Vào đầu thế kỷ 20, trong khi toàn bộ Việt Nam đã hoàn toàn nằm dưới sự đô hộ của người Pháp, phong trào đấu tranh giành độc lập chuyển hướng, từ bỏ những phương pháp thuần túy quân sự của Phan Đình Phùng, Đề Thám. Những biến chuyển tại Nhật bản và Trung Hoa đã tác động đến sự suy nghĩ của nhiều trí thức yêu nước trong việc tìm kiếm con đường mới để cứu nước giành độc lập.
Cũng vào đầu thế kỷ 20 Nhật Bản đã trở thành một quốc gia phát triển, chứng tỏ qua 2 trận chiến thắng, với Trung Hoa (1894-1895) và với Nga (1904-1905). Trung Hoa cũng đã thực hiện những cải tổ trong văn hóa, giáo dục, bãi bỏ các kỳ thi quan trường cũ, thiết lập hệ thống giáo dục và chương trình giáo dục mới, gửi sinh viên du học Nhật Bản và Âu Mỹ, mở đại học theo mô hình của đại học Tokyo –trường đại học này, đến đầu thế kỷ 20, đã hoạt động được hơn 3 thập niên, với 5 ngành học, luật, khoa học, văn học, y khoa và sư phạm. Đến 1900 tại Nhật bản đã có 2 viện đại học hoàng gia và hơn 10 trường đại học tư trên toàn quốc.
Tại Trung Hoa cũng đã xuất hiện những cuộc vận động chính trị và cách mạng theo hai đường hướng, cải cách chế độ quân chủ thành chế độ quân chủ lập hiến, và cách mạng triệt để nhằm lật độ chế độ quân chủ để xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa. Đến năm 1911, với cuộc cách mạng Tân Hợi, con đường thứ hai đã thành công.
Những biến chuyển quan trọng đó về văn hóa, giáo dục và chính trị tại Nhật Bản và Trung Hoa đã gây phấn chấn cho giới trí thức yêu nước Việt Nam trên đường tìm phương thức đấu tranh mới chống lại sự đô hộ của người Pháp. Các sĩ phu-trí thức yêu nước đều đồng ý là không thể tiếp tục cuộc đấu tranh thuần vũ trang chống Pháp như Phan Đình Phùng, Đề Thám. Họ đều thấy cần phải tìm một con đường mới thích hợp hơn, con đường vừa giúp canh tân đất nước vừa tạo được sức mạnh mới để giành độc lập cho dân tộc.
Người đi tiên phong trong cuộc vận động văn hóa chính trị mới này là Phan Bội Châu. Ông ra đời năm 1867, đúng vào lúc 1/3 đất nước bị người Pháp chiếm đóng. Bẩy tuổi học hết Luận ngữ của Khổng Tử, ông tự mình biên soạn “Phan Bội Châu Luận Ngữ” tỏ rõ thiên tư và ý chí sáng tạo của mình. Năm 17 tuổi ông đã viết truyền đơn chống Pháp, tham gia vào các phong trào cần vương và văn thân do triều đình và các sĩ phu yêu nước phát động. Như Khang Hữu Vi bên Trung quốc, Phan Bội Châu hiểu rằng để có uy tín trong cuộc vận động chính trị ông cần đậu cao trong các kỳ thi Hán học lúc đó hãy còn vị trí quan trọng trong giới sĩ phu Bắc kỳ và Trung kỳ. Sau nhiều năm trắc trở do các nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn, năm 1900 ông đậu nhất trong kỳ thi đình nhưng không ra làm quan mà chu du khắp nơi để tìm người đồng chí hướng gây dựng công cuộc kháng Pháp.
Ông dùng văn thơ chữ Hán kêu gọi tinh thần yêu nước của sĩ phu. Trong giai đoạn đầu của cuộc vận động chính trị, ông đưa ra 3 mục tiêu: soi sáng nhân tâm, tăng cường tinh thần và phát triển khả năng của người dân. Năm 1904 ông cùng khoảng 20 người đồng chí hướng thành lập Duy Tân Hội để thực hiện cuộc vận động văn hóa chính trị này.
