Hoa Nở Đêm
Chị ra đi, để lại cho anh năm nghìn đồng, rút trong món tiền tiết kiệm bé bỏng của hai vợ chồng và một lời dặn.
Khi chỉ còn hai vợ chồng trong căn phòng hẹp, chị choàng tay lên vai anh, nói như nói thầm:
– Công việc của anh, em không phải nhắc. Chỉ xin anh điều độ và giữ gìn sức khỏe… Nhớ coi giùm em chậu hoa ở hiên sau. Chỉ vài ba tuần nữa là hoa nở đấy.
Tưởng là việc gì. Bây giờ anh mới hiểu vì sao mấy hôm nay chị cứ dậy từ tờ mờ sáng. Lịch kịch thu dọn ở cái hiên sau giá buốt gió mùa ấy.
Chẳng biết bao nhiêu lần anh tiễn đưa chị ở sân ga. Lòng anh nao nao, khi vẫy tay theo cái khung cửa cứ bé dần đi như một tấm ảnh thu hình, ở cuối con đường tàu loáng ướt nước mưa.
* * *
Anh vẫn sống điều độ. Cái trật tự gia đình đã đi theo chị. Bàn viết của anh bây giờ là cả một mớ bòng bong những giấy má, sách báo, những chén trà cáu bẩn, cái gạt tàn đầy ngộn mẩu thuốc lá. Món tiền năm ngàn là quá nhỏ đối với cái công trình khoa học anh đang theo đuổi. Còn chậu hoa dưới mái hiên khuất nẻo kia là biểu tượng quá lớn của vũ trụ thiên nhiên. Anh đóng cửa về phía vũ trụ từ khi chị đi. Vì đó là nơi hứng gió mùa, là một nửa thành phố pha tạp, quay cuồng mua bán. Còn phía sau cửa sổ, nơi bàn viết của anh là mặt hồ yên tĩnh, là hàng sấu lốm đốm lá vàng, là nửa cái thành phố thuộc về suy tưởng. Những đêm thức rất khuya tiêu nốt những đồng bạc cuối cùng thành khói thuốc, anh có cái cảm giác đang sống lửng lơ trên một vùng biên giới nào đó nửa hư nửa thực của cái thành phố vừa đáng yêu lại vừa đáng ghét này.
* * *
Anh nghiên cứu về Trần Thủ Độ. Rồi anh sẽ viết về Cống Chỉnh, về Võ Văn Nhậm. Có thể là cả về Nguyễn ánh… Về những danh nhân ra đời ở nơi giáp giới của Công và Tội, về bao nhiêu bậc tài đức còn khuất tên. Sử học, theo anh, đáng yêu chính là ở những vùng tranh tối tranh sáng ấy. Trong cái môn khoa học đầy bất trắc này, anh muốn soi rọi ánh sáng vào những nơi còn che khuất “đằng sau mặt trăng”, như người ta thường nói. Và có thể, với anh, một nhà nghiên cứu trẻ tuổi, đó là con đường mạo hiểm, dẫn dắt bởi một tham vọng điên rồ.
Chị chẳng hiểu gì về nghề nghiệp của anh. Chị chỉ là một thầy thuốc. Chuyên về bệnh sốt rét, yêu con người, yêu thiên nhiên. Không, chị còn yêu anh nữa. Nhưng cái thành phố dở trăng dở đèn này không ráp mối nổi những sợi dây mong manh trong trái tim giầu xúc cảm và sôi nổi của chị. Nên chị vẫn thường sẵn lòng nhận những chuyến đi công tác ở nơi xa.
Giống như anh, chị cũng đang tìm kiếm một điều gì đấy. Họ chẳng bao giờ cản trở nhau. Vì hai người đều hiểu căn phòng ở nơi biên giới của hai nửa thành phố này sẽ chỉ còn là một đảo băng dễ vỡ, ngày nào cả hai người chẳng còn chút khát khao nào đối với những chân trời mà họ muốn tìm kiếm.
