Trí thức – Nguồn gốc và ý nghĩa
Từ «trí thức» là từ Hán-Việt nhưng có nguồn gốc phương Tây. Tìm hiểu ý nghĩa đích thực của «trí thức» là tìm hiểu ý nghĩa phương Tây của từ này. Tức là tìm hiểu ý tưởng ban đầu của người viết (hay nói) đến từ này đồng thời tìm hiểu hoàn cảnh xã hội mà từ này được sử dụng lần đầu. Tuy nhiên, người khởi xướng muốn diễn đạt một cách nhưng người nghe (hay đọc), có thể vì một lý do gì đó, lại hiểu một cách khác. Ý nghĩa khác này cũng có tầm quan trọng nếu được sự hưởng ứng của nhiều người trong xã hội.
«Trí thức» dịch từ «intellectuel»[i], một danh từ khá mới trong ngôn ngữ Pháp, đầu tiên sử dụng để chỉ những người ký tên trong bản kiến nghị «Manifeste Des Intellectuels» – (bản Kiến nghị của những nhà Trí thức), của tác giả Emile Zola (1840-1902), một nhà văn lớn của Pháp). Bản kiến nghị này được đăng trên nhật báo Aurore ngày 14 tháng Giêng 1898, với những người ký tên ủng hộ như Léon Blum, Lucien Herr, Anatole France, Gustave Lanson, Marcel Proust v.v… Nội dung kiến nghị nhằm kêu oan cho một sĩ quan Pháp gốc Do Thái tên Dreyfus. Một bản kiến nghị khác đăng trên báo Le Temps, nội dung nhằm yêu cầu xét lại vụ án Dreyfus, đăng ngày hôm sau 14 tháng Giêng 1898, cũng đính kèm một danh sách người ký tên ủng hộ. Điểm chung của những người ký tên trong các bản kiến nghị: là những người có danh tiếng và uy tín trong xã hội như triết gia, nhà văn, nhà báo, họa sĩ, chính trị gia, khoa học gia…
Nguyên nhân đưa đến sự xuất hiện các bản kiến nghị (và sự lên tiếng của Emile Zola) là ông Dreyfus đã bị tòa án quân sự Pháp kết án nặng nề (lưu đày) năm 1894 vì tội làm gián điệp. Nhưng thực tế ông là nạn nhân của một vụ án thiên vị, trong đó công lý bị chà đạp do nạn kỳ thị chủng tộc. Vụ án gọi là vụ án Dreyfus. Vụ án này chỉ trở nên một vụ «xì căng đan» lớn vào 4 năm sau, sau khi thủ phạm chính là commandant Esterhazy mà mọi người tưởng là sẽ bị trừng trị, lại được trắng án năm 1898. Sự việc gây bất bình này khởi đầu cho các bài lên tiếng của Emile Zola cùng với sự xuất hiện của các bản kiến nghị.
Ngoài hai bản kiến nghị được đăng báo mà trong đó danh từ «trí thức» lần đầu xuất hiện, Emile Zola còn viết lá thư ngỏ đăng trên báo ngày 13 tháng Giêng 1898 (trước bản kiến nghị Manifeste Des Intellectuels một ngày) gởi Tổng thống Pháp Félix Faure. Lá thư được Georges Clémenceau, cựu dân biểu, lúc đó là chủ bút tờ Aurore, đặt tít là «J’accuse…!» (Tôi lên án…!). Lá thư ngỏ gởi Tổng thống của Emile Zola rất nổi tiếng, đã làm chấn động dư luận Pháp, đến mức số báo Aurore đăng lá thư được in với số lượng gấp 10 lần hơn ngày thường. Lá thư ngỏ lên án giới lãnh đạo Pháp và biện luận cho sự vô tội của Dreyfus với nhiều bằng chứng lần đầu tiên được đưa ra công chúng.
Bài báo của Emile Zola, cũng như danh tiếng và uy tín của những người ký tên vào các bản kiến nghị, từ nay gọi là những nhà «trí thức», không những chỉ làm chấn động dư luận trong nước, mà ngoài nước Pháp, nhất là tại Anh, giới chính trị (và những người trong hoàng gia) cũng rất quan tâm vì nó liên quan đến thái độ nước Pháp trước sự lựa chọn giữa thể diện của phe quân nhân và quyền lợi quốc gia với nền công lý và sự bao dung nhân bản.