Về chính trị, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Khang Hữu Vi, chủ trương thiết lập chế độ quân chủ lập hiến như ở Nhật Bản.
Ông tìm gặp Cường Để, cháu đích tôn đời thứ 6 của vua Gia Long, người có thể duy trì tính chính thống lịch sử cho chế độ quân chủ lập hiến khi cuộc vận động của ông thành công. Ông cũng gặp Phan Chu Trinh nhưng quan điểm của hai người khác nhau. Phan Chu Trinh không chấp nhận trở lại chế độ quân chủ, dù là quân chủ lập hiến. Ông chủ trương tập trung canh tân xứ sở trước, đòi hỏi chính quyền thực dân tiến hành các cải cách văn hóa, giáo dục, kể cả chính trị, để mở mang dân trí. Và từ đó thiết lập nền dân chủ và đòi hỏi độc lập.
Trong số những người mà Phan Bội Châu gặp, có lẽ người có ảnh hưởng quyết định nhất cho cuộc vận động của ông trong giai đoạn đầu là Tăng Bạt Hổ, đã từng tham gia phong trào cần vương. Khi các phong trào này thất bại, để tránh không bị Pháp bắt, Tăng Bạt Hổ phải chạy ra nước ngoài và cuối cùng đến Nhật. Ông học nói tiếng Nhật và gia nhập hải quân Nhật. Ông được chính giới Nhật biết đến vì nổi tiếng can trường trong trận chiến Nga-Nhật, do đó thường được mời dự các yến tiệc hoàng gia. Ông thường xuyên yêu cầu chính giới Nhật giúp cho phong trào yêu nước của Việt Nam và đã nhận được lời hứa giúp sinh viên du học tại Nhật. Năm 1904, với lời hứa đó, ông trở về Việt Nam và gặp được Phan Bội Châu. Năm 1905 chính Phan Bội Châu đi Nhật, trực tiếp tiếp xúc với các chính khách Nhật và chính thức nhận được sự ủng hộ cho chương trình gửi thanh niên du học Nhật bản. Ông trở về Việt Nam và Phong trào Đông Du ra đời. Ngay trong tháng 7 năm 1905 ông trỏ lại Nhật đem theo 3 thanh niên, trong đó có 1 người sau này tiếp tục du học tại Đức. Cũng năm đó thêm 6 thanh niên nữa được gửi đến Nhật du học. Đến năm 1908 đã có 200 du học sinh Việt Nam tại Nhật.
Thời gian đầu của cuộc vận động, Phan Bộ Châu còn chủ trương và tập trung vào việc vũ trang lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Khi còn hoạt động ở Nghệ An, ông đã cho người tàng trữ vũ khí để chuẩn bị nổi dậy vũ trang. Ngay khi đã ở Nhật, ông còn viết Hải ngoại huyết thư gửi về nước kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp. Nhưng rồi ông gặp Lương Khải Siêu, thảo luận về tình hình Trung quốc và Việt Nam, rồi được đọc một số tác phẩm Tây phương, tiếp thu một số quan điểm đấu tranh của Tây phương, trong đó có chủ trương của Giuseppe Mazzini (1805 – 1872), một chính khách nổi tiếng của Ý, về việc phải tiến hành giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ quần chúng cứu nước đồng thời với việc chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.
