1. Mở Đầu
Khi đến thăm một gia đình người bà con tại Melbourne, khoảng hai chục năm trước, trong lúc trò chuyện về học đường Úc, tôi được nghe cô em làm phụ giáo tại một trường Trung học phát biểu:
“Em nói cho mấy người Úc biết là tiếng Việt dễ lắm, không có văn phạm, cứ nói ra là đúng à!”
Lời tuyên bố nẩy lửa “khó tin” mà “có thật” này, tôi nghĩ, nó được phát sinh từ góc nhìn với đối tượng là người Việt khi học tiếng Anh, hay nói rõ hơn là học văn phạm tiếng Anh, đem so sánh với người Việt khi nói tiếng mẹ đẻ của mình.
Với tôi, việc học tiếng Anh bắt đầu hơn nửa thế kỉ nay, khi còn ở Hải Phòng, học trường Trung học Tư thục Phùng Hưng, có thầy Chu Văn Bình, tức nhà văn, nhà báo Chu Tử sau này, làm Hiệu trưởng. Có bạn học cùng lớp là Lê Thanh Hà, sau này là ca sĩ Lệ Thanh, nổi tiếng với những bản “Tiễn Em”, “Hoa xoan bên thềm cũ”. Tuy học tiếng Anh tại trường Phùng Hưng ở đường Trại Cau, nay là đường Tô Hiệu, với thầy Nguyễn Huy Chiêm, tôi còn lặn lội học tư thêm tiếng Anh, tuần lễ 3 buổi, với thầy Lê Minh Thịnh tại trường “Aurora” gần sân đá bóng “Bonald”, phố Cầu Đất rẽ vào. Sân đá bóng này, nay không còn nữa và đã biến thành cái chợ. Thầy tôi, chính là anh em thúc bá với các ông Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh—hai thầy nổi tiếng từ Hà Nội đến Sàigòn qua trường Anh Văn Ziên Hồng. Giáo sư Lê Minh Thịnh sau này vào Sàigòn lại mở lớp dạy tiếng Anh “Aurora” buổi tối, tại trường Tốc ký-Kế toán Trần Văn Đốc, gần nhà thờ Huyện Sĩ, trên đường Frère Louis, sau này có tên là Võ Tánh. Những năm tháng đầu di cư vào Sàigòn, tôi trọ học nhà ông chú ở ngõ hẻm 337 đường Frère Louis, nên lại tiếp tục theo học lớp tiếng Anh của Thầy Thịnh. Thầy đẹp giai, lịch thiệp, giọng tiếng Việt sang, giọng tiếng Anh chuẩn, có căn bản về phát âm học và phiên âm quốc tế (= international phonetic symbols), được đào luyện tại Hồng Kông. Tối dạy học thêm, còn ban ngày ông làm Trưởng Phòng Nhân viên Tòa Đại sứ Hoa-kì, trước khi ông mất, vì bệnh gan, khoảng cuối thập niên 60, vào lúc ông chưa đầy 45 tuổi.
Bài văn phạm tiếng Anh đầu đời của tôi là về “Articles”, nằm trong sách giáo khoa L’Anglais Vivant, Sixième Bleu, dành cho lớp Đệ Thất hồi đó. Mới đây tôi được “mời” về dạy “bán thời” tại Đại học University of Western Sydney, sau 12 năm đã xin về hưu non khi đang làm “Giảng viên toàn thời” về Thông ngôn và Phiên dịch cho sinh viên học lấy bằng Cử Nhân BA (Translation & Interpreting). Quả là có chuyện lịch sử lập lại, khi tôi phải hướng dẫn một sinh viên làm riêng một đề tài khảo cứu (= research topic) cho môn chị đang học là “Grammatical Concepts Across Languages” (= Khái niệm Văn phạm qua các Ngôn ngữ), với một ông thầy Úc, gốc Ý. Như một sự tình cờ, chị đã chọn bài viết có số chữ giới hạn là từ 1200 đến 1600 chữ về “Cách dùng ‘Articles’ tiếng Anh qua lối diễn tả ‘Mạo từ’ và ‘Loại từ’ tiếng Việt.”
2. Thân Bài
Để giúp chị sinh viên này có thể viết được bài khả dĩ vừa lòng chị, vừa lòng người đọc, vừa lòng thầy chủ nhiệm môn học, tôi đã gợi ý cho chị là việc làm trước tiên là phải ôn duyệt lại bản chất, nhiệm vụ, cách sử dụng “articles” tiếng Anh. Rồi để từ đó, phát hiện xem có sự “giống nhau” và “khác nhau” nào khi đem so sánh với tiếng Việt chăng? Và nếu có, thì “giống” và “khác” dưới hình thức nào? Để rồi cũng từ đó ta có thể đoán trước được những trường hợp “phạm lỗi” về cách dùng “articles” khi viết tiếng Anh, và cách dùng “mạo từ”, “loại từ” khi viết tiếng Việt của những học viên người nước ngoài. Chị sinh viên trường Đại học này còn được khuyến cáo tìm tòi những dữ kiện, tư liệu, tài liệu (= corpus/corpora) nào để bàn thêm những trường hợp phạm lỗi của người học “articles” tiếng Anh, hay “mạo từ”, “loại từ” tiếng Việt trong “ca” văn phạm nêu trên thì bài viết chung cuộc nhất định “không uổng công đèn sách”.
Để có một cái nhìn so sánh với cách dùng “articles”, thiết tưởng trước hết cũng nên đảo qua xem “Loại từ” và “Mạo từ” được định nghĩa ra sao trong tiếng Việt.
“Loại từ là tiếng đặt trước một danh từ khái quát để làm cho danh từ ấy được rõ ràng, đầy đủ.” Ví dụ: nhà, chuối là những danh từ khái quát. Khi cần nói đầy đủ hơn, ta sẽ có: cái nhà, quả chuối, trong đó cái, quả là “loại từ”.
“Mạo từ là tiếng đứng trước danh từ đã có một tiếng khác hay một câu chỉ định rồi; chỉ có tác dụng phụ họa, khiến người ta để ý vào các danh từ. Những tiếng mạo từ là cái, những v.v… Ví dụ: Cái tờ giấy này; Cái thửa ruộng mới kia; Những nhà có của.
Trong trường hợp vừa kể “giấy”, “ruộng”, “nhà” là danh từ, “tờ”, “thửa” là loại từ, còn “cái”, “những” là mạo từ. Cũng xin lưu ý là từ “cái” có hai danh xưng: “loại từ”, và “mạo từ” như hai định nghĩa nêu trên. Có điều cá nhân người viết không thấy hoặc chưa thấy sách nào nói đến tại sao lại gọi là “mạo từ”. Phải chăng “mạo” có nghĩa là “giả” như trong “giả mạo,” “mạo danh”, và “mạo từ” là “từ” không đúng nghĩa là “từ”, vì cho rằng nó không có nhiệm vụ văn phạm như các từ khác, mà chỉ có tác dụng làm người ta để ý vào các danh từ? (Theo sách Văn phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh, 1992 và bàn thêm).
