THƠ CHU VĂN AN
(朱文安)
Chu Văn An từng có những tác phẩm như Thất trảm sớ, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước. Nhưng cho tới nay người ta mới chỉ sưu tầm được có mười hai bài thơ của ông chép trong Toàn Việt thi lục, còn hầu như bị thất lạc cả.
Trong cuốn Thơ Văn Lý Trần (nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978) có ghi lại nội dung 12 bài thơ này bằng chữ Hán kèm theo phần dịch âm, dịch nghĩa và dịch thơ.
Chúng tôi dựa vào cuốn sách trên, chỉ ghi lại nội dung 12 bài thơ bằng chữ Hán kèm theo phần dịch âm và dịch nghĩa (có sửa đổi chút ít khi tham khảo thêm các tài liệu khác), đồng thời đóng góp thêm “mười hai bản dịch thơ mới” như dưới đây.
NGÔ TẰNG GIAO
(Xuân Canh Dần 2010).
1. LINH SƠN TẠP HỨNG
靈山雜興
萬疊青山簇畫屏,
斜陽淡抹半溪明。
翠蘿徑裏無人到,
山鵲啼煙時一聲。
DỊCH ÂM:
Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
Thúy la kính lý vô nhân đáo,
Sơn thước đề yên thời nhất thanh.
DỊCH NGHĨA:
“Tạp hứng ở Linh Sơn”. Muôn lớp núi xanh tụ
lại như bức bình phong vẽ. Bóng chiều nhạt rọi
tới sáng nửa lòng khe. Trong lối cỏ biếc,
không người đến. Thỉnh thoảng một tiếng chim
thước kêu trong khói mù.
DỊCH THƠ:
TẠP HỨNG Ở LINH SƠN
Núi xanh giăng lớp tựa bình phong
Chiều nhạt in hình dưới suối trong
Cỏ biếc, lối mòn đâu bóng khách,
Vẳng chim thước gọi, khói mông lung.
2. THÔN NAM SƠN TIỂU KHẾ
村南山小憩
閑身南北片雲輕,
半枕清風世外情。
佛界清幽塵界遠,
庭前噴血一鶯鳴。
DỊCH ÂM:
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
DỊCH NGHĨA:
“Tạm nghỉ ở núi thôn nam”. Thân nhàn như
đám mây nhẹ bay khắp nam, bắc. Gió mát thổi
bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời. Cõi Phật
thanh u, cõi trần xa vời. Trước sân, hoa đỏ
như máu, một chiếc oanh kêu.
DỊCH THƠ:
TẠM NGHỈ NÚI THÔN NAM
Thân nhàn Nam Bắc áng mây trôi,
Bên gối gió qua, nhẹ việc đời.
Cõi Phật thanh u, xa cõi tục
Trước sân hoa đỏ, tiếng oanh vui.
Hình chụp tranh Chu Văn An
trên miếu thờ tại Hà Nội.
3. THANH LƯƠNG GIANG
清涼江
山腰一抹夕陽橫,
兩兩漁舟畔岸行。
獨立清涼江上望,
寒風颯颯嫩潮生。
DỊCH ÂM:
Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,
Hàn phong táp táp nộn triều sinh.
DỊCH NGHĨA:
“Sông Thanh Lương”. Một vệt bóng chiều vắt
ngang sườn núi. Dọc theo bờ sông, thuyền
câu đi từng đôi một. Đứng một mình trên sông
Thanh Lương ngắm cảnh. Gió lạnh vi vút,
nước triều dâng lên.
DỊCH THƠ:
SÔNG THANH LƯƠNG
Sườn non giải nắng xế giăng ngang,
Từng cặp thuyền xuôi mái nhẹ nhàng.
Trên bến Thanh Lương người một bóng,
Ngắm triều dâng sóng, gió thênh thang.
4. CUNG HỌA NGỰ CHẾ ĐỘNG CHƯƠNG
恭和御制洞章
庭舞胎禽雲掩關,
露華嚥罷覺清寬。
碧桃華下渾無事,
時倩東風掃石壇。
DỊCH ÂM:
Đình vũ thai cầm vân yểm quan,
Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan.