Lúc đó tại Pháp, nền Cộng hòa Đệ Tam vừa được hơn hai thập niên, vụ án xảy ra trong một hoàn cảnh bất lợi cho một người (gốc Do Thái) như Dreyfus. Người dân Pháp vẫn còn căm hận vụ thất trận năm 1870 phải nhượng vùng Alsace cho Đức, trong lúc nước Pháp vừa trải qua nhiều cuộc rối loạn chính trị. Chính trường lại thường xuyên bất ổn do các phe cực tả hay cực hữu chống đối lẫn nhau tại quốc hội. Bất cứ một sơ suất nào của phe bên này đều bị phe bên kia lợi dụng khai thác, trong khi dư luận quần chúng lúc đó vẫn còn khá xa lạ với các giá trị cơ bản về nhân quyền. Vụ án Dreyfus do đó bị (hay được) chính trị hóa. Bên tả thì bênh vực trong khi bên hữu thì chống Dreyfus. Xã hội Pháp chia rẽ trầm trọng. Dân chúng Pháp, cũng như nhiều dân tộc châu Âu thời đó (và vẫn hiện hữu phần nào hiện nay) ảnh hưởng sâu đậm Thiên Chúa giáo, đa số thiên về dân tộc chủ nghĩa (thực dân), kỳ thị chủng tộc, bài Do Thái. Những vụ biểu tình bài Do Thái, mang tính bạo động, xảy ra thường xuyên ở các thành phố Pháp trong khoảng thời gian vụ án Dreyfus. Những người ủng hộ việc xét lại vụ án Dreyfus như Emile Zola và bạn bè trong giới cầm bút ký tên vào bản kiến nghị thời đó có thể ví là những người lội nước ngược dòng.
Nhưng vũ khí lợi hại của giới trí thức lúc đó là báo chí. Qua báo chí, tiếng nói của người trí thức được loan truyền rộng rãi trong xã hội, do đó hướng dẫn được dư luận. Dân chúng nhờ vậy cũng thấu hiểu vụ Dreyfus, ý thức được việc đúng, sai (công lý) cũng như thông hiểu ý nghĩa của các giá trị cơ bản về quyền con người (nhân quyền). Sinh hoạt báo chí vào thời điểm này rất sôi nổi. Hai phe, bênh hay chống Dreyfus, đều sử dụng báo chí để bênh vực cho lý lẽ của mình. Có thể nói, nếu không có tự do báo chí, công lý sẽ luôn là công lý của kẻ mạnh. Nước Pháp (và nhiều nước châu Âu khác) vẫn mãi mãi là những nước độc tài, phong kiến, chiến tranh đe dọa thường xuyên do cái nhìn ích kỉ, thiếu bao dung của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Tầm quan trọng của tự do báo chí vì vậy cũng được nâng cao, khẳng định là «đệ tứ quyền» (sau tam quyền: hành pháp, lập pháp và tư pháp) trong xã hội pháp trị.
Rốt cục vụ án Dreyfus cũng được xét lại năm 1899. Mặc dầu với những bằng chứng cụ thể nhưng Dreyfus vẫn bị Hội đồng Quân nhân xử 10 năm khổ sai, thay vì chung thân khổ sai, do trường hợp giảm khinh. Đúng là một sự phỉ nhổ vào nền công lý! Điều này cho thấy ảnh hưởng chính trị của phe cánh hữu rất mạnh trong giới lãnh đạo Pháp. Nhưng dư luận quần chúng bất bình. Giới chính trị nghị trường chia rẽ và tầng lớp trí thức bất mãn. Cuối cùng ông Dreyfus được phục hồi danh dự, do lệnh ân xá của Tổng thống năm 1906.
Ý nghĩa «trí thức – intellectuel», tóm lại, là ý nghĩa của thái độ Emile Zola (cùng các bạn của ông ký tên vào các bản kiến nghị) trong vụ án Dreyfus.
