Tết không phải do chữ Tiết 節 của Tàu mà ra.
Tết
là gì ?
Tết là tên riêng [nom propre] gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền đông nam Á, còn tiết chỉ là một tên thường [nom commun] của Tàu gọi những thời tiết thay đổi trong một năm.
Chỉ có người Việt gọi là Tết, trong khi cả ngàn triệu nguời Tàu gọi ngày đó là duỳn tản 元 旦 [nguyên đán] hay là xin nển 畢 年 [tân niên]. Vậy tại sao họ không gọi là Tết ? vì Tết không phải là tiếng của họ.
Giờ ta hãy trở lại với cái tên gọi là Tết.
Cách hợp lý để tìm cho ra nguồn gốc của chữ Tết và ý nghĩa của chữ ấy là đi tìm trong tất cả các ngôn ngữ khác nhau ở miền nam Á châu, xem thử có ngôn ngữ nào ,cũng có cái tên là tết và cũng có cái cách phát âm, cách đọc, cách nói và cũng có cái nghĩa là ngàylễ ăn mừng đầu năm không ? Dù cho tiếng ấy không phải là tiếng Việt hay là tiếng Tàu.
Nếu không có thì đành vậy chứ sao ! Vậy mà có đấy mà lại có rất nhiều và rất giống nhau gần y hệt, các bạn ơi !
Thật ra từ khi con nguời xưa ở miền rộng lớn Đông nam Á biết đuợc là cứ đều đều mỗi năm thì
mùa gió đổi chiều và đem lại mùa mưa khoảng tháng tư tháng năm, tùy theo từng vùng gió mùa, trước hết là từ bờ biển phía tây của lục địa Ấn độ, rồi chuyển dần qua ngang vùng đất Ấn độ rồi tiếp tục lan qua phía đông đến lần lượt các xứ Bangladesh, Assam, qua Miến điện, Myanmar bây giờ rồi thổi qua Thái Lan, Lào mà đến Việt Nam, rồi tiếp tục cùng lúc lên phía đông bắc là vùng Hoa Nam bên Tàu và xuống phía đông nam là 15 000 hòn đảo của Indonesia.
Cách đây cả chục ngàn năm, con nguời ở cái vùng gió mùa mênh mộng ấy đã gọi tên là Tết cho cái hiện tuợng trời đất gặp nhau qua mùa qua gió này và họ ăn mừng cái lúc giao mùa đó bằng cái tên là Tết, vì ai mà chẳng biết là không có mùa mưa đến thì kể như không trồng trọt gì được, huống chi là là trồng lúa.
Đông nam Á là vùng của gió mùa mưa, mùa của mấy chục triệu con trâu, của mấy trăm triệu con nguời sống với cây lúa, nơi mà những hạt lúa oriza sativa đã đựợc tìm ra từ 6000 năm trước [tài liệu của ông William Solzheim, đại học Hawai].
Gió mùa và mưa mùa là quyết định dứt khoát của đất trời cho con nguời ở Đông nam Á. Khi mưa gió không thuận hoà thì hạn hán và đói kém sẽ bao trùm, cuồng phong và lụt lội sẽ tàn phá hàng trăm ngàn mẫu ruộng lúa và giết hại hàng ngàn nguời. Nông nghiệp và sự sống còn của hàng chục triệu nguời hoàn toàn tùy thuộc vào cái ân huệ vừa phải của mùa mưa đến hàng năm trên cái phần đất mênh mông này !
Gió mưa đầu mùa là hứa hẹn của năm mới, của một đời sống mới, đuợc chờ đợi khoắc khoải và đón mừng hân hoan, và triền miên có mặt trong mọi lãnh vực tin tuởng, huyền thoại hay tâm linh, và cái thực tế của đời sống hàng ngày của nguời đi cày đi cấy, cũng gắn liền với bao nhiêu cái tin tuờng đó.
Trên những trống đồng từ ba ngàn năm trước, mấy con ếch, cóc nhái, ễnh ương ệnh oạng nằm chồng lên nhau, mỗi góc trống ba con, như một ám ảnh không ngừng về mùa mưa, về ruộng đồng ao hồ sông nuớc, về bất cứ mảnh đất nào mà cây lúa có thể mọc lên.