Phần ôn sơ lược về “loại từ”, “mạo từ” là thế, còn bài học về “Articles” thì sách dạy văn phạm tiếng Anh nào mà chẳng có, nhưng trong thời đại thông tin điện tử hiện nay, tôi đã đề nghị chị tìm vào “Google” rồi “Search” <Articles> cho nhanh, cho tiện (= Google Search <articles grammar English> rồi bấm English Grammar– Learn English Grammar–Articles, LEO Network). Qua kết quả trên mạng, cộng thêm với khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, tôi đã hướng dẫn để chị làm bài cô đọng theo số chữ có hạn định của chị. Bài viết của chị ra sao, có “đáng đồng tiền bát gạo” hay không, xin được để hạ hồi phân giải, trong khuôn viên Đại học.
Còn bây giờ, phần viết sau đây là do tôi nới rộng đề tài, bàn bạc sâu hơn và cũng để vô hình trung cho thấy là tiếng Việt “có” văn phạm và nói tiếng Việt không dễ như mình tưởng, nếu tiếng đó không phải là tiếng mẹ đẻ của mỉnh.
2.1 “Articles” là gì? Trong tiếng Anh khi nói đến “Articles” là nói đến “a/an, the”, còn quen gọi là “Mạo từ” trong tiếng Việt. Chúng là những “chỉ định từ” (= determiners) đứng trước một danh từ (= noun) để chỉ định cho biết danh từ đó hàm ý nói chung, nói tổng quát, có tính bất định (= indefinite) hay nói riêng, nói cụ thể, có tính xác định (= definite) về một cái gì, sự kiện gì hoặc về ai, người nào.
2.1.1 Nói chung (= bất định):
Để có thể nói chung, không định rõ ta có 2 trường hợp: Một là dùng “a/an”; hai là không dùng gì hết; trống trơn (= zero ‘0’).
2.1.1.1 Dùng “a/an”: +
Ví dụ 1: “I ate a banana for lunch.”
(1a) Tôi ăn ( ) chuối cho bữa cơm trưa.
(1b) Tôi ăn quả chuối cho bữa cơm trưa.
(1c) Tôi ăn một quả chuối cho bữa cơm trưa.
Nhận xét: Trước hết, dùng “a” thay vì “an” là vì nó đứng trước một danh từ bắt đầu bằng một phụ âm [b-], như trong “banana”. Cùng một Ví dụ 1, ta có 3 lối nói tương đương trong tiếng Việt, tuy rằng lối nói trong (1a), (1b) thông dụng hơn. Trong (1a) trước danh từ “chuối” là một khoảng trống (= blank), không có từ nào đi trước, chỉ cái bất định, chung chung, không cần biết là “quả chuối” riêng biệt nào. Trong (1b) trước danh từ “chuối” có “quả”, thì “quả” là loại từ (= classifier), hay trong (1c) có “một quả”, thì “một” là “số lượng chỉ định từ” (= numeral), còn “quả” là “loại từ” (= classifier), trong trường hợp này chỉ định “loại quả”, “loại trái” (= chuối), nhưng cũng không nói rõ là “quả” nào, “trái” nào.
Có thể tóm tắt “… một quả chuối…” trong (1c) bằng công thức sau:
Số từ + Loại từ + Danh từ |
một + quả + chuối |
Numeral + Classifier + Noun |
Ví dụ 2: “I saw an elephant this morning.”
(2a) Tôi trông thấy ( ) voi sáng nay.
(2b) Tôi trông thấy con voi sáng nay.
(2c) Tôi trông thấy một con voi sáng nay.
Nhận xét: Trước hết, dùng “an” thay vì “a” là vì nó đứng trước một danh từ bắt đầu bằng một nguyên âm [ e-], như trong “elephant”. Nhưng riêng trong trường hợp nguyên âm đầu của danh từ được phát âm là [ju:], thì “a’ được dùng thay “an”; như trong “a university” chẳng hạn. Với Ví dụ 2 trong tiếng Anh, ta có thể 3 lối nói tương đương trong tiếng Việt, tuy rằng lối nói trong (2a), (2b) thông dụng hơn. Trong (2a) trước danh từ “voi” là một khoảng trống (= blank), không có từ nào đi trước, chỉ cái bất định, chung chung, không cần biết là “con voi” riêng biệt nào. Trong (2b) trước danh từ “voi” có “con” là “loại từ” (= classifier), còn trong (2c) có “một con”, trong đó “một” là “số lượng chỉ định từ” (= numeral), “con” là “loại từ”, trong trường hợp này chỉ định “loài vật” (= voi), nhưng cũng không nói rõ là “con voi” nào.
Có thể tóm tắt “… một con voi…” trong (2c) bằng công thức sau:
Số từ + Loại từ + Danh từ |
một + con + voi |
Numeral + Classifier + Noun |
2.1.1.2 Không dùng gì hết; trống trơn (= zero ‘0’):
2.1.1.2.1 Không dùng a/an” khi nói về những sự kiện, vụ việc nói chung:
Ví dụ 1: Inflation is rising.
(1a) Lạm phát đang gia tăng.
(1b) (Nạn) lạm phát đang gia tăng.
Ví dụ 2: People are worried about rising crime.
Người ta lo lắng về chuyện tội phạm gia tăng.
Nhận xét: Có sự giống nhau gần như tuyệt đối, trong Ví dụ 1 và 2, chỉ riêng trong (1b), trước danh từ “lạm phát” có thể có loại từ “nạn” chỉ định thêm nghĩa “tiêu cực” (= negative) của danh từ. Riêng trong Ví dụ 2, chữ “People” nói chung, không nói cụ thể đến ai cả, nên tiếng Việt dùng chữ “Người ta” là kể như ổn.
2.1.1.2.2 Không dùng “a/an” khi nói về các môn chơi thể thao:
Ví dụ 1: My son plays football.
Con trai tôi chơi bóng đá.
Ví dụ 2: Tennis is expensive.
(2a) Quần vợt chơi tốn nhiều tiền.
(2b) (Môn) quần vợt chơi tốn nhiều tiền.
Nhận xét: Với Ví dụ 1, ta có tương đương tuyệt đối trong tiếng Việt, nghĩa là không có gì, để trống trơn ( ) trước “bóng đá’. Nhưng với Ví dụ 2, ta có (2a), không có gì đáng nói thêm về tính cách giống nhau của hai ngôn ngữ Anh-Việt. Có khác chăng là cách nói “… is expensive” đã được dịch thoát thành “… chơi tốn nhiều tiền” [= it costs a lot to play (tennis)], cho gần với, tự nhiên hơn trong tiếng Việt. Còn trong (2b), trước “quần vợt” có thêm chữ “môn”, có thể coi là “loại từ” dùng để chỉ “một loại thể thao” nào đó.
2.1.1.2.3 Không dùng “a/an” trước danh từ không đếm được (= uncountable nouns)
Ví dụ 1 : Information is important to any organisation.
Thông tin quan trọng cho bất cứ tổ chức nào.