Ta có thể có một khái niệm tổng quát: Đó là những người xuất thân từ chốn trung lưu, tiểu tư sản (bourgeoisie), có tài năng hay một số hiểu biết nhất định, phần lớn là giới cầm bút, nghệ sĩ, nhà khoa học, chính trị gia… Điểm chung của tất cả là có đức tính can đảm, biết yêu chuộng tự do, tin tưởng vào lẽ phải… Họ dám dấn thân bênh vực lẽ phải, bất chấp việc này có thể làm nguy hại cho cá nhân, mục đích làm thay đổi xã hội hay để bảo vệ những giá trị nền tảng xã hội mà mình tin tưởng. Các giá trị này là: bình đẳng (mọi người đều có nhân phẩm, không phân biệt màu da, tôn giáo, chính kiến…), công lý (luật pháp được tôn trọng và mọi công dân phải được đối xử công bằng trước pháp luật)…
Nhưng lúc ban đầu ý nghĩa của «nhà trí thức – les intellectuels» cũng mang ý nghĩa xấu, do phe chống lại việc xét lại vụ án Dreyfus xuyên tạc.
Maurice Barrès, nhà văn, cũng là một nhà chính trị lớn của Pháp, gương mặt nổi của phe chống xét lại vụ án Dreyfus, theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, bài Do Thái, cho rằng: «trí thức là đám quí tộc của tư tưởng – aristocrates de la pensée». Ý nghĩa của chữ «quí tộc – aristocrate» cần được đặt trong hoàn cảnh xã hội Pháp thời đó, lúc nền cộng hòa vừa được thiết lập, vương quyền đã bị dẹp bỏ qua một cuộc cách mạng đẫm máu. Ta có thể so sánh ý nghĩa của quí tộc như là thành phần địa chủ hay tư sản mại bản dưới thời cộng sản Việt Nam (1955-1960 và 1975-1979).
Một định nghĩa (xuyên tạc) khác về trí thức của phe chống Dreyfus: trí thức là một nhà tư tưởng ẩn mình trong sự trừu tượng, mù quáng trước thực tại và bàn luận về những việc mà họ không hiểu rõ.
Nhưng các ý nghĩa xấu về trí thức lần hồi biến mất, nhường chỗ cho những đánh giá đúng đắn: Trí thức là những người có nghề nghiệp, hay hoạt động bằng trí óc, quan tâm sâu sắc đến những vấn đề xã hội, sẵn sàng dấn thân bảo vệ chân lý, bênh vực những điều chính đáng, cho dầu việc này có thể làm nguy hại đến đời sống của họ.
Sau này, nhiều tranh luận mở ra chung quanh vấn đề trí thức. Ý nghĩa của trí thức do đó phong phú hơn.
Một định nghĩa cho rằng trí thức là người nhập cuộc vào phạm vi công chúng nhằm tranh đấu bảo vệ những giá trị căn bản của xã hội.
Theo Raymond Aron, một nhà tư tưởng lớn của Pháp: l’intellectuel est un créateur d’idées et doit être un «spectateur engagé», trí thức là những người có sáng kiến mới (sáng tạo tư tưởng) đồng thời cũng là những khán giả nhập cuộc.
Jean-Paul Sartre cho rằng trí thức là những người tham dự vào những việc không can dự đến mình. Ông cũng cho rằng trí thức là người thiên tả (trong ý nghĩa ham chuộng đạo đức của nền công lý chứ không hàm ý về chính trị hay phe phái).
Một số định nghĩa khác về trí thức xin dẫn lại như sau :
Nguyễn Ngọc Lanh qua bài viết «Suy nghĩ về khái niệm trí thức» dẫn Các Mác: «Người trí thức là người có khả năng sáng tạo và dám phê phán thẳng thừng mọi thứ cần phê phán, không lùi bước trước mọi kết luận, mọi đụng chạm – dù là đụng chạm tới thứ quyền lực nào»[ii].
Nguyễn Quang A dẫn F. A. Hayek định nghĩa trí thức: «Trí thức là những người buôn bán đồ cũ chuyên nghiệp về tư tưởng, tức là những kẻ truyền đạt tư tưởng của những người khác (như tư tưởng của Plato, Khổng tử, Đức Phật, Chúa Jesus, Adam Smith, Karl Marx, Einstein, v.v). Họ có quyền lực to lớn… họ nắm được quyền lực này bằng định hướng dư luận»[iii].
