Vincent Van Gogh, Irishes
Tôi kể chuyện “vòng vo” như ở trên để nêu lên những quan điểm và nhận xét về sự thật của những người trong những vị trí xã hội khác nhau. “Sự thật”, theo một người cầm bút đoạt giải Nobel ( Harold Pinter), “sự thật” theo một nhà nghiên cứu lịch sử tiếng tăm (Niall Ferguson) và sự thật theo một nhà chính trị (Condoleezza Rice). Mặc dù chưa có dịp nghe quan điểm của bà Rice về “sự thật” nhưng chúng ta có thể “đoán” được vì chính trị là một trong những diễn đàn chính để người ta tìm sự hoài nghi. Nói cách khác, sự thật mà các chính trị gia “phát biểu” thường cần sự kiểm chứng. Hay nói theo cách nói của Nietzsche, “sự thật có thể là một điều tốt, nhưng thỉnh thoảng tại sao không sử dụng cái giả dối để đạt được mục tiêu?”
Đầu năm 2003, khi Tổng thống Bush tuyên bố Iraq tìm cách mua nguyên liệu để sản xuất vũ khí hạt nhân. Mặc dù các giới chức trong Nhà Trắng thú nhận rằng họ không có đầy đủ bằng chứng để tin lời tuyên bố đó là sự thật, thậm chí có người còn bác bỏ thẳng thừng vấn đề, nhưng chiến tranh với Iraq vẫn được tiến hành. Những người cầm đầu bộ máy chiến tranh trong Ngũ Giác Đài đưa thêm một lý do khác cho cuộc chiến: đó là nhằm ổn định tình hình chính trị Trung Đông và giải phóng Iraq khỏi ách cai trị của Saddam Hussein.
Nhiều người Mỹ đồng ý với những lý do đưa ra. Xét cho cùng, còn có nhiều lý do khác để lật đổ chế độ của Hussein. Và, niềm tin cho rằng Iraq là một mối đe dọa hạt nhân đã thật sự củng cố sự đoàn kết của người Mỹ và cung cấp một cái cớ cho những người còn nghi ngờ ý đồ của chính phủ Mỹ trong việc gây chiến. Câu hỏi đặt ra là: nếu những lý do được đưa ra không đúng với thực tế thì sao? Đối với nhiều người, suy nghĩ đến cái trừu tượng gọi là “sự thật” là một suy nghĩ ngây thơ; điều mà họ quan tâm không phải là sự thật hay giả dối mà là làm cách nào để bảo vệ họ tránh khỏi khủng bố và bảo đảm nguồn cung cấp nhiên liệu (dầu hỏa) cho những chiếc xe SUV (Sport Utility Vehicle)… cần xăng dầu để hoạt động. Nói cho cùng, sự thật của những gì người ta tin và nói chỉ là điều phụ mà thôi; cái đáng nói và quan trọng hơn là hệ quả.
Một thái độ tương tự như trên cũng khá phổ biến trong giới trí thức Mỹ hiện nay, chủ nghĩa hoài nghi sự thật và những khái niệm liên quan đã trở thành một khuynh hướng bán chính thức trong nhiều trường đại học ở Mỹ. Nói một cách khác những người này cho rằng sự thật khách quan là một ảo tưởng và cái mà chúng ta gọi là sự thật chỉ là một cái tên gọi khác cho quyền lực mà thôi. Thành ra, nếu sự thật quả có giá trị, thì cái giá trị đó chỉ là giá trị của một phương tiện, như quyền lực là một phương tiện vậy. Thậm chí, có một số người như nhà phê bình văn học nổi tiếng Stanley Fish còn cho rằng vì niềm tin vào truyền thống là một hành vi ngây thơ, sự thật không có giá trị gì cả. Sự thật không những chỉ là ảo tưởng, quan tâm đến sự thật chỉ phí thời gian và tranh luận về sự thật chẳng những buồn cười, không thích hợp mà còn vô duyên. (trong bài viết “Sự thật nhưng vô hệ quả: Tại sao triết học chẳng có giá trị” – Truth but No Consequences: Why Philosophy Doesn’ t Matter).