Ví dụ 2: Coffee is bad for you.
Cà-phê không tốt cho anh.
Nhận xét: Trong Ví dụ 1, “Information” là danh từ không đếm được, không dùng số nhiều, nếu muốn dùng để chỉ số nhiều, số lượng “thông tin” nhiều hơn là nói chung, thì phải nói “two/three items of information”. Trường hợp “tin tức” (= news) cũng vậy, mặc dù chữ “news” có hình thức số nhiều vì tận cùng bằng – s, mà phải nói: “two/three items of news”, hoặc “two/three news items”. Trong Ví dụ 1 và 2, tiếng Anh tiếng Việt giống nhau, có khác chăng là phần sau của Ví dụ 2 “… is bad for you’” lại nói là “… không tốt cho anh” (= … not good for you), cho gần với lối nói của người Việt hơn, thì cũng là một lối nói khác của người bản ngữ tiếng Anh vậy.
2.1.1.2.4 Không dùng “a/an” trước tên của một quốc gia:
Ví dụ 1. Italy, Mexico, Bolivia, England
Ý (Ý-đại-lợi), Mễ-tây-cơ (Mê-hi-cô), Bô-li-vi-a, Anh Quốc (Anh-cát-lợi)
trừ phi quốc gia đó có nhiều khu vực, hải đảo, hay tên quốc gia đó có chứa đựng những từ như “state(s)” (= bang, quốc), “kingdom” (= vương quốc), “republic” (= cộng hòa), “union” (= liên hiệp), thì phải dùng “the” trước những danh từ đó.
Ví dụ 2: the UK (United Kingdom), the USA (United States of America), the Irish Republic, the Netherlands, the Philippines, the British Isles Vương Quốc Anh, Hiệp Chủng Quốc Hoa-kì, Cộng-hòa Ái-nhĩ-lan (Cộng-hòa Ai-len), Hòa-lan (Hà-lan), Phi-luật-tân, Quần đảo Anh
2.1.2 Nói riêng (= xác định):
2.1.2.1 Dùng “the”:
2.1.2.1.1 Dùng “the” khi người nói (= the speaker) biết người nghe (= the hearer) biết, hay đoán biết được, mình đang nói về ai, người nào, hoặc về điều gì, chuyện gì.
Ví dụ 1: “The apple you ate this morning was rotten.”
Trái táo anh ăn sáng nay (đã) bị thối.
Ví dụ 2: “Did you lock the car?”
(2a) Anh đã khóa chiếc xe chưa?
(2b) Anh đã khóa ( ) xe chưa?
Nhận xét: Trong Ví dụ 1 “The” được thay thế bằng loại từ “Trái” (= Quả) trong tiếng Việt, xác định “trái táo” mà người nghe biết là “trái táo” nào rồi. Mặc dù tiếng Anh dùng thì quá khứ (= the past tense), nhưng tiếng Việt không nhất thiết phải theo như vậy. Chữ (đã), trong 2 dấu ngoặc đơn, dùng hay không là tùy nghi (= optional). Trong Ví dụ 2, có 2 lối nói trong tiếng Việt, (2a) “chiếc” là “loại từ” xác định rõ cho “xe”, mà người nghe (= the hearer) biết đó là “xe” nào rồi. Còn trong (2b) thì trước “xe” không cần có chữ/từ gì hết, để trống trơn, coi là được hiểu ngầm (= khoá chiếc xe của anh), thành ra có sự khác biệt đáng kể so với cách dùng “the” trong tiếng Anh.
2.1.2.1.2 Dùng “the” khi ta đã nói về điều gì, chuyện gì trước đó, rồi nay tiếp tục kể thêm về chuyện đó, điều đó.
Ví dụ: “She’s got two children; a girl and a boy. The girl’s eight and the boy’s fourteen.”
Bà có hai (đứa) con, một gái (và) một trai. Đứa gái tám tuổi (còn) đứa trai 14.
Nhận xét: Trong Ví dụ kể trên, phần đầu câu tiếng Anh “… two children”, thì tiếng Việt lại nói “… hai đứa con”, thêm loại từ “đứa” vào trước danh từ “con”, và vào sau từ “hai” là “số lượng chỉ định từ” (= số từ). Kể ra thì từ “đứa” không bắt buộc trong trường hợp này, có cũng được, mà không cũng chẳng sao. Nhưng đoạn tiếp theo có dùng “a” trước “boy” và trước “girl”, thì tiếng Việt như thường lệ thay thế bằng “số từ” là “một”. Có điều người Việt ta không cần dùng loại từ “con” trước “gái” hay “trai” như lẽ ra cần có nó. Đây có thể là trường hợp muốn nói tắt cho gọn nhẹ chăng? Riêng chữ (và), trong 2 dấu ngoặc đơn, là tùy ý dùng hay không cũng được. Trong phần sau của Ví dụ trên, “The” được thay thế bằng cả 2 trường hợp bằng loại từ “đứa”. Riêng chữ (còn), trong 2 dấu ngoặc đơn, là tùy ý dùng hay không cũng được. Có điều người Việt dùng chữ “còn” chứ không dùng “và” trong trường hợp này, thì mới nghe ra tiếng Việt.
2.1.2.1.3 Dùng “the” để nói về những vùng miền, địa điểm trên quả địa cầu.
Ví dụ 1: the North Pole, the equator, the MekongDelta
Bắc Cực, Đường Xích đạo, Đồng bằng Sông Cửu Long
2.1.2.1.4 Dùng “the” để nói về sông ngòi, đại dương, biển cả, và núi non.
Ví dụ 1: the Nile, the Pacific, the English channel, the Red River, the Mekong River, the Snowy Mountains.
Sông Nile, Thái Bình Dương, Eo biển Manche, Sông Hồng, Cửu Long Giang, Núi Tuyết.
2.1.2.1.5 Dùng “the” trước một số danh từ mà mình biết danh từ đó chỉ một vật gì, hiện tượng vũ trụ nào, có tính cách duy nhất, có một không hai.
Ví dụ: the rain, the sun, the wind, the world, the earth, the White House etc..
Trời mưa, Mặt trời, Gió, Thế giới, Mặt đất, Tòa Nhà Trắng (Tòa Bạch Cung/Ốc)
Tuy nhiên, nếu mình muốn diễn tả một tình huống riêng biệt nào đó của những danh từ đặc biệt vừa kể, thì phải dùng “a/an”:
Ví dụ 1: I could hear the wind. / There’s a cold wind blowing.
Tôi (đã) có thể nghe thấy ( ) gió (thổi). / Có một làn gió lạnh thổi (qua đây).
Ví dụ 2: What are your plans for the future? / She has a promising future ahead of her.
(2a) (Những) kế hoạch của anh cho ( ) tương lai là gì?
(2b) Kế hoạch cho ( ) tương lai của anh là gì?/
Cô ấy có một tương lai đầy hứa hẹn đang chờ đón cô.
