Mới đây, ông Lê Hiếu Đằng – một người Miền Nam bí mật hoạt động cho cộng sản nhằm tiếp tay Miền Bắc xâm lăng Miền Nam và trở thành viên chức cao cấp trong Đảng Cộng Sản Việt Nam – bày tỏ những thắc mắc đối với Đảng của ông ta qua các bài viết đăng trên trang mạng Bauxite Việt Nam. Tôi – một người lính Miền Nam thua trận trong cuộc chiến đấu chống lại cuộc xâm lăng của Miền Bắc và trở thành phó thường dân Hoa Kỳ – xin mạo muội giải đáp những thắc mắc của ông Lê Hiếu Đằng.
Có hai vấn đề trọng tâm khiến cho ông Lê nhức nhối. Đó là: “việc cho thuê đất rừng đầu nguồn và đại dự án bauxite”. Đối với ông Lê, chuyện con tầu Vinashin sụp đổ chỉ là chuyện nhỏ; chuyện rừng đầu nguồn và bauxite mới là vấn đề sinh tử. Ông Lê thẳng thắn đặt câu hỏi:
“Có ai đã ngăn cản các phương tiện truyền thông công bố kiến nghị trên? Nếu có, thì đó là tước quyền được thông tin của nhân dân – quyền được hiến pháp và pháp luật bảo hộ, như thế người ngăn cản đã vi phạm pháp luật của nước CHXHCNVN.”
“Nếu không phải như thế, thì tôi xin hỏi giới nhà báo nước ta: Tại sao các bạn phải sợ mà không dám đăng tải một kiến nghị có tầm quan yếu đến vận mệnh dân tộc, đã được lưu truyền khá lâu trên nhiều mạng, đã được chính thức gửi tới Quốc hội? Như thế có phải các bạn đã từ bỏ cái quyền quan trọng nhất của mình và cũng là yêu cầu cao nhất của nhân dân với các bạn: thông tin trung thực những gì liên quan đến lợi ích của người dân? Tôi tin rằng tờ báo nào mạnh dạn đăng tải Kiến nghị nói trên sẽ chẳng bị ai bắt tù, ngược lại sẽ được nhân dân quý trọng.”
Là một người trường kỳ đấu tranh để tiêu diệt chế độ dân chủ của Miền Nam hầu thể hiện lý tưởng (?) cộng sản và trở thành quan chức cao cấp trong Đảng, ông Lê tỏ ra khá ngây thơ khi đặt ra câu hỏi nêu trên. Mời ông Lê vào trang mạng dưới đây để đọc bài viết của nhà văn Dương Thu Hương thì sẽ rõ:
Phần 1: http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=7965
Phần 2: http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=7978
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Nga Xô xâm lăng các quốc gia Đông Âu, áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên các quốc gia đó và biến các quốc gia đó thành chư hầu của mình. Nghĩa là các quốc gia Đông Âu bị đô hộ bởi chủ nghĩa cộng sản. Cho nên khi ông Mikhail Gorbachev đề ra chương trình “perestroika” và “glassnot” thì các quốc gia Đông Âu vùng lên giành độc lập để thoát vòng nô lệ chủ nghĩa cộng sản. Trong khi ấy, Thực dân Pháp u mê và tham lam, không bắt chước Đế quốc Anh dần dần trao trả thuộc địa, khiến cho một số nhà cách mạng Việt Nam (do ông Hồ Chí Minh đứng đầu) rước chủ nghĩa cộng sản về để giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ của Thực dân Pháp. Vì tự nguyện rước chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải do ngoại bang áp đặt, cho nên dù chủ nghĩa ấy đã bị nhân loại ném vào thùng rác, nhưng người cầm quyền Việt Nam vẫn nhất mực duy trì bộ máy cai trị để nhốt toàn dân trong một nhà tù khổng lồ. Khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam quay sang ôm chân Trung Cộng, mặc dầu từng bị Trung Cộng xua quân đánh cho tơi bời hoa lá vào năm 1979.
Tình trạng suy đồi về mọi mặt trên đất nước Việt Nam hiện nay không phải là sự ngẫu nhiên. Nó là kết quả tất yếu của một đảng chính trị được xây dựng trên sự đạo đức giả, lừa đảo, dối trá, phản trắc, nói một đàng làm một nẻo, tàn bạo, bất nhân … Người cầm quyền cộng sản hôm nay say mê ngôi báu, danh vọng với bất cứ giá nào dù phải bán Tổ Quốc cho ngoại bang, cũng không phải là ngẫu nhiên. Đừng trách cứ họ trở nên thoái hóa. Họ là phiên bản mang đầy đủ tính chất của những người lãnh đạo tiên khởi: Cha nào con nấy! Người cha đứng đầu những người lãnh đạo tiên khởi đó, là ông Hồ Chí Minh.