Dĩ nhiên, cũng có nhiều nhà trí thức Mỹ sẵn sàng bảo vệ ý tưởng sự thật là quan trọng, nhưng trong quá trình bảo vệ sự thật lại rơi vào tình huống “xoáy mòn” giá trị của sự thật như xu hướng tin tưởng rằng giữ gìn sự thật là giữ gìn những giá trị sự thật cổ điển, xu hướng này cho rằng những người ” cấp tiến thiên tả” đang làm suy yếu nước Mỹ và kêu gọi phải tái khám phá sự thật mà Thượng đế đã ban cho dân Mỹ. Nói cách khác, sự thật mà những người có xu hướng này kêu gọi gìn giữ là “Họ đúng, mọi người khác đều sai”. Một số người khác, như William J. Bennett, trong cuốn “Why We Fight: Moral Clarity and the War on Terrorism” thì nuối tiếc cái thời mà trẻ em Mỹ được dạy phải cảm nhận những giá trị cao cả tuyệt vời của người Mỹ và lối sống kiểu Mỹ. Nhưng trong thời kỳ thanh bình và êm ả đó, sự thật rõ ràng như trắng với đen, đứa trẻ cũng hiểu được. Sư thật trong thời kỳ vàng son đó của Mỹ không những khách quan mà còn là đơn giản và hoàn toàn bất định.
Dùng những lý luận và quan điểm như trên sẽ không bảo vệ sự thật được. Tin tưởng tuyệt đối vào những điều mình nghĩ là đúng không phải là một biểu hiện quan tâm đến sự thật mà là biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều . Quan tâm đến sự thật là phải sẵn sàng chấp nhận niềm tin của mình có thể sai lầm, hệ quả của ý niệm sự thật khách quan. Nếu sự thật quả thật khách quan thì niềm tin không thể làm thay đổi sự thật đó. Khăng khăng giữ lấy những gì mình tin tưởng là không cần biết đến sự thật thì làm sao bảo vệ sự thật được?
Cả hai quan điểm: Sự thật không có giá trị (Fish) và sự thật có giá trị nên phải học thuộc lòng các giá trị hay giáo điều cổ xưa (Bennet) đều dựa trên cái giả định gián tiếp là chỉ có “một” sự thật có giá trị đó là SỰ THẬT TUYỆT ĐỐI. Giả định này sai lầm. Một sự thật đơn giản, không cần trang điểm gì cả cũng có giá trị rồi, và người ta không cần tô vẽ sự thật bằng chữ hoa để cho nó được chú ý.
Vì những tâm lý như trên nên sự thật về những lý do để gây chiến với Iraq đã rơi vào “khoảng không”. Theo sự phê phán của một số trí thức Mỹ, trong chiến tranh Iraq, chính phủ Mỹ đã lừa dối dân chúng Mỹ đi vào chiến tranh một cách mê muội và căn cứ vào những sự kiện xảy ra trong vòng 3 năm qua đã chứng minh là chiến lược đó là một sai lầm của Mỹ và dẫn đến những đạo luật đe dọa đến quyền căn bản của con người của dân chúng Mỹ. Theo họ đây là một sự xúc phạm đến dân chúng của chính quyền Mỹ.
Chiến lược đánh Iraq của chính phủ Mỹ đúng hay sai, thành công hay thất bại, có lợi hay hại cho dân chúng và đất nước Mỹ, xin dành lại cho các nhà phân tích gia . Tôi chỉ muốn tìm hiểu xem sự thật có giá trị chính trị không? Và nhìn vào cuộc chiến tranh Iraq của Mỹ thì sẽ thấy có lý do để nghĩ rằng sự thật có giá trị chính trị.
Lý do thứ nhất liên quan đến khái niệm sự thật và giả dối. Hãy thử tưởng tượng trong một xã hội mà mọi người tin rằng quyền lực là phương tiện biến một ý kiến thành sự thật . Nói cách khác chỉ những người có quyền thế mới nói điều thật. Nếu người có quyền thế nói tình yêu là thù hận, chiến tranh là hòa bình, khổ đau là hạnh phúc … và mọi người công dân trong xã hội đó đều nghĩ là sự thật. Một xã hội như vậy thì thiếu một cái gì đó rất căn bản. Đặc biệt là người công dân trong xã hội đó hiểu lầm về sự thật, và sự hiểu lầm này bào mòn cái khái niệm về sự thật . Phê bình xã hội thường được thể hiện bằng cách phát biểu những bất đồng ý kiến với những người có quyền thế, và không ngần ngại chứng minh quan điểm của những người có quyền thế là sai lầm. Để làm được việc phê bình xã hội, một người cần có khả năng suy nghĩ và phê phán một cách có hệ thống. Nếu không có khái niệm về sự thật thì không thể phân biệt những gì những người có quyền thế nói là đúng hay sai là sự thật hay giả dối. Vì vậy, nếu loại trừ được khả năng phân biệt sự thật và giả dối với những gì chính phủ nói và làm, có nghĩa là chính phủ đã loại trừ được đối kháng và phê bình xã hội. Đây là lý do tại sao sự thật có giá trị chính trị.