Biết bao nhiêu ca dao tục ngữ, bài vè nói về mùa mưa, về lúa gạo về ếch nhái và về ngàyTết trong tiếng Việt.
Ở xứ Nepal bên đông bắc Ấn độ, ngày lễ đầu mùa mưa cũng gọi là Teetj ; trong mấy ngày đó, nguời dân bản xứ ăn mừng, ca hát, nhảy múa, đánh đu, uống ruợu, tạt nuớc vào nhau để chúc mừng, chúc lành cho nhau, chúc Teetj. Chung quanh xứ Nepal nhu ở Sikkhim và Bhutan, dân ở đó cung gọi ngày đầu mùa mưa là Tiitj.
Bên Miến điện và Thái lan thì tha hồ xịt nuớc tạt nuớc nhau ướt mèm vào ngày đó.
Năm 1986 tôi qua học tiếng Mon bên Thái lan, gặp ngày lễ Song khràn, ngày tết âm lịch cổ truyền của dân Thái xưa, có nghĩa là giao mùa, trùng với mùa lễ Têj, vào 13 đến 15 april của năm dương lịch, bị một cô nguời Thái ở đền Nakhon Pathom lén bỏ một cục nước đá vào cổ áo sơmi của tôi nó lọt vào xuống lưng lạnh ngắt, cô ấy cười xin lỗi và nói là muốn chúc tết bất ngờ cho tôi theo kiểu tạt nuớc vào nhau của họ !
Người Lào Thái còn gọi ngày ấy là wan pi may, ngày năm mới.
Người dân Kampuchia thì gọi ngày đó là thngày chul thnăm chmây, ngày vào năm mới [trong lịch cũ của họ thì họ gọi tháng giêng là khae Chêt, tháng tết].
Người Chàm thì gọi là bulan Chit, tháng tết.
Các dân tộc mạn ngược ngoài Bắc Việt, cũng như nhiều dân tộc miền núi ở Trung Việt vẫn có ăn mừng hội mùa mưa, hội ngày mùa còn lớn hon cả hội mùa xuân [theo tài liệu của ông Nguyễn văn Huyên ; « Les chants alternés des garcons et des filles en Annam, 1934 ».
Kể từ khi Tàu qua đô hộ Giao Chỉ cách đây 2000 năm, thì người Giao Chỉ không còn ăn tết vào tháng tư tháng năm của lịch Muờng xưa « lịch ngày lui tháng tới » đó nữa mà ăn Tết theo lịch Tàu, mà lịch Tàu hồi xưa thì cũng « bất thùng chi thình », khi thì ngày đầu năm của Tàu rớt vào tháng chạp, khi thì nhằm vào tháng giêng của họ, và sau nhiều thay đổi, mới gọi là ngày duỳn tán xin nển của họ, chứ Tàu không gọi ngày đầu năm của họ là tiết nhật [sic] bao giờ cả.
Chỉ có vài ông hán việt « chợ chiều » khư khư cố mà tìm cho ra đuợc một cái âm huởng tàu cho cái tiếng Tết, nên cố tình guợng gạo mà ép cho nó là tiết , cũng như họ đã giải thích kiểu « tầm phào » là Giao Chỉ là ngón chân giao nhau, thật là nói tàm bậy !.
Lạc là chim lạc, ghe chài là ghe tải ! xem Lê ngọc Trụ [trời đất !].
Sau đây là những cognates, từ đồng nguyên, khắp Đông Nam Á, dính líu với TẾT.