Ông Hồ không phải là người yêu nước. Ông từng làm đơn xin vào học trường Thuộc địa để phục vụ Thực dân Pháp. Ông Hồ bí mật ra lệnh tay chân, bộ hạ thủ tiêu các lãnh tụ quốc gia yêu nước chủ trương đấu tranh giành độc lập dân tộc, như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ và bán nhà cách mạng cùng quê Nghệ An với ông – cụ Phan Bội Châu – cho Pháp.
Ông Hồ không phải là người cộng sản chân chính, vì trình độ kiến thức của ông lúc bấy giờ chưa đủ sức để hiểu triết thuyết “vô sản chuyên chính” của Karl Marx và Engel. Ông Hồ chỉ là sản phẩm của một dân tộc bị nô lệ đi tìm công danh sự nghiệp cho bản thân bằng phương tiện cộng sản. Những nhà cách mạng quốc gia ái quốc không thành công vì họ chỉ được trang bị bằng tấm lòng yêu nước. Ông Hồ đưa cuộc “cách mạng” đến thành công (cho đảng cộng sản, chứ không phải cho nước Việt Nam) vì ông Hồ được đào luyện trong lò cộng sản về các bộ môn tình báo, phản gián, đấu tranh khuynh đảo. Vì vậy, sau khi đánh đuổi Thực dân Pháp xong, ông Hồ đã thiết lập một chế độ “công an trị”, người người báo cáo, nhà nhà báo cáo lẫn nhau. Cha mẹ, vợ chồng, anh em tố giác lẫn nhau. Cái khẩu hiệu “độc lập, tự do, hạnh phúc” đã làm mờ mắt các nhà trí thức yêu nước, nhưng ngây thơ! Đã gọi là “chuyên chính” thì làm gì có dân chủ? Không ai có thể hiểu nổi những người học rộng như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (con trai Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm), Phạm Giao (con trai Thượng thư Phạm Quỳnh), Hùm Xám Đặng văn Việt (con trai Thượng thư Đặng văn Hướng) vẫn cúi đầu phục vụ ông Hồ, người giết bố mình một cách nhục nhã, dã man, tàn bạo! Phải chăng hàng ngũ trí thức đã biến thành “cô đồng, cậu đồng” dưới bàn tay phù thủy Hồ Chí Minh? Ông Hồ chịu phận làm đàn em thống thuộc các anh Hai (Nga), anh Ba (Tầu), nhất cử nhất động đều phải báo cáo lên trên thì làm sao có độc lập, có tự do?
Ông Hồ là người thông minh quỷ quyệt, gian hùng, nhiều mánh khóe, thủ đoạn, nhưng không có tầm nhìn xa cho tương lai dân tộc. Kết nghĩa anh em môi hở răng lạnh với một dân tộc luôn có dã tâm đồng hóa dân tộc mình, là ngu dốt. Hai nước anh em trong phe Xã hội Chủ Nghĩa – Nga Sô, Trung Cộng – từng dàn quân hai bên bờ Hắc Long Giang để thanh toán lẫn nhau, nhưng ông Hồ vẫn cố bám vào cái gọi là tình huynh đệ quốc tế, thay vì quay đầu về dân tộc, là người mù quáng.
Ông Hồ không học lịch sử, nên ông mới coi Hoa Kỳ là đế quốc thực dân như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đánh bại phe trục Đức – Ý – Nhật, nhưng chính Hoa Kỳ mang lại tự do, thịnh vượng cho các quốc gia thua trận. Nếu ông Hồ không đi theo con đường cộng sản, không cam tâm làm tên lính tiền phong cho Nga Tầu nuôi ý đồ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, nhuộm đỏ toàn cầu, Hoa Kỳ sẽ không đưa quân sang Việt Nam đánh quân xâm lược cộng sản ở Miền Nam và không dội bom Miền Bắc. Tai họa chiến tranh Việt Nam là do ông Hồ gây nên.