Nhận xét: Trong phần đầu của Ví dụ 1, tiếng Việt không cần có từ gì (= trống trơn) để dịch chữ “the”, nhưng trong phần sau của Ví dụ đó, tiếng Việt dùng “một làn” (= numeral + classifier) để dịch chữ tương đương “a”. Còn “làn” là loại từ, dùng làm rõ nghĩa cho danh từ “gió”. Những từ (đã), (thổi), (qua đây), trong 2 ngoặc đơn, là có tính cách tùy tiện. Trong phần đầu của Ví dụ 2, chữ “the” bắt buộc phải có trong tiếng Anh, thì tiếng Việt không cần có. Còn chữ (Những), trong 2 ngoặc đơn, trong (2a) để chỉ số nhiều của danh từ “kế hoạch” là tùy tiện, không có nó trong (2b) cũng không sao, bởi vì chúng có nghĩa chung chung. Trong phần sau của Ví dụ, “a cold wind” được dịch sang tiếng Việt là “một làn gió lạnh”. Mạo từ bất định “a” được dịch sang tiếng Việt là “một” (one), chỉ mang ý nghĩa “mơ hồ”, không rõ, mà chỉ là “một tương lai đầy hứa hẹn nào đó”. Còn tính từ “promising” nghĩa là “(có) hứa hẹn” nhưng dịch là “đầy hứa hẹn”, nghe văn vẻ hơn. Cũng vậy, cụm từ “ahead of her” nghĩa là “đằng/phía trước cô”, được dịch ý là “đang chờ đón cô”, chắc không có người Việt nào đến nỗi phải nhướng mắt, cau mày phản đối.
2.1.2.1.6 Dùng “the” để nói rằng người nào, vật gì, hay nơi nào đó vừa kể là tuyệt vời nhất, nổi tiếng nhất, v.v… Khi được dùng như vậy, “the” thường được đọc nhấn mạnh.
Ví dụ 1: “Harry’s Bar is the place to go.”
Quán rượu Harry là cái nơi (mình) phải đến (không thể bỏ qua).
Ví dụ 2: “You don’t mean you met the Tony Blair, do you?”
Anh không có ý nói là anh đã gặp cái ông Tony Blair (Thủ Tướng Anh) đấy chứ?
Nhận xét: Trong Ví dụ 1, “the” được dịch tương đương bằng mạo từ “cái” trong tiếng Việt để nhấn mạnh cho danh từ “nơi”, còn những từ trong 2 ngoặc đơn, như (mình) (không thể bỏ qua), là có thể tùy ý dùng để làm cho câu văn tiếng Việt thanh thoát hơn. Trong Ví dụ 2, “the’ đã được thay thế bằng mạo từ “cái” với cùng ý nghĩa nhấn mạnh thêm cho danh từ “Tony Blair”, nhưng còn phải có thêm loại từ “ông” thành “cái ông” thì mới nghe ra tiếng Việt. Riêng những từ trong 2 ngoặc đơn (Thủ Tướng Anh) cũng là dùng tùy nghi, dự phòng cho người đọc tiếng Việt không biết, hay đã quên ông Tony Blair là ai.
Ghi chú: “The” không có nghĩa là “tất cả”:
Ví dụ 1: “The books are expensive.” = (Not all books are expensive, just the ones I’m talking about.)
Những cuốn sách (tôi vừa kể) thì mắc tiền.
Ví dụ 2: “Books are expensive.” = (All books are expensive.)
Sách vở thì (đều) mắc tiền.
Nhận xét: Trong Ví dụ 1, chữ “Những” là mạo từ dùng để nhấn mạnh cho danh từ số nhiều “cuốn sách”, nhưng không có nghĩa là “tất cả”, chỉ hàm ý “những cuốn tôi vừa kể” thôi! Còn loại từ “cuốn” hay “quyển” đứng trước “sách” như một sự cần thiết, tự nhiên trong tiếng Việt. Trong Ví dụ 2, “Books” (không có “the”) hàm ý nói chung, nên tiếng Việt dùng chữ “Sách vở” là một sự lựa chọn chẳng chê được nào. Nếu muốn, thêm chữ “đều” để nhấn mạnh cho “Sách vở” cũng tốt thôi.
2.2 Tóm lược so sánh:
Sau khi duyệt lại hình thức “giống nhau” và “khác nhau” trong cách dùng “articles” của tiếng Anh với cách dùng “mạo từ”, “loại từ” trong tiếng Việt, tôi xin được tóm tắt (và bàn thêm đôi chút) như sau:
2.2.1 Giống nhau: Nếu cả hai ngôn ngữ cùng có dùng “articles” và “mạo từ”, “loại từ” thì là trường hợp:
2.2.1.1 Có-có:
2.2.1.1.1 Tiếng Anh dùng “a/an” trước “danh từ ” :
a/an + Noun |
thì tiếng Việt có dùng như sau:
Loại từ + Danh từ |
Vd: I ate a banana for lunch.
Tôi ăn quả chuối cho bữa cơm trưa.
Số từ (‘một’) + Loại từ + Danh từ |
Tôi ăn một quả chuối cho bữa cơm trưa.
Nhưng cũng có một ngoại lệ, sẽ nhắc lại ở phần sau. Trong ví dụ trên “quả” là “loại từ”. Tuy gọi là “số từ”, nhưng chỉ dùng “số từ” duy nhất với nghĩa là “một” cái nào đó, thay cho “a/an”, với ý niệm mập mờ, mơ hồ. Nếu dùng “số từ” khác chẳng hạn như: “nửa’, hai” hoặc “ba” v.v…, là không đúng, vì như thế tiếng Anh lại phải nói là “half a”, “two”, “three” v.v… có thể mất đi tính cách bất định chăng?
2.2.1.1.2 Tiếng Anh dùng “the” trước “danh từ”:
the + Noun |
thì tiếng Việt cơ bản ra dùng “loại từ” trước “danh từ”:
Loại từ + Danh từ |
Vd 1: “The apple you ate this morning was rotten.”
Trái táo anh ăn sáng nay (đã) bị thối.
Vd 2: “Did you lock the car?”
Anh đã khóa chiếc xe chưa?
Nhưng cũng có một ngoại lệ, sẽ nhắc lại ở phần sau.
Vd 3: “She’s got two children; a girl and a boy. The girl’s eight and the boy’s fourteen.”
Bà có hai (đứa) con, một gái (và) một trai. Đứa gái tám tuổi (còn) đứa trai 14.
Vd 4: “Harry’s Bar is the place to go.”
Quán rượu Harry là cái nơi (mình) phải đến (không thể bỏ qua).
Trong các ví dụ trên: “Trái, Chiếc, Đứa, Cái” là “loại từ”.
2.2.1.1.3 Tiếng Anh dùng “the” trước “danh từ”:
the + Noun |
thì tiếng Việt có dùng “mạo từ” và “loại từ”:
Mạo từ + Loại từ + Danh từ |
Vd 1: “You don’t mean you met the Tony Blair, do you?”
Anh không có ý nói là anh đã gặp cái ông Tony Blair (Thủ Tướng Anh) đấy chứ?
Vd 2: “The books are expensive.” = (Not all books are expensive, just the ones I’m talking about.)