Bích đào hoa hạ hồn vô sự,
Thời thiến đông phong tảo thạch đàn.
DỊCH NGHĨA:
“Kính họa thơ vua”. Hạc múa ở sân, mây che
ngoài cửa. Nuốt hoa sương rồi cảm thấy
khoan khoái nhẹ nhàng. Dưới hoa bích đào
lòng thanh thản. Thỉnh thoảng mượn ngọn gió
đông quét trên đàn đá.
DỊCH THƠ:
KÍNH HỌA THƠ VUA
Trước sân hạc múa, mây bên song
Nhấp cạn hoa sương, sảng khoái lòng
Ngồi dưới bích đào, hồn tự tại
Quét đàn đá mượn gió phương đông.
5. NGUYỆT TỊCH BỘ TIÊN DU SƠN TÙNG KÍNH
月夕步仙遊山松徑
緩緩步松堤,
孤村淡靄迷。
潮回江笛迥,
天闊樹雲低。
宿鳥翻清露,
寒魚躍碧溪。
吹笙何處去,
寂寞故山西。
DỊCH ÂM:
Hoãn hoãn bộ tùng đê,
Cô thôn đạm ái mê.
Triều hồi, giang địch quýnh,
Thiên khoát, thụ vân đê.
Túc điểu phiên thanh lộ,
Hàn ngư dược bích khê.
Xuy sinh hà xứ khứ,
Tịch mịch cố sơn tê (tây)?
DỊCH NGHĨA:
“Đêm trăng dạo bước trên đường thông ở núi
Tiên Du”. Thong thả dạo bước trên con đê
trồng thông. Xóm vắng mờ trong làn khói nhạt.
Nước triều xuống, tiếng sáo bên sông xa vẳng.
Trời rộng, mây là là ngọn cây. Chim đêm cựa
mình trong làn sương trong. Cá lạnh nhảy
trong khe biếc. Người thổi sênh đi nơi đâu.
Phía tây núi cũ vắng vẻ?
DỊCH THƠ
ĐÊM TRĂNG DẠO CHƠI
ĐƯỜNG THÔNG NÚI TI艿 DU
Dạo chơi thông mát bờ đê,
Mờ trong khói nhạt làng quê bềnh bồng.
Triều lui, sáo vẳng bên sông,
Trời cao bát ngát, mây lồng ngọn thông.
Chim xao xác dưới sương trong,
Vẫy vùng cá lội biếc dòng suối sâu.
Người thổi sênh vắng nơi đâu,
Phía Tây núi cũ dâng sầu quạnh hiu?
6. XUÂN ĐÁN
春旦
寂寞山家鎮日閒,
竹扉斜擁護輕寒。
碧迷草色天如醉,
紅濕花梢露未乾。
身與孤雲長戀岫,
心同古井不生瀾。
柏薰半冷茶煙歇,
溪鳥一聲春夢殘。
DỊCH ÂM:
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn.
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê thảo sắc thiên như túy,
Hồng thấp hoa sao lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
DỊCH NGHĨA:
“Sáng mùa xuân”. Nhà trên núi vắng vẻ, suốt
ngày thảnh thơi. Cánh cửa phên che nghiêng
ngăn cái rét nhẹ. Màu biếc át cả sắc cỏ, trời
như say. Ánh hồng thấm nhành hoa sương
sớm chưa khô. Thân ta cùng đám mây cô đơn
mãi mãi lưu luyến hốc núi. Lòng giống như
mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng. Mùi khói
thông sắp hết, khói trà đã tắt. Một tiếng chim
bên suối làm tỉnh mộng xuân.
DỊCH THƠ:
SÁNG MÙA XUÂN
Nhà trên núi vắng cảnh an nhàn
Phên cửa nghiêng che tiết lạnh sang
Cỏ biếc trời cao say chất ngất,
Hoa hồng sương sớm đượm miên man.
Thân như mây lẻ vương non thẳm
Lòng tựa giếng xưa lặng sóng vàng
Hương gỗ thông tan, trà cạn khói,
Chim bên suối hót mộng xuân tàn.