Ông Hồ thi hành chính sách bạo ngược rập khuôn như Trung Cộng, giết cả những người đã nuôi mình, giết cả đồng chí xả thân vì mình. Khi thất bại trong đấu tố cải cách ruộng đất, ông Hồ làm bộ nhỏ vài giọt nước mắt cá sấu, không nhìn nhận lỗi lầm của chính mình, không nhận trách nhiệm của mình, lại truất chức Tổng Bí thư của Trường Chinh. Tiếp theo đó, ông đày đọa, bỏ tù, bỏ đói những nhà trí thức trong phong trào Nhân văn Giai phẩm từng theo ông chống Thực dân Pháp. Những trí thức văn nghệ sĩ này chỉ xin được tự do sáng tác, chứ không hề có tư tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản. Ông Hồ thù hận trí thức vì mang mặc cảm không có bằng cấp. Do bản chất vô cảm trước bất hạnh của đồng bào mình, ông Hồ đã đào tạo những người lãnh đạo thừa kế gồm những kẻ ít học, không tim, không óc.
Ông Hồ phạm hai trọng tội gây tác hại lâu dài trên đất nước. Đó là: Chính sách bao tử trị và ngu dân. Người xưa thường nói “đói thì đầu gối phải bò” và “bần cùng sinh đạo tặc”. Chế độ dùng miếng ăn để hèn hóa kẻ bị trị, ai ngoan ngoãn thì được phát khẩu phần; ai tỏ ra ương ngạnh thì cúp hộ khẩu. Hàng ngày mọi người chỉ nghĩ đến miếng ăn, nên nhân cách càng ngày càng sa sút là vì vậy. Dân ta bị Tầu đô hộ một ngàn năm, bị Tây đô hộ một trăm năm. Nhưng dân ta đã vùng dậy được, ấy là nhờ cái khí phách nẩy sinh tinh thần bất khuất. Ông Hồ đã dùng miếng ăn nhằm triệt tiêu khí phách để ông dễ bề cai trị, tất nhiên phải đến ngày cái đảng do ông dựng lên bị nô lệ ngoại bang. Cái hèn do ông Hồ gieo trong dân đã lây lan sang người cầm quyền. Bưng bít thông tin, cấm đoán quyền tự do ngôn luận, tư tưởng, triệt hạ người trí thức là đường lối cai trị của thực dân xâm lược; chứ không phải là người lãnh đạo có nghĩa vụ đưa dân trí đất nước mình theo đà văn minh nhân loại. Cho nên những hạng ngu dốt như Lê Duẩn, Đỗ Mười mới có thể ngoi lên hàng lãnh tụ. Còn người cán bộ nào có trí tuệ, có lương tri đều bị hãm hại. Mới đây, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên “kiến nghị” rằng Đại hội XI, Đảng nên chọn người tài đức để lãnh đạo là một đề nghị mang tính hoang tưởng mò kim đáy biển.
Ông Hồ bách hại tôn giáo, phá hủy chùa chiền, nhà thờ, miếu mạo tức là ông chủ tâm hủy diệt truyền thống văn hóa đạo đức của tổ tiên. Hai tôn giáo lớn: Phật giáo lấy lòng từ bi, Thiên Chúa lấy tính bác ái làm cứu cánh đều bị Hồ xem là thuốc phiện, tất nhiên chỉ còn lại Cái Ác, Cái Vô Luân lên ngôi.
Hồ Chí Minh là tên giả (ngụy) trong thời kỳ hoạt động bí mật để tránh tai mắt của mật thám Pháp. Khi đã trở thành Chủ tịch Nước, ông Hồ không lấy lại tên Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành do cha mẹ đặt. Khi viết Hiến Pháp năm 1946, ông sao chép các điều khoản về quyền con người giống như Hiến Pháp của các nước dân chủ Âu Mỹ; nhưng trong thực tế thì không có một điều khoản nào được ông thi hành. Tất cả những việc làm của ông Hồ đều là giả nhân, giả nghĩa. Thâm chí ông giả danh Trần Dân Tiên viết sách ca ngợi mình. Văn minh nhân loại trải qua những thời kỳ đồ đá, đồ đồng… Ông Hồ đã đưa văn minh Việt Nam đến thời kỳ… ĐỒ ĐỂU. Ngày nay ở Việt Nam, cái gì cũng đểu, như bằng cấp giả, hàng hóa giả, thuốc men giả, dự án công trình giả để rút ruột… là thành quả do ông Hồ mang lại. Chẳng lẽ ông Lê Hiếu Đằng đi theo cộng sản đã lâu mà không nhận ra điều đó hay sao?