Những cuốn sách (tôi vừa kể) thì mắc tiền.
Trong hai ví dụ trên: “cái, những” là “mạo từ”, còn “ông, cuốn” là “loại từ”.
Còn nếu cả hai ngôn ngữ cùng không dùng “articles” hay “mạo từ”, “loại từ” thì ta có trường hợp:
2.2.2.1.4 Tiếng Anh dùng “the” trước “tính từ”, thay vì “danh từ” (như định nghĩa trong Phần 1 của bài viết), và có khả năng biến đổi tự loại “tính từ” thành “danh từ, tạm gọi là, tập thể”:
the + Adjective |
thì tiếng Việt dùng “loại từ” trước “tính từ” cũng cùng mục đích đó:
Loại từ + Tính từ |
Vd. the rich, the poor, the good, the bad.
người giầu, kẻ nghèo, người tốt bụng, kẻ xấu lòng.
Trong ví dụ trên: “người, kẻ” là “loại từ”, chỉ chung “giới/hạng/tập thể người” có đặc tính “sang hèn”, “tốt xấu” nào đó.
2.2.1.2 Không-không:
2.2.1.2.1 Tiếng Anh không dùng “a/an” (“Zero article”) trước “danh từ”. “Danh từ” đây là những danh từ nói chung, không đếm được (= uncountable nouns), chỉ khối vật chất (= mass nouns), chỉ môn thể thao (= sports), hoặc môn học (= study subjects), v.v…
( ) + Noun |
Tiếng Việt cũng không dùng gì hết, giống nhau, để trống trơn ( ):
( ) + Danh từ |
Vd 1. ( ) Inflation is rising.
( ) Lạm phát đang gia tăng.
Vd 2. ( ) People are worried about rising crime.
( ) Người ta lo lắng về chuyện tội phạm gia tăng.
Vd 3: ( ) Information is important to any organisation.
( ) Thông tin quan trọng cho bất cứ tổ chức nào.
Vd 4: ( ) Coffee is bad for you.
( ) Cà-phê không tốt cho anh
Vd 5: ( ) My son plays football.
Con trai tôi chơi ( ) bóng đá.
Vd 6: ( ) Tennis is expensive.
( ) Quần vợt chơi tốn nhiều tiền.
Vd 7: ( ) Linguistics is one of my favourite subjects.
( ) Ngôn ngữ học là một trong những môn học tôi thích.
2.2.2 Khác nhau: Nếu trong cả hai ngôn ngữ mà tiếng Anh dùng “articles” còn tiếng Việt không dùng “mạo từ”, “loại từ” thì ta có trường hợp:
2.2.2.1 Có-không:
2.2.2.1.1 Tiếng Anh có dùng “a/an” trước “danh từ ” .“Danh từ” đây là những danh từ nói chung, đếm được (= countable nouns), chỉ nghề nghiệp (= profession), chỉ quốc tịch (= nationality), v.v…
a/an + Noun |
thì tiếng Việt cơ bản ra là không dùng gì hết, bỏ trống trơn ( ).
( ) + Danh từ |
Vd 1: I ate a banana for lunch.
Tôi ăn ( ) chuối cho bữa cơm trưa.
Vd 2: My sister is a teacher.
Chị tôi là ( ) giáo viên.
Vd 3: He is an Australian of Vietnamese origin.
Ông ta là ( ) người Úc gốc Việt.
2.2.2.1.2 Tiếng Anh có dùng “the” trước danh từ thường:
the + Common Noun |
mà tiếng Việt thì bỏ trống trơn ( ), không dùng gì, trước danh từ đó:
( ) + Danh từ thường |
Vd 1: “Did you lock the car?”
Anh đã khóa ( ) xe chưa?
Vd 2: What are your plans for the future?
(Những) kế hoạch của anh cho ( ) tương lai là gì?
Có thể giải thích “the” là “mạo từ xác định” (= definite article), nhưng trong Vd 1, vì người được hỏi biết là người hỏi muốn nói về “car” (= xe hơi/ô-tô) nào rồi, nên trước danh từ “xe” không cần loại từ “chiếc” nữa. Trong Vd 2, người được hỏi biết là câu hỏi nhắm vào “future” (= tương lai) của mình. Nếu muốn, “the future” có thể được thay thế bằng “your future” (= tương lai của anh).
2.2.2.1.3 Tiếng Anh dùng “the” trước “danh từ riêng”, hoặc trước “danh từ”, tạm gọi là, “danh từ đặc biệt”, hay trước “danh từ”, tạm gọi là, “danh từ độc nhất vô nhị”:
the + Proper Noun |
the + Special Noun |
the + Unique Noun |
thì tiếng Việt thông thường để trống trơn ( ), không dùng gì, trước các danh từ đó:
( ) + Danh từ riêng |
( ) + Danh từ đặc biệt |
( ) + Danh từ độc nhất vô nhị |
“Danh từ riêng” ở đây nói về:
(1) Những vùng miền, địa điểm trên quả địa cầu:
Vd: the North Pole, the equator, the Mekong Delta.
( ) Bắc Cực, ( ) Đường Xích đạo, ( ) Đồng bằng Sông Cửu Long.
(2) Sông ngòi, đại dương, eo biển, kênh đào, núi non:
Vd: the Nile, the Red River, the Mekong River, the Pacific, the English Channel, the Suez Canal, the Snowy Mountains.
( ) Sông Nile, ( ) Sông Hồng, ( ) Cửu Long Giang, ( ) Thái Bình Dương, ( ) Eo biển Manche, ( ) Kênh Suez, ( ) Núi Tuyết.
“Danh từ đặc biệt” thì chỉ:
(3) Quốc gia có nhiều khu vực, hải đảo, hay tên quốc gia đó có chứa đựng những từ như “State(s)” (= Bang, Quốc), “Kingdom” (= Vương Quốc), “Republic” (= Cộng Hòa), “Union” (= Liên Hiệp/Liên Minh), thì phải dùng “the” trước những danh từ đó.
Vd: the Netherlands, the Philippines, the British Isles, the USA (United States of America), the UK (United Kingdom), the Irish Republic, the European Union
( ) Hòa-lan, ( ) Phi-luật-tân, ( ) Quần đảo Anh, ( ) Hiệp Chủng Quốc Hoa-kì,
( ) Vương Quốc Anh, ( ) Cộng-hòa Ái-nhĩ-lan, ( ) Liên Minh Châu Âu.
(4) Gia đình hay vợ chồng con cái dòng họ nào:
Vd: the Browns, the Smiths, the Nguyens.
( ) Ông bà Brown, ( ) Vợ chồng nhà Smith, ( ) Gia đình họ Nguyễn.
Còn “Danh từ độc nhất vô nhị” chỉ:
(5) Vật gì, hiện tượng vũ trụ nào, có tính cách duy nhất, có một không hai.
Vd: the rain, the sun, the wind, the world, the earth, the White House.
( ) Mưa, ( ) Mặt trời, ( ) Gió, ( ) Thế giới, ( ) Mặt đất, ( ) Nhà Trắng (Tòa Bạch Cung/Ốc).