Dmitriĭ Likhachëv trong bài «Phẩm tính trí thức» do La Thành dịch và chú thích: «Người trí thức: đó là đại diện của một nghề nghiệp gắn với lao động trí óc – kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, hoạ sĩ, nhà văn –, và phải là con người có sự đoan chính về nhận thức… chỉ những con người tự do trong đức tin của mình, những con người không bị lệ thuộc bởi các ràng buộc kinh tế, đảng phái, quyền chính, không phải tuân phục các khế ước tư tưởng, mới thuộc về giới trí thức… Nguyên tắc cơ bản của phẩm tính trí thức là tự do trí tuệ – tự do trong tư cách một phạm trù đạo đức. Con người trí thức chỉ không tự do với lương tâm và với tư duy của mình.» [iv]
Định nghĩa trên của Dmitriĭ Likhachëv được mở rộng thêm trong bài «Trí thức: bộ phận độc lập về trí tuệ của xã hội” do Phạm Xuân Nguyên dịch: «Từ ‘trí thức’ trong các thứ tiếng khác được coi là vay mượn từ tiếng Nga… Trí thức là bộ phận độc lập về trí tuệ của xã hội… Người trí thức sẽ mất sự tự do trí tuệ và thôi là trí thức khi buộc phải tuân thủ mù quáng các giáo điều của một học thuyết nào đó… Người không tôn trọng tự do trí tuệ của người khác, truy bức người khác về chính kiến, (cũng) không thể được coi là người trí thức, bởi vì tự do trí tuệ của riêng anh đòi hỏi sự tôn trọng đối với tự do này ở những người khác, bất luận nó được bộc lộ ra ở đâu và bằng cái gì… Yếu tố đạo đức đối với trí thức rất quan trọng, tự do trí tuệ trong chừng mực nhất định luôn là sự thể hiện của đạo đức. Mà đạo đức là quyền lực duy nhất có sức mạnh không chỉ tước đoạt của con người tự do, mà còn bảo đảm tự do cho con người… Sự bắt buộc của lương tâm là sự bảo đảm cho con người tự do đầy đủ, bởi vì lương tâm bắt buộc từ bên trong, còn tất cả những sự bắt buộc khác đều đến từ bên ngoài: đảng phái, giai cấp, và đủ loại khác… lương tâm là cái bảo đảm cho tự do của con người trí thức. Trí thức luôn là tấm bia công kích của nhà nước, và việc đầu tiên mà bất kỳ nhà nước nào cũng làm để củng cố quyền lực của mình là tìm cách hủy diệt giới trí thức và tất cả những gì thúc đẩy việc hình thành nên trí thức.»[v]
GS Chu Hảo, trong bài «Sĩ phu, trí thức nước nhà xưa và nay» cho rằng trí thức “là những người không chỉ có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết phải là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị – xã hội nóng bỏng của thời cuộc[vi]».
GS Nguyễn Huệ Chi trong bài trả lời phỏng vấn mang tựa đề « Phẩm cách quan trọng của người trí thức» do Lê Ngọc Sơn thực hiện, định nghĩa: “Trí thức được hiểu theo hai phương diện: Một là học vấn tổng quát để hiểu về mọi phương diện của cuộc sống… Thứ hai, phải có một nhân cách làm chỗ tựa cho học vấn ấy phát huy, để giúp ích cho đời[vii]”.
TS Hà Sĩ Phu trong bài «Công Nông Trí và nguyên khí quốc gia» cho rằng trí thức có 3 đặc tính: 1/ tự do không ranh giới; 2/ tiên phong và phát hiện; 3/ lương thiện. Và «trí thức là chiếc máy dò vạn năng, vượt mọi ranh giới, là bộ máy lọc lương thiện rất mẫn cảm, và khi bắt được sự cảm ứng, sự cộng hưởng, thì những cảm ứng ấy lập tức biến thành năng lượng của lý trí hoặc của cảm xúc, thành những kết quả lý thuyết và thành hành động.[viii]»
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Song, Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, trong bài bài phóng sự của Bùi Hoàng Tám, cho biết ý kiến: “Không có khí tiết, không là trí thức. Không dám nói lên sự thật, không phải là trí thức. Không trung thực, không phải là trí thức. Không dám dũng cảm bảo vệ chân lý, lẽ phải cũng không phải trí thức. Nói tóm lại, trí thức phải là người vừa có trí dục, vừa có đức dục. Người xưa gọi những người này là các sĩ phu với sự kính trọng sâu sắc cả về tài năng lẫn nhân cách, khí phách. [ix]”
Như thế người trí thức là người có kiến thức, có đức tính can đảm, có nhân cách (lương tâm và đạo đức), có khả năng tư duy và tự chủ được tư duy của mình. Đặc biệt, người trí thức còn có thái độ dấn thân dứt khoát trước bất kỳ một hoàn cảnh xã hội nào.
