trước lãnh tụ, nói như Nguyễn Bính, “Con quỳ trước Bác mênh mông / Tội nhiều chẳng dám ngẩng trông Cha già”. Tại sao?
Mà không phải chỉ có cộng sản Việt Nam. Cộng sản ở đâu cũng thế. Cũng bị biến chất về lý tưởng và đạo đức. Ở đâu, thoạt kỳ thuỷ, họ cũng là những người yêu nước, có lý tưởng và can đảm. Và ở đâu, sau khi cầm quyền, họ cũng trở thành những tên sát thủ hàng đầu của thế kỷ. Hơn cả Nazi và phát xít. Trong cuốn The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression do Harvard University Press xuất bản năm 1999, Martin Malia cho rằng so với các cuộc tàn sát chính trị của cộng sản, việc giết người của Đức Quốc Xã trở thành nhỏ bé: tổng số nạn nhân của Đức Quốc Xã là khoảng 25 triệu, trong khi đó, tổng số nạn nhân của cộng sản trên khắp thế giới là từ khoảng từ 85 đến 100 triệu người (tr. x-xi).
Giết người nhiều hơn chủ yếu là vì thời gian cầm quyền lâu hơn, nhưng bản chất của chủ nghĩa cộng sản và Đức Quốc Xã, như Hannah Arendt phân tích trong cuốn Origins of Totalitarianism (1958): cả hai đều tàn sát thẳng tay nạn nhân không phải vì những gì họ LÀM mà là vì những gì họ LÀ. Trước, chế độ phong kiến cũng như chế độ thực dân đều vô cùng tàn bạo nhưng hầu hết họ đều chỉ tàn sát với những người chống đối lại họ. Với Đức Quốc Xã và cộng sản thì không. Đức Quốc Xã thì tìm cách huỷ diệt mọi người Do Thái, bất kể già hay trẻ, nam hay nữ, thân Đức hay không thân Đức; chế độ cộng sản thì nhắm chủ yếu vào thành phần giai cấp (tư sản và địa chủ) và thành phần chính trị (địch / tề / nguỵ), riêng trong trường hợp của Liên Xô trước đây, họ còn nhắm vào yếu tố chủng tộc nữa.
Giết người vì cái họ LÀ tàn bạo hơn việc giết người vì cái họ LÀM ở chỗ: Nó không cần những lý do cụ thể và cũng không gắn liền với sự thù hận nào cả. Hay đúng hơn, sự thù hận của họ không xuất phát từ những kinh nghiệm trù dập thông thường mà chủ yếu xuất phát từ quan niệm phân loại địch/ta và chủ yếu được củng cố từ bộ máy tuyên truyền. Ở đây, nạn nhân bị trừu tượng hoá. Bị trừu tượng hoá, họ không còn là con người. Họ chỉ còn là một nhãn hiệu: địa chủ / tư sản / địch / nguỵ / phản động / Việt gian / bán nước / tay sai, v.v… Giết người, do đó, biến thành một việc giết chữ. Giết chữ không thuộc phạm trù nhân đạo. Do đó, những tên sát nhân, sau khi xả súng vào một kẻ bị xem là phản cách mạng, vẫn cảm thấy thanh thản. Vẫn chưa hết. Sau khi bị “nhãn hiệu hoá”, kẻ thù còn bị thú vật hoá với những hình ảnh như sài lang, chó sói, rắn độc, v.v… Giết kẻ thù, do đó, chỉ là giết những con vật, thậm chí, những con vật đáng ghê tởm: không những không xúc động, những kẻ sát nhân còn có thể cảm thấy tự hào nữa là khác.
Sống trong môi trường tuyên truyền như vậy, một lúc nào đó, người ta đánh mất cả lòng trắc ẩn.
Không những bào mòn lòng nhân đạo, các chế độ toàn trị, từ Đức Quốc Xã đến cộng sản, đều tìm cách che mờ lý trí của con người. Đúng hơn, họ chỉ cho phép phát triển một loại lý trí: lý trí công cụ (instrumental reason) và triệt tiêu loại lý trí phê phán (critical reason). Loại lý trí phê phán không ngừng đặt vấn đề, lật ngược vấn đề, cổ vũ sự hoài nghi, do đó, khuyến khích sự nổi loạn, có khuynh hướng chống lại mọi sự độc tài. Loại lý trí công cụ, ngược lại, ngoan ngoãn chấp hành mọi mệnh lệnh, không một chút thắc mắc: vấn đề duy nhất nó quan tâm là làm sao thực hiện mệnh lệnh một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất.
Ví dụ: nhận lệnh đấu tố các địa chủ, người có lý trí sẽ đặt vấn đề: địa chủ là gì? Các địa chủ ấy có tội gì? Tội ấy có thật hay không? Làm thế nào để biết là thực hay không? Điều tra? Ai sẽ điều tra? Làm thế nào để bảo đảm sự công minh trong điều tra? Cuối cùng, nếu họ thực có tội thì tội ấy có đáng chết hay không? v.v.. Người có lý trí công cụ thì khác. Hắn chỉ băn khoăn một điều: làm cách nào để giết địa chủ càng nhiều càng tốt. Hắn sẽ dựng cảnh để đấu tố, sẽ nghĩ ra những cách giết người dã man nhất. Dùng súng bắn ư? Nhanh quá! Lấy dao chém ư? Cũng nhanh quá! Hắn nảy ra sáng kiến: chôn sống hoặc chỉ chôn đến ngang cổ rồi cho trâu bò kéo cày ngang qua, phạt đứt cổ, v.v…
Chính loại lý trí công cụ ấy đã dẫn đến Holocaust, các lò thiêu giết người hàng loạt của Đức Quốc Xã và các trại tập trung cải tạo ở Liên Xô cũng như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Trong các nước xã hội chủ nghĩa ấy, có Việt Nam.
Ừ, thì biết thế nhưng tôi vẫn không ngớt băn khoăn.
Nguyễn Hưng Quốc