2.2.2.2 Không-Có:
2.2.2.2.1 Tiếng Anh không dùng “a/an” (= “Zero article”) trước “danh từ”.
( ) + Noun |
mà tiếng Việt có khi dùng loại từ:
Loại từ + Danh từ |
Vd 1: ( ) Inflation is rising.
Nạn lạm phát đang gia tăng.
Vd 2: ( ) Tennis is expensive.
Môn quần vợt chơi tốn nhiều tiền.
Vd 3: ( ) Linguistics is one of my favourite subjects.
Ngành ngôn ngữ học là một trong những ngành học tôi thích.
Trong những ví dụ trên: Nạn, Môn, Ngành là “loại từ”.
Những gì vừa được trình bầy về “loại từ” trong tiếng Việt không phải chỉ có thế, giản dị đến thế mà thôi đâu. Trong sách Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam, Đại học Huế, 1963, tác giả Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê đã viết đôi điều đại loại như sau:
“Loại từ” được chia ra làm 3 loại: “phổ thông”, “chuyện biệt” và “đồng hóa”.
– Loại từ phổ thông: Tùy theo danh từ (mà tác giả gọi là “thể từ”) chỉ ai, cái gì, chuyện gì, việc gì, ta dùng các loại từ khác nhau, gọi là loại từ phổ thông. Ví dụ: với danh từ chỉ người (người thợ, người chủ); chỉ vật (con thú, con chim); vật cụ thể (cái bàn, cái ghế), hoặc vật tượng thể (cái nết, cái đẹp, việc học, sự tranh đấu).
– Loại từ chuyên biệt: Tùy theo những tiếng đứng trước danh từ chỉ “người”, “vật”, “vật tượng thể”, mà ta gọi chúng là loại từ chuyên biệt:
a) “người”, thì tùy theo tuổi tác, địa vị, phẩm cách ta có các loại từ khác nhau. Ví dụ: bà mẹ, cô giáo, thầy thông, bác thợ mộc, trang thiếu nữ, bậc anh hùng, đấng thánh hiền…
b) “vật”, thì tùy theo giống loài hay hình trạng ta nói: chim sẻ, cá chép, cây na, rau muống; quả cam, hoa sen, mùa xuân, phương bắc, màu hồng… quyển sách, phong thư, quả núi, cây bút, thanh gươm, dòng sông…
c) “vật tượng thể”, ta cũng tùy thứ mà nói: nền văn hóa, lòng nhân đạo, mối tình, tình âu yếm, nỗi buồn, cuộc tình duyên… Ta còn “nhân cách hóa” một số danh từ chỉ vật để cho những danh từ này cũng có loại từ như danh từ chỉ người: đấng tạo hóa, ông trời, ông tạo, con tạo, ông trăng, chị nguyệt.
– Loại từ đồng hóa: Những tiếng như: loài (loại), giống, hạng, thứ … đứng trước một danh từ cũng được coi là loại từ đồng hóa. Ví dụ: loài người, giống thú, hạng người hèn hạ, thứ vải xấu.
2.4 Tiên đoán lỗi thường phạm: Người học tiếng Việt hay tiếng Anh, không phải là tiếng mẹ đẻ, thường mắc phải những lỗi có căn nguyên như sau:
2.4.1 Nguyên nhân tổng quát: Trong quá trình thủ đắc một ngoại ngữ, có 2 loại lỗi chính đã được Tiến sĩ Nguyễn Thiện Nam, thuộc Đại Học Quốc Gia Hà Nội, nêu ra khi dẫn chứng các học giả phương Tây, về ngành phân tích lỗi (= error analysis), như P. Corder, L. Selinker, J.C. Richards, R. Ellis, mà tôi xin diễn đạt và bàn thêm đại loại như sau:
2.4.1.1 Lỗi tự ngữ đích (= Intralingual error): Là do chưa thấu triệt hết qui luật ngôn ngữ đích (= target language), trong trường hợp này là ngoại ngữ, mới biết một mà không biết mười, nên phạm lỗi.
Vd 1. Luật văn phạm bảo cho biết: Dùng “a” trước danh từ bắt đầu bằng một phụ âm (b, c, d, f, g, h, j, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, w, x, y hay z), như trong “a city”, “a factory”, và “a hotel”, còn dùng “an” trước một nguyên âm (a, e, i, o, u), ấy nhưng luật có ngoại lệ là: tùy theo cách đọc, cách phát âm của phụ âm hay nguyên âm mà ta dùng “a” hay “an”. Trong chữ “university” thì nguyên âm đầu “u-” đọc là [ju:], như khi đọc chữ “you”, nên phải dùng “a”, vì vậy viết “a university” mới đúng chính tả. Còn trong chữ “hour”, thì “h” là phụ âm, nhưng khi đọc lại là “h” câm, nên khi đọc nghe giống như “our”, coi như bắt đầu bằng một nguyên âm “o-”, thì theo luật lại phải viết “an hour” mới đúng. Vậy thì, giọng phát âm của nguyên âm quyết định nên dùng “a” hay “an”.
Vd 2. Kinh nghiệm học tiếng Anh cho biết: Với “articles” bất định “a/an”, như tỉ dụ lấy trong một bài dịch cho một tài liệu thông tin về chuyện “Hiếm muộn” (= Infertility), của Bộ Y Tế Tiểu Bang NSW, khoảng cuối thập niên 80, mà tôi đã có dịp kiểm tra (= check), trước khi cho in ấn, có người đã dịch câu:
When a man and a woman decide to have a baby.
Chắc là theo công thức:
Số từ (‘một’) + Loại từ + Danh từ |
thành: Khi một người đàn ông và một người đàn bà quyết định có một đứa con.
Kể ra thì cũng đúng ngữ pháp, văn phạm đấy, nhưng nghe không suôi tai. Vả lại, đâu có nhất thiết là hai người này họ chỉ muốn có một đứa con. Vì thế, mà ta có thể ta phải đổi là:
Khi một người đàn ông và một người đàn bà quyết định có con với nhau;
hay:
Khi hai người khác phái muốn có con với nhau.
2.4.1.2 Lỗi giao thoa (= Intralingual error): Là do bị ảnh hưởng bởi kiến thức có sẵn từ ngôn ngữ gốc (= source language), trong trường hợp này là tiếng mẹ đẻ, rồi đem áp dụng máy móc vào ngoại ngữ đang học.
Vd 1. Tiếng Việt nói: Chị tôi là giáo viên, chuyển sang tiếng Anh thành: “My sister is teacher*” (không có “a” trước “teacher”). Hay: Ông ta là người Úc gốc Việt, sang tiếng Anh thành: “He is Australian of Vietnamese origin*” (không có “an” trước Australian). Hoặc muốn hỏi: Những kế hoạch của anh cho tương lai là gì?, mà lại nói: “What are your plans for future?*” (không có “the” trước “future”) [Dấu * chỉ cho biết là nói thế là phạm lỗi].