7. SƠ HẠ
初夏
山宇寥寥晝夢回,
微涼一線起庭梅。
燕尋故壘相將去,
蟬咽新聲陸續來。
點水溪蓮無俗態,
出籬野筍不凡材。
棲梧靜極還成懶,
案上殘書風自開。
DỊCH ÂM:
Sơn vũ liêu liêu trú mộng hồi,
Vi lương nhất tuyến khởi đình mai.
Yến tầm cố lũy tương tương khứ,
Thiền yết tân thanh lục tục lai.
Điểm thủy khê liên vô tục thái
Xuất ly dã duẩn bất phàm tài.
Thê ngô tĩnh cực hoàn thành lãn,
Án thượng tàn thư phong tự khai.
DỊCH NGHĨA:
“Đầu mùa hè”. Nhà trên núi vắng vẻ, vừa tỉnh
giấc mộng ban ngày. Một làn gió mát nhẹ thổi
vào cây mai trước sân. Chim én rủ nhau đi tìm
tổ cũ. Ve sầu cất tiếng đầu mùa, lục tục bay
về. Sen dưới khe điểm trên mặt nước không
bợn chút phàm tục. Măng đồng nội trồi ra khỏi
dậu, chẳng phải khí chất tầm thường. Tựa cây
ngô đồng, ngồi im lặng mãi trở thành lười
biếng. Cuốn sách nát để trên án, gió tự giở ra.)
DỊCH THƠ:
ĐẦU MÙA HÈ
Chợt tỉnh giấc ngày nhà núi cao,
Trước sân mai rỡn gió lao xao.
Én tìm tổ cũ gom đàn tới
Ve kiếm nơi xưa cất tiếng chào.
Dưới suối sen phô, hình thoát tục,
Ngoài rào măng vượt, dáng thanh tao.
Tựa ngô đồng nghỉ thành lười biếng
Trên án sách xưa đón gió vào.
8. VỌNG THÁI LĂNG
望泰陵
松秋深鎖日將夕,
煙草如苔迷亂石。
黯淡千山風更愁,
消沉萬古雲無跡。
溪花欲落雨絲絲,
野鳥不歸山寂寂。
幾度躊躇行復行,
平蕪無盡春生碧。
DỊCH ÂM:
Tùng thu thâm tỏa nhật tương tịch.
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
Ảm đạm thiên sơn phong cánh sầu,
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
Bình vu vô tận xuân sinh bích.
DỊCH NGHĨA:
“Trông về Thái Lăng”. Cây tùng cây thu khoá
kín trời sắp về chiều. Cỏ non xanh rợn, như
rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng. Ngàn
non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn. Muôn
thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết. Hoa
bên suối sắp rụng, mưa lất phất. Chim ngoài
đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu. Mấy lần dùng
dằng, đi rồi lại đi. Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân
xanh biếc.
DỊCH THƠ:
TRÔNG VỀ THÁI LĂNG
Thấp thoáng tùng thu bóng xế chiều,
Cỏ non phủ đá biếc màu rêu.
Gió vờn non thẳm thêm buồn bã,
Mây lắng trời xa để tịch liêu.
Bên suối hoa tàn mưa lất phất,
Ngoài đồng chim lặng núi đìu hiu.
Ngập ngừng mấy độ dời chân bước,
Xanh ngát cỏ xuân, sắc diễm kiều.
9. GIANG ĐÌNH TÁC
江亭作
江亭獨立數歸舟,
風急灘前一笛秋。
斜日吟殘紅淡淡,
暮天望斷碧悠悠。
功名已落荒唐夢,
湖海聊為汗漫遊。
自去自來渾不管,
滄波萬頃羨飛鷗。
DỊCH ÂM:
Giang đình độc lập sổ quy chu,
Phong cấp than tiền nhất địch thu.
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
Mộ thiên vọng đoạn bích du du.
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải liêu vi hãn mạn du.
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.
DỊCH NGHĨA:
“Làm thơ ở Giang Đình”. Đứng một mình ở
Giang Đình đếm thuyền về. Trước ghềnh, gió
gấp, một tiếng sáo gợi cảnh thu. Thơ đã tàn,
mặt trời xế bóng, ánh hồng nhàn nhạt. Trông
suốt trời chiều, màu biếc mênh mông. Công
danh đã rơi vào giấc mộng hoang đường. Tạm
dạo chơi lang thang miền hồ hải. Đi lại tự
mình, chẳng gì trói buộc. Thèm cảnh chim âu
bay liệng trên muôn khoảnh sóng xanh.