* * *
“Cuối cùng, cũng chỉ là tình yêu thôi”. Chị nói thế. Và anh cũng nghĩ thế. Với mỗi chuyến đi xa, chị mang theo nỗi nhớ anh. Vậy mà anh, để làm cái công việc này, anh lại đang cần nhiều quên lãng.
Cứ vậy, cho đến một buổi sáng ngẫu nhiên anh mở cửa, trông ra hiên sau. Anh suýt bật kêu lên thành tiếng khi thấy cả chậu quỳnh sum suê trắng xóa một mầu hoa. Giữa những cành lá rậm rạp, những cuống hoa dài rủ xuống thõng mượt, với những búp hoa đã khép lại như những cái đầu thiên nga đã gẫy cánh. Lồng ngực anh đau tức như có một cái gì đang thít lại: Hoa đã nở hết đêm qua, có lẽ vào lúc cơn gió mùa đổ về dữ dội nhất, những bông hoa mà chị chăm bón, nâng niu, gửi gắm cho anh trước khi lên đường.
Bàng hoàng, anh bước qua bậu cửa sổ. Còn nhìn ngắm gì nữa, những đóa hoa tàn, tối qua đã nở hết mình trong mưa, trước một nửa thành phố ghẻ lạnh, thờ ơ và bên cạnh một ông chủ mải lang thang ở chân trời sử học. Anh đếm từng bông hoa, như đếm sức nặng mỗi lỗi lầm của chính mình.
* * *
May mắn cho anh, sục tìm một lúc trong đám lá dày, anh vẫn còn thấy sót lại một bông hoa chưa nở. Tim phập phồng, anh tìm kéo cắt vội cả cành hoa, thận trọng mang cắm vào lọ.
Và đêm nay, trong căn phòng vắng, anh thấp thỏm chờ hoa nở. Dưới vầng ánh sáng ngọn đèn bàn giờ phút này, đối diện với nhau chỉ có anh và bông hoa còn khép cánh.
“Em có nở không bông hoa…
“Em có chịu nở không bông hoa hoang dã và hết mực vô tư kia?”. Anh thầm thì và hơi thấy buồn cười với cái ý nghĩ chải chuốt của mình. Không, anh đang nghĩ đến một điều thật nghiêm chỉnh. Đến mức gần như gắn liền với hạnh phúc và số phận của anh lúc này. Lẽ ra, cẩn thận hơn, anh phải đi hỏi bạn anh, một nhà thực vật học, xem hoa quỳnh có còn nở được không khi đã cắt lìa thân đem cắm vào lọ. Và bây giờ anh thấy lo lắng, canh cánh trong lòng một mối băn khoăn, day dứt.
Hai nửa thành phố như không còn nữa. Cái biên giới thực hư lửng lơ trên căn nhà không còn nữa. Mà ngoài cửa sổ chỉ là một thứ ánh sáng bàng bạc mầu xanh của đêm cuối thu, không có thời gian. ánh sáng ấy chiếu tỏa khắp nơi, đến mãi nơi đáy lòng của anh. Và đúng lúc ấy, anh thấy búp hoa cựa mình, giống như một sinh vật vào phút giây thoát xác. Rồi một chớp mắt sau, rất nhanh, khi những chiếc lá bên cạnh chưa ngớt rung rinh, những cánh hoa trắng muốt chậm rãi xòe ra với dáng mực thước, tự tin của những ngón tay nghệ sĩ, một mùi hương thoang thoảng tỏa ra từ những nhị hoa vàng nhạt.
Lúc đó, anh nghẹn ngào cảm thấy như có hàng vạn đóa hoa như thế, cùng một lúc bung nở khắp thành phố với một mùi hương thầm trìu mến và hòa giải.
Riêng với anh, bông hoa này mới thực là bông hoa chị giữ lại cho riêng anh. Cùng với năm ngàn đồng chóng tan thành mây khói, với chìa khóa, với sổ gạo, phiếu dầu và bao nhiêu thứ vụn vặt làm nên hạnh phúc.
Những bông hoa như thế vẫn nở mãi từ ngàn xưa trong lịch sử.
Huy Phương
Mùa xuân 1989