Từ đó, Phan Bội Châu tập trung vào việc đưa thanh niên sang Nhật học. Ông viết Khuyến Quốc Dân Du Học Thư gửi về nước để vận động tài chánh cho chương trình Đông Du. Thư vận động nêu rõ mục đích của phong trào Đông Du là nhằm đào tạo nhân tài cho cuộc đấu tranh giành lại độc lập từ tay người Pháp. Dù chưa nói rõ sẽ giành lại độc lập bằng cách nào nhưng ông tin rằng chỉ trong thời gian chưa đầy 10 năm, với một lực lượng nhân lực mạnh hơn và hiểu biết hơn, cuộc vận động chắc chắn sẽ có diều kiện để thành công. Như vậy, đối với Phan Bội Châu, và chắc chắn cũng là quan điểm chung của các sĩ phu yêu nước lúc đó, giáo dục là chìa khóa mở ra cánh cửa độc lập và tự cường, là điều kiện cần có cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mở mang dân trí là chủ trương chung của giới sĩ phu-trí thức yêu nước đầu thế kỷ 20. Con đường đấu tranh mới bắt đầu từ đó.
Trong thời gian ở Nhật Phan Bội Châu tiếp xúc với những chính khách và học giả nổi tiếng của Nhật, kể cả Thủ tướng đương nhiệm là ông Inukai Tsuyoshi thuộc đảng Tiến Bộ. Những người này đều khuyến khích ông gửi du học sinh sang Nhật. Ông cũng có dịp nghiên cứu các tác phẩm chính trị, xã hội của Tây phương đã được dịch sang chữ Hán. Vốn là người sớm có tư tưởng tiến bộ, ông đưa ra nhiều chủ trương mới nhằm tập họp nhiều thành phần người Việt yêu nước khác nhau. Một trong những chủ trương tiến bộ này liên quan đến những người công giáo. Người Pháp lúc đó tìm cách chia rẽ lương-giáo, và nhiều người yêu nước không công giáo vẫn nghi ngờ người công giáo theo Pháp. Phan Bội Châu đã viết bài đề cao lòng yêu nước của người theo đạo Da tô, kêu gọi đoàn kết lương giáo, không kỳ thị và mặc cảm người Da tô giáo là theo Tây. Trong thực tế nhiều người công giáo yêu nước đã đi theo đường lối của ông và tích cực giúp ông hoạt động.
Song song với phong trào Đông Du, các sĩ phu yêu nước kêu gọi hoặc tự đứng ra mở các trường tư thục miễn phí, gọi là nghĩa thục. Đông Kinh nghĩa thục mở ra năm 1907 tại Hà Nội. Các sĩ phu yêu nước hưởng ứng phong trào nghĩa thục cũng tự động mở các nghĩa thục tại nhiều địa phương, cả trong các thôn làng, dạy quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp, và các kiến thức phổ thông.
Phong trào Duy Tân phát triển mạnh không phải chỉ trong giáo dục mà trong kinh doanh. Nhiều cửa hàng buôn bán được mở ra, do các sĩ phu, trước đây chỉ biết đi học và dạy học, làm quan, nay theo tinh thần duy tân, chủ động tham gia vào công việc kinh doanh.
Người Pháp lúc đầu còn cho phép các nghĩa thục hoạt động, nhưng sau thấy phong trào nở rộ, lại do nhiều nho sĩ nổi tiếng chủ trương, nên tháng 11 năm 1907 đã ra lệnh đóng cửa Đông Kinh nghĩa thục sau khi nghĩa thục chỉ mới hoạt động được 8 tháng. Chính quyền thực dân cũng ra lệnh đóng cửa tất cả các nghĩa thục, và cấm mọi hoạt động diễn thuyết nơi công cộng.
Những hoạt động văn hóa giáo dục và xã hội theo hướng canh tân do các sĩ phu yêu nước chủ động thực hiện gần như bị tê liệt tại Bắc và Trung kỳ sau chỉ vài năm tiến hành. Người Pháp muốn triệt tiêu mọi cơ hội để giới sĩ phu, trí thức và thanh niên yêu nước và tiến bộ có thể tập họp, triệt phá mọi manh nha hoạt động mà họ biết chắc mục đích sau cùng là nổi dậy chống lại họ. Chính quyền thực dân muốn chủ động tiến hành các chương tình văn hóa giáo dục và xã hội nhằm củng cố quyền thống trị của họ trên nhân dân Việt Nam.
Đoàn Viết Hoạt
26/6/2014
(còn tiếp)