DỊCH THƠ:
LÀM THƠ Ở GIANG Đ姖H
Giang Đình một bóng đếm thuyền qua,
Gió lộng ghềnh thu sáo thiết tha.
Nắng xế, thơ tàn, hồng phớt nhạt,
Trời chiều, cảnh vắng, biếc chan hòa.
Công danh chót lạc vùng mơ ảo
Hồ biển tạm chơi thú nẻo xa
Đây đó lang thang đời tự tại,
Ước như chim lướt sóng bao la.
10. MIẾT TRÌ
鱉池
水月橋邊弄夕暉,
荷花荷葉靜相依。
魚游古沼龍何在,
雲滿空山鶴不歸。
老桂隨風香石路,
嫩苔著水沒松扉。
才心殊未如灰土,
聞說先皇淚暗揮。
DỊCH ÂM:
Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
Hà hoa hà diệp tĩnh tương y,
Ngư du cổ chiểu long hà tại?
Vân mãn không sơn hạc bất quy!
Lão quế tùy phong hương thạch lộ,
Nộn đài trước thủy một tùng phi.
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.
DỊCH NGHĨA:
“Miết Trì”. Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng
chiều hôm. Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa
nhau. Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào? Mây
đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về! Mùi quế già
bay theo gió làm thơm ngát con đường đá.
Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông.
Tấc lòng này vẫn chưa nguội lạnh như tro đất.
Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt
lệ.
DỊCH THƠ:
MIẾT TRÌ
Trăng nước cầu bên giỡn bóng tà,
Trong hồ sen lặng, lá kề hoa,
Ao xưa cá lội, rồng đâu thấy?
Núi vắng mây giăng, hạc chẳng qua!
Đường đá gió thơm mùi quế thoảng,
Cửa thông nước đẫm lớp rêu pha.
Lòng đâu đã nguội như tro đất,
Nghe đến tiên hoàng lệ muốn sa.
11. THỨ VẬN TẶNG THỦY VÂN ĐẠO NHÂN
次韻贈水雲道人
平生膽氣鶚橫秋,
翰墨場中一戰收。
茅屋玉堂皆有命,
濁涇清渭不同流。
老逢昭代知何補,
身落窮山笑拙謀。
檢點年年貧活計,
茶甌詩卷伴湯休。
DỊCH ÂM:
Bình sinh đảm khí ngạc hoành thu,
Hàn mặc trường trung nhất chiến thu.
Mao ốc ngọc đường giai hữu mệnh,
Trọc Kinh thanh Vị bất đồng lưu.
Lão phùng chiêu đại tri hà bổ,
Thân lạc cùng sơn tiếu chuyết mưu.
Kiểm điểm niên niên bần hoạt kế,
Trà âu, thi quyển bạn Thang Hưu.
DỊCH NGHĨA:
“Họa vần tặng Thủy vân đạo nhân”: Chí khí
dũng cảm thuở bình sinh như chim ngạc bay
ngang trời thu, trong trường bút mực, chỉ một
trận là được. Nhà tranh hay nhà ngọc, đều có
số mệnh, sông Kinh đục, sông Vị trong, vốn
không chảy cùng dòng. Già gặp thời sáng sủa,
biết chẳng ích gì, thân rơi vào núi thẳm, cười
mình mưu vụng. Hàng năm kiểm điểm lại cái
sinh kế nghèo, vẫn âu trà, cuốn thơ, làm bạn
với Thang Hưu.
DỊCH THƠ:
HỌA VẦN TẶNG THỦY VÂN ĐẠO NHÂN
Sánh với chim trời chí cũng đồng
Bút nghiên dễ thắng, quả vô song
Nhà giàu nhà khó đều theo số
Sông đục sông trong vốn khác dòng
Già gặp thời xuôi nào hữu ích
Thân rơi núi thẳm há tinh thông
Hàng năm kiểm điểm nghèo sinh kế
Trà với bạn thơ cứ thoả lòng.