Ảnh hưởng của trí thức lên xã hội rất lớn. Thử tưởng tượng, nếu nước Pháp không có hiện tượng trí thức với Emile Zola và bạn bè, tức không có người dấn thân chống lại những bất công, phi lý trong xã hội thì rất có thể nước Pháp hôm nay vẫn còn là một nước Pháp man rợ của đầu thế kỷ trước.
Trí thức vì vậy cũng đóng vai trò động cơ thúc đẩy sự thăng tiến của xã hội, cũng đóng luôn vai trò giám sát, thường xuyên xét lại hệ quả sự thăng tiến đó. Nếu nhìn qua lăng kính lịch sử, tầng lớp trí thức còn là lớp tinh hoa của dân tộc, là những người đóng góp trí tuệ nhiều nhất cho văn hóa và văn minh của dân tộc đó. [Xem tiếp Phần 2]
Trương Nhân Tuấn
[i] Cần phân biệt «intellectuel» theo ý nghĩa của Pháp và «intelligentsia» theo ý nghĩa của Nga. Chữ «intelligentsia» của Nga bắt nguồn từ Latin «intelligentia», bắt đầu sử dụng trong xã hội Nga, từ hậu bán thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20, để chỉ một lớp người có chung một lý tưởng với khuynh hướng «cách mạng» mà lý tưởng này bắt nguồn từ những trăn trở về tình trạng xã hội nước Nga lúc đó. Trong thời Sô-viết, «intelligentsia» dùng để chỉ một giai cấp. Đó là những người tốt nghiệp đại học và có hoạt động nghề nghiệp trí óc. Hiếp pháp 1977 của Liên bang Sô-viết qui định giai cấp «intelligentsia» cùng với giai cấp nông dân và giai cấp công nhân, là ba giai cấp cơ bản cấu thành xã hội Sô-viết. Hiến pháp Việt Nam sau này cũng phỏng theo kiểu mẫu Sô-viết, xác định xã hội Việt Nam có ba giai cấp: công, nông và trí.
[ii] Nguyễn Ngọc Lanh, “suy nghĩ về khái niệm trí thức”, VietNamNet, đăng lại trên http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Suy_nghi_ve_khai_niem_tri_thuc/
[iii] Nguyễn Quang A, “Trí thức là ai?”, VietNamNet, đăng lại trên http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Tri_thuc_Viet_Nam-Tri_thuc_la_ai/
[iv] Dmitriĭ Likhachëv – «Phẩm tính trí thức» do La Thành dịch và chú thích.
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=10608&rb=0102
[v] http://phamxuannguyen.vnweblogs.com/post/1958/115741
[vi] TS Chu Hảo, «Sĩ phu, trí thức nước nhà xưa nay» , nguồn Vietsience, đăng lại trên http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Sy_phu_tri_thuc_nuoc_nha_xua/
[vii] Nguyễn Huệ Chi, bài trả lời phỏng vấn mang tựa đề «Phẩm cách quan trọng của người trí thức» do Lê Ngọc Sơn thực hiện, nguồn Sinh viên Việt Nam, đăng trên http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Luan-Ly/Pham_cach_quan_trong_cua_nguoi_tri_thuc/
[viii] Hà Sĩ Phu, «Công Nông Trí và nguyên khí quốc gia», http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=13793&rb=0102
[ix] Bùi Hoàng Tám, phóng sự «Sĩ phu, trí thức không được hèn», Nguồn: Báo Đất Việt, đăng lại trên
http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Hanh-Dong/Si_phu_tri_thuc_khong_duoc_hen