Ông Hồ Chí Minh đã ra người thiên cổ. Không ai có thể vực ông dậy để hài tội. Nhưng đường lối cai trị của Hồ đã gây nên hậu quả ngày hôm nay. Đảng Cộng sản vẫn bắt buộc cán bộ, nhân dân học tập tư tưởng và noi gương đạo đức của Hồ thì nói đến “Đổi Mới” cũng chỉ là khẩu hiệu giống như cái khẩu hiệu “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” mà thôi! Tôi chỉ nêu ra một số sự kiện trong hàng hà sa số tội ác của ông Hồ, để chứng minh cho ông Lê Hiếu Đằng hiểu rằng tình trạng Đất Nước ngày hôm nay tồi tệ về mọi mặt không phải là sự xuống cấp hay tha hóa của người lãnh đạo kế tục. Nếu ông Lê Hiếu Đằng ngồi vào chiếc ghế của ông Nguyễn Minh Triết, ông Trương Tấn Sang (những cán bộ cộng sản nằm vùng hoạt động nội thành với ông xưa kia) thì ông cũng không thể làm khác hơn họ được. Ông công nhân hãng Ba Son Nguyễn Hộ được ở vào vị trí Thủ tướng như Võ văn Kiệt thì cũng ký Nghị Định 31/CP như thường mà thôi! Bằng cớ cho thấy rằng chỉ có những cán bộ lãnh đạo đã nghỉ hưu mới thốt lên lời phê bình đường lối của đảng đã bị… chệch hướng! Thủ tướng Võ văn Kiệt về hưu rồi mới nói được một câu: “Nhắc đến ngày 30 Tháng 4 thì có một triệu người vui, một triệu người buồn…”!
Ông Lê Hiếu Đằng quở trách các nhà báo không làm tròn chức năng của mình đối với nhân dân là một sự quở trách quá đáng! Là đảng viên cộng sản, ông Lê phải biết rõ hơn ai hết sự khủng bố của Đảng rùng rợn đến mức nào?! Nhà văn nổi tiếng ngang tàn như Nguyễn Tuân cũng phải thú nhận “sở dĩ tao còn sống được đến ngày hôm nay là vì tao… biết sợ”. Không một người cầm bút nào tự nguyện biến mình thành bồi bút. Sở dĩ họ trở thành con chó của Ivan Pavlov, là vì chế độ đã cưỡng bức họ như vậy. Nhà báo không phải là siêu nhân. Họ cũng có bao tử, nên họ phải ép mình bên lề phải để bảo vệ… nồi cơm cho vợ, cho con và cho bản thân. Hãy thương xót họ!
Câu hỏi mà ông Lê Hiếu Đằng nên đặt ra như thế này thì hy vọng còn nghe được: “Những ông Tướng đang là Tư lệnh Quân Khu dưới tay có các sư đoàn được trang bị đầy đủ súng ống, đạn dược, Tổ Quốc đang lâm nguy trước nạn giặc nội xâm (tham nhũng), trước mưu đồ Hán hóa của Phương Bắc, tại sao các ông khoanh tay ngồi yên? Những anh hùng đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào biến đi đâu mất hết rồi? Phải chăng đô la, bơ sữa, rượu ngon, gái đẹp đã làm rũ liệt các sợi thần kinh biết xấu hổ, cơ bắp rồi?”. Đấy mới thực sự là những đối tượng mà ông Lê nên đặt câu hỏi. Còn những anh nhà văn, nhà báo, nhà trí thức trói gà không chặt, không có một tấc sắt trong tay, không có “một cục đất ném con chó” thì làm được cái gì? Chắc người cựu cán bộ nội thành Lê Hiếu Đằng biết rõ điều đó hơn ai hết?!
Những người cộng sản có quyền lực trong tay là từ họng súng, họ không phải là những người “do dân, bởi dân, vì dân” thì không bao giờ họ sẽ làm điều gì vì phúc lợi của nhân dân. Họ còn được ông Tổng Bí thư Trường Chinh Đặng xuân Khu dạy: “Đảng cộng sản cướp chính quyền bằng bạo lực thì Đảng cộng sản sẽ giữ chính quyền bằng bạo lực”. Những người lãnh đạo đảng cộng sản hôm nay đã răng rắc tuân thủ lời dạy của ông Trường Chinh không sai một nét. Do đó, tôi không một chút ngạc nhiên khi thấy những cuộc đàn áp một cách man rợ các giáo dân, các dân oan khiếu kiện, các thanh niên nam nữ mặc áo thun mang hàng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”, các nhà phản kháng ôn hòa… Tôi không tin người đang có chức, có quyền, có tiền mà có lương tri, có lòng yêu nước, có dũng cảm để làm điều gì lợi ích cho nhân dân. Chỉ khi nào họ về hưu thì may ra có một số người còn bàn bạc, góp ý với Đảng những điều tử tế mà thôi!