Al de Rhodes |
Tết — Tết năm [sic], Tết ai, ăn Tết |
Từ Điển Khai Trí Tiến Đức |
không hề cho rằng Tết là tiết của Tàu |
Nùng |
Tết. niên Tết là năm Tết. |
Muờng |
Thết ăn Thết là ăn Tết |
Thái |
TháiThêts Lễ mừng năm mới [New Year celebration].Thêts khal là Mùa Tết, những ngày Tết. Thêts Thày làTết Thái [Thai New Year’s celebration].Thrếts là Tết [theo Từ Điển Francais-Thái của Pallegoix]. Thrếts Chìn là Tết Tàu / Chinese New Year [Chìn là Tàu]. Chêtr là Tết của Thái [fifth lunar month / mid April festival]. Trôts là lễ hội Thái từ xưa vào đầu mùa mưa, cuối April-May. Trốts Farăng là Tết Hoa-Lang [Western New Year’s Day]. [xem bài “Hoa lang đạo là đạo gì?” Bs Nguyễn Hy Vọng [Hoa Lang là: Occident, West]. |
Zhuang |
Xit / Sit là lễ Tết của 20 triệu người Zhuang bên Quảng Tây, nói tiếng Tai, tiếng Thái xưa !đuon Sít là tháng Tết [mois de festival célébrant la mousson]. [đươn là tháng] |
Chàm |
Tít là lễ tháng năm của lịch xưa Chàm [tháng gió mùa bắt đầu thổi] băng Tít là ăn Tết.Chêt là Tết.bu-lăn Chêt là tháng Tết [bu lăn là tháng, tiếng Chàm]. Ktêh là lễ hội lớn nhất trong năm của nguời Chàm. |
Mon |
Kteh là Ngày đầu năm của dân tộc Mon ở Myannar. o-Teh là lễ hội lội bùn đầu năm.o-Tet id k-Tât l à nghi lễ đầu năm. k-Tet id |
Khmer |
Chêtr là Tết, lễ mừng tháng năm theo cổ lịch Khmer, là tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông Nam Á. [tùy theo nơi, từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm]. khae Chêtr là tháng Tết [khae là tháng] khoảng 13 tháng 4 dương lịch, khoảng 23 tháng ba âm lịch. Chêtr khal là thời gian có lễ Tết [khal là thời gian]. |
India |
Chêtr là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn Độ, tên của tháng giao mùa đem mưa đến. [mois du début de la mousson] |
Nepal |
Teej là lễ đầu năm của dân xứ Nepal |
Mustang |
Tidj / Tidji là lễ đầu năm của xứ Mustang, bên cạnh xứ Nepal. Miền đông bắc Ấn Độ. |
Munda |
Teej là lễ hội Gió Mùa, các nữ sinh ca hát những bài hát cổ Teej, để đánh dấu Gió Mùa trở lại và sự hứa hẹn thịnh vượng. [National Geographic magazine]. |
Kinh Lễ Ký |
|
Khổng Tử không nghĩ rằng «tiết» là cái âm sinh ra Tết, nên ổng mới phiên âm khác đi là Tế-Sạ. Hơn nữa, xem trên, có cả chục ngôn ngữ và nền văn hóa khác với Tàu. Ăn mừng ngày đầu năm của họ mà vẫn mang những cái tên mà ý nghĩa, phát âm, cùng cách nói và cách đọc đều giống với cái âm, cái tên, cái tiếng Tết của dân Giao Chỉ và của dân Mường, nên ta phải « suy nghĩ lại » về cái hiểu lầm Tết là Tiết của các ông « Hán Việt » hơn mấy trăm năm qua.
Như vậy, Tết là tên gọi cái ngày ăn mừng đầu mùa mưa và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu năm âm lịch luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer, Vùng đông bắc Ấn độ, Nepal. Mustang, Munda.
Hỏi nhỏ bạn, bạn có còn cho rằng Tết là Tiết của Tàu mà ra không ?
NGUYỄN HY VỌNG, M.D.
Tài liệu tham khảo:
Ancient China, Howard Edward H. Shafer / Time Life, New York.
Ancient China, Maurizio Scarpari / Barnes Noble, Italy.
Thai Dictionary, Mary Haaj / Stanford, CA, 1964.
The languages of China before the Chinese, Terrien de Lacouperie / London 1887, Taipei, 1966.
A dictionary of the Mon inscriptions, HL Shorto, London, 1971.
Studies in Munda linguistics, Sudhibushan Batacharya / Simla, Calcutta, 1975.
Lao English dictionary, Russell Marcus / Japan, 1975.
Dictionary Lingua Thai, Pellegoix PL 4186 PS 1854 a 1972.
English Hmong dictionary, Lang siong & Joua Siong, Nao Leng Siong PL 4072 4X, 1984.
Introduction to Sino Tibetan [Shafer 1966 – Wiesbaden germany PL 3521,S.
A grammar of the Khasi language [rev H. Roberts / London- Kegan Paul Trench Hubner and Co LTD, Pater Noster House, Charing Cross Rd, 1891.
Excerpts from Brittanica, 1999.