12. ĐỀ DƯƠNG CÔNG THỦY HOA ĐÌNH
題揚公水華亭
上人遠公裔,
朗悟有高識。
屢結白社盟,
為愛青蓮色。
方塘貯碧漪,
環以芙蕖植。
上構水華亭,
意與蓮比德。
好風時一來,
滿座聞芳馥。
隱幾觀眾妙,
悠然心自得。
不知清淨身,
已在荷華側。
明月相友朋,
閒雲同偃息。
渴傾珠露飲,
飢摘玉房食。
回頭謝世紛,
逍遙遊八極。
DỊCH ÂM:
Thượng nhân Viễn công duệ,
Lãng ngộ hữu cao thức.
Lũ kết bạch xã minh,
Vị ái thanh liên sắc.
Phương đường trữ bích y,
Hoàn dĩ phù cừ thực.
Thượng cấu thuỷ hoa đình,
Ý dữ liên tỷ đức.
Hảo phong thời nhất lai,
Mãn toạ văn phương phức.
Ẩn kỷ quan chúng diệu,
Du nhiên tâm tự đắc.
Bất tri thanh tĩnh thân,
Dĩ tại hà hoa trắc.
Minh nguyệt tương hữu bằng,
Nhàn vân đồng yển tức.
Khát khuynh châu lộ ẩm,
Cơ trích ngọc phòng thực.
Hồi đầu tạ thế phân,
Tiêu dao du bát cực.
DỊCH NGHĨA:
ĐỀ ĐÌNH THỦY HOA CỦA DƯƠNG CÔNG
“Đề đình Thủy Hoa của Dương Công”:
Thượng nhân là giòng dõi của Viễn công, hiểu
biết một cách sáng suốt, có kiến thức cao.
Luôn kết lời minh ước ở Bạch Xã, vì yêu sắc
sen xanh. Ao vuông chứa đựng nước trong
biếc, xung quanh trồng toàn sen. Trên ao
dựng ngôi đình Thuỷ Hoa, ý chừng muốn sánh
đức với sen. Gió mát thường xuyên thổi tới,
làm thơm ngát khắp ngôi đình. Tựa bên ghế
để quan sát mọi điều huyền diệu, lâng lâng
cảm thấy thoải mái trong lòng. Chẳng biết tấm
thân thanh tịnh, đã ở bên cạnh đoá hoa sen.
Trăng sáng cùng làm bạn với mình, mây nhàn
cùng ta nghỉ ngơi. Khát thì nghiêng rót những
hạt sương châu để uống, đói thì lấy những
chùm quả bằng ngọc mà ăn. Ngoảnh lại quên
hết mọi rắc rối ở đời, để nhởn nhơ vui chơi
tám cõi.
DỊCH THƠ:
ĐỀ ĐÌNH THỦY HOA CỦA DƯƠNG CÔNG
Thượng nhân dòng dõi Viễn Công,
Vừa cao trí thức, vừa thông thế tình.
Lại luôn bạch xã kết minh,
Vì yêu sắc đóa sen xanh đẹp màu.
Ao vuông nước biếc dạt dào
Sen vây bốn phía cảnh sao êm đềm.
Thủy Hoa đình xây phía trên
Ý rằng sánh đức cùng sen khác nào.
Thường xuyên gió mát thổi vào
Ngôi đình thơm ngát cảnh sao diễm kiều.
Ngồi xem huyền diệu mọi điều
Trong lòng cảm thấy phiêu diêu dâng đầy.
Tấm thân thanh tịnh nào hay
Vì chưng cạnh đoá sen này bấy lâu.
Bạn cùng trăng sáng canh thâu
Nghỉ cùng mây khắp trời cao tĩnh nhàn.
Khát thời uống hạt sương tan,
Đói thời quả ngọc hái ăn tứ thời.
Ngoái trông gác mọi chuyện đời
Nhởn nhơ tám cõi vui chơi thoả lòng.
TÀI liệu tham khảo:
1) Thơ Văn Lý Trần (nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1978)
2) Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam
3) Thivien.net
4) Wikisource.org
5) VietSciences.org