Trung Cộng dời cột mốc biên giới, lấn chiếm thác Bản Giốc, biển đảo chỉ tác hại cho Việt Nam một phần nào. Trung Cộng bỏ tiền ra mua lãnh đạo Việt Nam để dành cho chúng độc quyền khai thác nhôm mới là thủ đoạn ghê gớm. Tây nguyên là cao điểm chiến lược của toàn cõi Đông Dương. Khai thác quặng nhôm với lý do kinh tế chỉ là bề mặt. Thực chất là Trung Cộng chuẩn bị đặt những quả bom nổ chậm trên nóc nhà Việt Nam. Đó là hành vi của kẻ cướp kê súng vào mang tai nạn nhân để buộc nạn nhân phải làm theo mệnh lệnh của chúng. Trung Cộng tuyên bố hung hăng ở Biển Đông cũng chỉ là diện để cho cả thế giới dồn chú tâm vào đó, nhằm che mắt thiên hạ không nhìn thấy Việt Nam đang bị cấy sinh tử phù. Khi những hồ chứa bùn đỏ hoàn thành, Việt Nam đừng hòng dựa vào thế lực của Hoa Kỳ và thế lực của các nước trong khối ASEAN làm gì được để giúp mình.
Bởi vậy, dù cho kiến nghị xin Đảng Cộng sản ngừng khai thác Bauxite do các ông Nguyễn Huệ Chi, nhà giáo Phạm Toàn, tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng và nhóm IDS phổ biến được một triệu người ký đi nữa thì cũng không thể nào buộc Đảng Cộng sản ra lệnh ngừng được. Vì có một số phần tử Bộ Chính trị, Ban Chấp Hành Trung Ương đã bị những con sinh tử phù hàng tỉ đô la nhập vào máu rồi. Do đó, họ mới mạnh dạn bảo rằng đó là chính sách lớn của Đảng! Hỏi ra Đảng là ai, thì chẳng ai có câu trả lời!
Nếu ông Lê Hiếu Đằng và những người Miền Nam đi theo cộng sản Miền Bắc xâm lăng Miền Nam cảm thấy hối hận vì mình đã trót “đánh Mỹ cứu nước”, góp phần tạo nên tình trạng suy đồi mọi mặt hôm nay thì chỉ còn cách vận động ông Tướng Tư Lệnh Quân Khu nào đó đủ dũng cảm, đủ lòng yêu nước sai lính hốt hết mấy ông lãnh đạo bị Trung Cộng cấy sinh tử phù trong Bộ Chính Trị, trong Ban Chấp Hành Trung Ương, rồi đem lên máy bay ra biển thả hết xuống thì mới mong phá cái thế cờ bí do Trung Cộng cài đặt mấy chục năm nay. Hãy noi gương Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản thắt chặt “hữu nghị” với Hoa Kỳ thì sợ gì mấy anh Tầu bán chạp phô? Còn ông Lê lên tiếng quở trách những người cầm bút thì thứ nhất là tội nghiệp cho họ và thứ hai là ông ngầm khoe cái khí phách dũng cảm của ông từng bị Tòa án Mặt trận Vùng III của Ngụy lên án tử hình khiếm diện mà ông không hề sợ hãi thôi.
Tương lai dân tộc Việt Nam hoàn toàn tùy thuộc những người đang sinh sống trên đất nước Việt Nam. Tôi bị cộng sản đẩy ra ngoài làm kẻ lưu vong, chấp nhận làm công dân Hoa Kỳ, chẳng còn có nghĩa vụ hay bổn phận gì mà xen vào nội bộ của Việt Nam. Chẳng qua đọc thấy ông trách oan những người cầm bút thì tôi mạo muội góp ý; chứ tôi không có âm mưu lật đổ chính quyền để tranh giành bất cứ một cái gì cả cho bản thân. Chỉ còn cách “hốt” bọn tay sai Trung Cộng thôi, thưa ông Lê Hiếu Đằng!
Houston, ngày 20 tháng 11 năm 2010
Bằng Phong Đặng văn Âu