Vd 2. Nhà thơ Nguyên Sa trong bài “Gọi Em” có đoạn:
Nếu em là gió tôi sẽ làm trăng.
Em là trăng tôi sẽ là mây,
Nếu em là mây, tôi sẽ làm gió thổi.
Còn nếu em là chân trời xa,
tôi sẽ làm cánh chim bằng rong ruổi.
Em là mặt trời thì ở trên đường xích đạo,
tôi sẽ muôn đời làm một kiếp hướng dương.
Nếu phải dịch đoạn thơ trên sang tiếng Anh, mà vì bị ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, thiếu chữ “the” trước danh từ (là từ chỉ những hiện tượng vũ trụ, hay địa điểm duy nhất trên địa cầu), thành thử: “gió” chỉ dịch là “wind”, “trăng” là “moon”, “mây” là “clouds”, “gió thổi” là “wind blowing”, “chân trời xa” là “distant horizon”, hoặc “đường xích đạo” chỉ dịch là “equator”, thiếu “the” đằng trước, thì coi như “chưa đạt”.
2.4.2 Nguyên nhân cụ thể: Ngoài những nguyên do tổng quát kể trên đưa đến chuyện phạm lỗi, còn có 4 nguyên do cụ thể khác (Trích dẫn trong: Lỗi loại từ trong tiếng Việt của người nước ngoài, Nguyễn ThiệnNam, www. talawas.org, 28.8.2006).
2.4.2.1 Vượt tuyến (= Overgenalization): Suy diễn quá mức qui luật, đã học được Vd: Có người học nói: “chào anh” khi gặp phụ nữ, mà lẽ ra phải nói “chào chị”;
2.4.2.2 Chuyển di (= Transfer): Dùng kiến thức tiếng mẹ đẻ để khám phá thêm ngôn ngữ đích. Vd: Người Nhật có thể nói một câu tiếng Việt theo trật tự tiếng Nhật như sau: “sắp tàu đến” trong khi tiếng Việt thì phải nói là “tàu sắp đến”;
2.4.2.3 Chiến lược giao tiếp (= Communcation strategies): Tìm cách giao tiếp bằng mọi giá cho dù câu nói nghe có sai ngữ pháp, có suôi tai hay không. Vd: Một người do không biết từ “nạo vét” nên đã nói “Người ta đang giặt hồ Thiền Quang”;
2.4.2.4 Chuyển di giảng dạy (= Transfer of training): Tài liệu giảng dạy không bao quát hết, hoặc chưa giải thích chính xác hết cách dùng của các đơn vị ngôn ngữ. Vd: Từ “đã”, có người nước ngoài nói: “Hôm qua tôi đã dậy lúc bảy giờ, sau đó tôi đã rửa mặt, đã ăn sáng, đã uống cà phê, đã đánh răng, đã đi học.”
2.4.3 Những lỗi “loại từ” thường phạm: Sinh viên người nước ngoài học tiếng Việt với Thầy Nguyễn ThiệnNam thường phạm những lỗi kiểu như:
2.4.3.1 Dùng thiếu “loại từ”:
2.4.3.1.1 Thiếu “loại từ” sau “những”:
Vd 1: Trong biển, tôi nhìn thấy những cá đẹp.
Vd 2: Tôi không biết những sách này của ai.
Ở 2 ví dụ trên, nếu ta thêm các “loại từ” như: con /đàn (Vd1); quyển / cuốn / pho (Vd2); vào ngay sau “những” thì hai câu đó trở thành hai câu đúng. Có hai nguyên nhân đồng thời xuất hiện. Nguyên nhân thứ nhất là người học sử dụng “chiến lược giao tiếp”, tức là không biết sử dụng loại từ thì tốt nhất là không nên dùng loại từ (điều này không ảnh hưởng đến thông tin giao tiếp). Nguyên nhân thứ hai là hiện tượng “vượt tuyến”, tức người học đã sử dụng tri thức về những trường hợp danh từ không dùng loại từ (không biệt loại, không cá thể hoá) áp dụng sai phạm vi sử dụng,
2.4.3.1.2 Có “số từ” mà thiếu “loại từ ”:
Vd 1: Tôi mua một sách.
Vd 2: Trước nhà của họ có một giếng.
Vd 3: Chị ấy nuôi hai chó.
Ở 3 ví dụ trên, người học dùng thiếu “loại từ” (quyển/cuốn; cái; con) sau “số từ” (một, hai). Nguyên nhân ở đây cũng có thể lí giải như ở trường hợp ở trên, có “những” mà thiếu “loại từ”, tức là người học đã sử dụng “chiến lược giao tiếp” và “vượt tuyến” để tạo ra những câu như vậy.
2.4.3.1.3 Dùng thiếu “loại từ”:
Vd 1: Hôm qua chúng tôi ăn phở gà vào sáng và đi đến nhà hàng Việt Nam vào tối.
Vd 2: Đồng ruộng trở thành tấm thảm nhung dưới trời mênh mông.
Vd 3: Khi mèo đó bị đánh, mèo đó không ăn cá nữa.
Ở Vd 1, người học dùng thiếu “loại từ” (= buổi vào trước sáng và tối). Ở câu này, có lẽ người học do ảnh hưởng của những lối nói như “vào tối mai”, “vào sáng ngày kia”… nên đã tạo ra những câu như vậy. Lí do “vượt tuyến” ở đây khá đậm nét.
Ở Vd 2, người học đã không biết sử dụng “loại từ” (= bầu trước trời) có lẽ bởi lý do người học từng nghe, hoặc học kết hợp “trên trời” nên có thể kết hợp quy tắc đó để tạo ra kết hợp “dưới trời”. Lỗi “vượt tuyến” là nguyên nhân.
Ở Vd 3, người viết đã không sử dụng “loại từ” (= con ) trong khi muốn nói về “một con mèo” cụ thể. Như vậy là đã không phân biệt được ý nghĩa “cụ thể” và “nói chung” khi không dùng “loại từ” này. Có thể nói “chiến lược giao tiếp” và “vượt tuyến” là nguyên nhân phạm lỗi.
2.4.3.1.4 Dùng thừa “loại từ”:
Vd 1: Niary mua cái bút cho ai? – Niary mua cái bút cho em trai.
Vd 2: Trong gia đình tôi ai cũng thích nuôi con chó.
Vd 3: Tôi đã mua quả cà chua, quả dưa chuột.
Ở 3 ví dụ trên người học đã dùng thừa “loại từ” (= cái, con, quả). Thừa là bởi vì danh từ “bút, chó, cà chua, dưa chuột” trong các ví dụ trên chỉ vật, và đồ vật nói chung, chứ không nói đến con vật, đồ vật cụ thể nào.
2.4.3.1.5 Chọn sai “loại từ”:
Vd 1: Hồ Gươm là một con hồ đẹp nhất.
Vd 2: Anh mua cho ai cái từ điển này?
Vd 3: Hôm nay mưa ba cái.
Vd 4: Hôm qua tôi ăn một cái phở.