Lý do thứ hai, một xã hội văn minh mà trong đó các thành viên phải tôn trọng lẫn nhau thì những quyền căn bản của con người gọi chung là “quyền con người” là một bộ phận cần thiết, không thể thiếu được. Những quyền căn bản này khác với quyền được tạo ra (hay trao cho người dân) bằng một chính sách của chính phủ, và những quyền căn bản này phải là ưu tiên số một, ưu tiên hơn tất cả các quan tâm chính trị. Thí dụ như người dân không thể bị tước mất quyền riêng tư chỉ vì vị Bộ trưởng Tư pháp quyết định rằng để bảo vệ tất cả các công dân, lực lượng bảo vệ an ninh có quyền biết người dân đọc sách gì, nghe cái gì, nói cái gì , mua sắm cái gì . “Quyền con người” hiện hữu và cần thiết trong một xã hội văn minh và đây không phải là một ân huệ của chính phủ, để chính phủ có thể tùy ý ban phát và thu hồi. Một người, để biết được là quả thật có quyền căn bản đó hay không cần phải có ý tưởng độc lập để phân biệt những gì chính phủ nói và những gì là sự thật. Do đó, khái niệm về những quyền căn bản hay “quyền con người” bao hàm khái niệm sự thật. Nếu chúng ta quan tâm đến quyền lợi, chúng ta phải quan tâm đến sự thật.
Lý do thứ ba, từ nhận thức về mối liên hệ giữa quyền lợi và sự thật cho thấy khía cạnh hiển nhiên nhất về giá trị chính trị của sự thật. Chính phủ có nhiệm vụ phải nói cho dân chúng biết sự thật. Một chính sách minh bạch và tư do thông tin là những phòng thủ rất quan trọng chống lại các hành động bạo ngược. Một khi chính phủ cảm thấy không cần biết đến sự thật, chính phủ đó trở nên bất chính vì họ có thể làm những chuyện mà dân chúng không tán thành. Như chính phủ Mỹ trong việc xâm nhập bất hợp pháp vào khách sạn Watergate, dội bom Cam Bốt, cho phép tra tấn tù nhân Iraq . Dù những hành động đó không trực tiếp ảnh hưởng đến dân Mỹ, nhưng gián tiếp làm tổn hại đến tính liêm chính của nền dân chủ Mỹ và những gì dân Mỹ không biết cũng có thể làm tổn hại họ.
Nếu một chính phủ dân chủ tự do không muốn nói cho công dân biết sự thật, nền dân chủ tự do không còn là tự do và dân chủ. Có lẽ đó là một chân lý quá hiển nhiên như nhà triết học Michel Foucault từng nhận xét rất chính xác rằng không một chính phủ nào có thể tồn tại bằng cách mị dân. Trí thức cũng thế. Trí thức không thể tồn tại nếu không dám nói lên sự thật.
Bàn luận chuyện nước Mỹ, và nhìn lại dân tộc và quê hương Việt Nam của chúng ta. Đúng như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã nhận xét : “Trí thức của Việt Nam chúng ta là một lũ hèn”. Nhận xét của Foucault về sự tồn tại, sự liên hệ giữa trí thức và sự thật cũng đúng luôn. Ở Việt Nam, trí thức đã trở thành một loại động vật “hiếm” dưới sự thống trị của đảng cộng sản trong hơn nửa thế kỷ qua. Hy vọng là nhận xét của Foucault cũng đúng luôn về sự tồn tại của một chính quyền mị dân để dân Việt được hít thở bầu không khí của tự do, dân chủ thực sự và có cơ hội phát triển theo kịp đà tiến hóa của thế giới .
Tài liệu tham khảo:
http://www.telegraph.co.uk/opinion/main.jhtml?xml=/opinion/2005/12/11/do1102.xml&sSheet=/portal/2005/12/11/ixportal.html
– Art, Truth & Politics
http://nobelprize.org/literature/laureates/2005/pinter-lecture-e.html
– True to Life: Why Truth Matters, Michael P. Lynch ,MIT Press