Tiếng Việt có nói “con sông” mà không nói “con hồ*”. Có nói “quyển từ điển” mà không nói “cái từ điển*”. Còn “mưa” thì “mưa ba lần”, “mưa ba đợt”, “mưa ba trận”, chứ không “mưa ba cái*”. Với “phở” thì phải nói “tô/bát phở” mới được Thầy khen. Xét cho cùng, lỗi dùng sai loại từ trên là do hiện tượng “vượt tuyến” mà ra.
2.5 Ngôn ngữ và lời nói:
Trong mỗi con người sử dụng ngôn ngữ đều tiềm tàng hai thành phần mà Ferdinand de Saussure, nhà ngôn ngữ học gốc Thụy sĩ, hồi đầu thế kỉ 20, gọi là “langue” (= ngôn ngữ) và “parole” (= lời nói), còn Noam Chomsky, khoảng 50 chục năm sau, thì phân biệt “competence” (= ngữ năng), sự hiểu biết mà người sử dụng ngôn ngữ có được về ngôn ngữ, với “performance” (= ngữ thi), sự sử dụng thực tế trong những hoàn cảnh cụ thể của ngữ năng đó. Leonard Bloomfield, trước thời Chomsky, thì lại tách biệt giữa cái ông gọi là “precriptive” (= qui phạm), qui luật có trước mà người sử dụng văn bản, lời nói phải biết để viết, để nói cho đúng, với cái kia là “descriptive” (= miêu tả), ngôn ngữ của những người sử dụng viết sao, nói sao phải được mô tả như thực tế có sẵn để lập thành qui luật.
Về cơ bản thì sự phân biệt “nhị phân” (= dichotomy) này của Saussure và Chomsky, cũng như củaBloomfield, không khác nhau là mấy. Cái quan trọng là chúng nói lên một điều mà người Việt ta quen thuộc khi phân biệt giữa “tri thức” và “hành động”. Đối với người sử dụng tiếng mẹ đẻ thì “ tri” ở đây nằm yên dưới hình thức tiềm ẩn, trừu tượng, và “hành” thì bộc lộ qua hình thức thực tế, cụ thể.
3. Kết luận
Người Việt mà học được cách dùng “articles” nhuần nhuyễn trong tiếng Anh thì quả là khó, nhưng người nước ngoài mà muốn thấu triệt được tính đa dạng và cách dùng của “loại từ” trong tiếng Việt thì lại càng thập phần khó hơn.
Con người sống chung trong một tập thể, có chung với nhau một ngôn ngữ, và ngôn ngữ ấy có một hệ thống với những định luật riêng, tiềm ẩn, trừu tượng của nó. Nhưng ngôn ngữ ấy lại được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau qua lời nói. Người nọ nói ra, người kia nghe lại, họ bắt chước lẫn nhau từ khi mới biết nói bập bẹ, để thông tin cho nhau, truyền đạt ý tưởng cho nhau, và rồi hiểu được nhau. Mọi chuyện đến như một sự tự nhiên, nên có lẽ cũng vì thế mà người nói tiếng mẹ đẻ có cảm tưởng là “tiếng nước mình không có văn phạm, dễ lắm, hễ cứ nói ra là đúng.” Mà chuyện “dễ lắm” cũng không phải chỉ dừng lại ở “tiếng mẹ đẻ”, mà còn lan truyền sang cả tiếng “không phải là mẹ đẻ” nữa kìa. Nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh rằng, nếu trẻ em trước tuổi 13, được nuôi dưỡng trong môi trường có hai ngôn ngữ được nói song hành, thì các em cũng nói được lưu loát với giọng chuẩn, của cả hai thứ tiếng như nhau. Vậy thì, đâu có ai cần học văn phạm để nói tiếng mẹ đẻ cho đúng đâu? Mà thế nào mới gọi là đúng? Văn phạm kiểu nào? “Qui phạm” hay “Miêu tả” đây? Nếu ai đó có học văn phạm, thì chắc là để biết thêm, tổng quát hóa, hệ thống hóa những điều có thể là đã biết, hoặc không nhớ hết, để dạy lại, truyền đạt kiến thức cho người khác. Thế thôi! Ở Úc, đã từ lâu, không có chương trình dạy văn phạm tiếng Anh cho học sinh, mặc dù ở một thời kì nào đó đã có những tranh luận khá sôi nổi về việc nên hay không nên đưa văn phạm trở lại học đường, nhưng chung cuộc thì “không” vẫn hoàn “không”, mà nếu có thì cũng chỉ là kiểu “dơ cao đánh khẽ” mà thôi.
Tổng kết, bài “Tiếng Anh qua lăng kính Việt”, ngoài một số chuyện gì khác, vô hình trung đã khẳng định một điều là tiếng Việt “có” văn phạm và “nói” tiếng Việt không phải là dễ, nếu tiếng đó không phải là “tiếng nước tôi từ lúc nằm nôi”.
Trịnh Nhật
Sydney, Tháng 7, 2009
Tài liệu Tham khảo
1. Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam, Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê, NXB Đại Học Huế, 1963.
2. A Vietnamese Grammar, Laurence C. Thompson, Seattle: University of Washington Press, 1965.
3. Bilingual Children: Guidance for the Family, George Saunders, Multilingual Matters, Clevedon, England, 1982.
4. Bilingual Children: From Birth to Teens, George Saunders, Multilingual Matters, Clevedon, England, 1988.
5. Văn phạm Việt Nam, Bùi Đức Tịnh, NXB. TP HCM, 1992.
6. Đại Cương Ngôn Ngữ Học, Tập 2, Đỗ Hữu Châu-Bùi Minh Toán, NXB Giáo Dục, 1993.
7. “The Vietnamese Spoken Language”, Lê Văn Lý, (Translated from French by Nguyễn Đăng Liêm), Tuyển tập Ngôn Ngữ Văn tự Việt Nam, NXB Dòng Việt, 1993.
8. Vietnamese (Tiếng Việt không son phấn), Nguyễn Đình Hòa, Amsterdam: John Benjamins, 1997.
9. “Vietnamese Translation in Australia: A Missing Link”, Frank Trinh, Website: www.vny2k.com, 2002.
10. “Đi tìm cái tương tương trong phiên dịch”, Trịnh Nhật, Website: www.talawas.org, 24.1.2004.
11. “Mùa Xuân trên đỉnh non Cao”, Trịnh Nhật, www.khoahoc.net, 23.2.2006. 12. Google Search < Lỗi loại từ trong tiếng Việt của người nước ngoài > Nguyễn Thiện Nam (6 phần); hay Website: www.talawas.org, “Lỗi loại từ trong tiếng Việt của người nước ngoài”, Nguyễn Thiện Nam, 28.8.2006.
13. Google Search < articles grammar English > English Grammar– Learn English Grammar–Articles, LEO Network).
14. Google Search < Error Analysis >, Pit Corder.
15. Google Search < Langue and Parole >, Ferdinand de Saussure.
16. Google Search < Comptetence and Performance >, Noam Chomsky.
17. Google Search < Prescriptive and Descriptive Grammar >, Leonard Bloomfield.