Đây là phần cuối cùng mà tác giả Kissinger đề cập tới cuộc đàm phán của Hiệp định trong White House Years. Tác giả hồi tưởng lại những ngày thương thuyết từ năm 1969 đến đầu năm 1973, suốt nhiệm kỳ thứ nhất của TT Nixon được kể lại rất dài dòng văn tự. Tổng cộng giai đoạn này trong cuốn hồi ký kể trên tương đương với một cuốn sách ba trăm trang, riêng phần này tác giả đã dành 81 trang khổ lớn để ghi chép lại.
Hồi ký của người trong cuộc Kissinger tuy dài, tường tận nhưng có nhiều sự kiện ít được nhắc tới so với các nhà sử gia viết về giai đoạn này. Trận oanh tạc B-52 cuối năm 1972 chì được kể lại sơ sài, tác giả triết lý dông dài về cảm nghĩ, xúc động của ông khi mang lại hòa bình mà quên nhiều dữ kiện. Trước hết tôi xin lược thuật lời kể của Kissinger, sau đó sẽ đề cập thêm nhận định của các nhà nghiên cứu về giai đoạn này.
Kissinger về Mỹ ngày 23-10 sau khi không được phía Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận bản Dự thảo Hiệp định. Nixon tham vọng thắng lớn trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày 7-11, ông dặn Kissinger im tiếng, ông cũng muốn cả hai miền Nam, Bắc VN yên lặng, ông cũng muốn sớm chấm dứt chiến tranh. Kissinger đã đi Paris, về Washington, sang Paris trở lại, đi Sài Gòn rồi Nam Vang bây giờ lại về Mỹ, từ hy vọng, tức giận đến thất vọng. Hà Nội bác bỏ điện tín ngày 23-10 của Kissinger, chỉ trích phía Mỹ không nghiêm chỉnh, kéo dài chiến tranh, chậm trễ ký Hiệp định. BV nói họ rất nghiêm chỉnh và lên án Mỹ phải chịu trách nhiệm. Ngày 25-10, Kissinger gửi thư cho phía Nga, Trung Cộng nói sẽ vượt mọi trở ngại để ký vào cuối tháng 1.
Ngày 26-10, lúc 5 giờ 30 sáng, đài phát thanh Hà Nội đọc bản tin tiếng Việt, sau tiếng Pháp, Anh. Họ nói cuộc thảo luận tháng trước (tháng 9) và cho biết những điểm chính của Dự thảo. Họ nói Mỹ-Hà Nội đã thỏa thuận ký Hiệp định giữa tháng 10. Hà Nội đề nghị ký trước cuộc bầu cử Tổng thống (7-11) và Mỹ đã chấp thuận. Ngày 20, 23 Tổng thống Nixon đã nói Hiệp định hoàn tất thỏa mãn với nhượng bộ của Hà Nội. Mỹ đã lấy nhiều lý do không giữ đúng thời khóa biếu, Hà Nội tố cáo Chính phủ Nixon thiếu thiện chí, nghiêm túc và đòi ký ngày 31-10 (strongly denounces the Nixon Administration’s lack of good will anh seriousness”… trang1397)
Sáng ngày 26-10, báo New York Times cũng nói Mỹ đã thỏa thuận với BV bản Dự thảo Hiệp định ngưng bắn, hy vọng Sài Gòn chấp thuận sớm, tin này do bị tiết lộ từ Paris. Tại Sài Gòn chuyện này đã bị tiết lộ cả tuần và và ông Thiệu không chấp thuận. Hà Nội đã công bố nên Mỹ cũng phải chấp nhận trường hợp này và phải họp báo xác nhận. TT Nixon đồng ý cho Kissinger trả lời đài Hà Nội. Kissinger có mục đích bảo đảm với Bắc Việt vẫn giữ những cơ bản của Dự Thảo và đề nghị những thay đổi của Sài Gòn. Ông ta nói khó tránh sự chỉ trích của Sài Gòn và tại Mỹ. Nixon vẫn nhắc Kissinger là Dự thảo tốt hơn chủ trương của McGovern (Ứng cử viên Dân chủ)
Lần đầu tiên Kissinger lên Truyền hình ở cuối nhiệm ký của Nixon, xin sơ lược lời ông ta.
“Chiến tranh đã kéo dài trên 10 năm và đang chấm dứt…Hòa bình đã ở trong tầm tay (Peace is at hand), một Hiệp định đã trông thấy tuy có khó khăn để tới chỗ ký kết, nhưng ta đã đi được một đoạn đường rất xa”
Kissinger cho biết đã bảo vệ quyền của người miền Nam, họ đã chịu khổ nhiều, lập trường chính phủ VNCH đáng kính phục.
TT Nixon quan tâm chấm dứt chiến tranh bằng thương thuyết nhưng theo nguyên tác Hiệp định sẽ là một hành động hàn gắn chứ không phải chia rẽ.
Kissinger cảnh báo cả Hà Nội và Sài Gòn:
“Chúng tôi sẽ không dẫm chân lại lên Hiệp định khi những điều khoản đã đúng. Chúng tôi sẽ không sửa chữa Hiệp định khi nó đã đúng. Với thái độ này, với sự hợp tác của bên kia, chúng ta sẽ tái lập hòa bình, thống nhất với nước Mỹ mau chóng”
Ngày 26-10 gây nhiều xúc động, nếu chiến tranh còn tiếp tục, trong nước Mỹ còn chia rẽ, Kissinger không biết phái đoàn CS có trở lại bàn hội nghị, một dấu hiệu cho BV thấy Mỹ sẽ không sai lời hứa, và cho VNCH biết họ không thể gây trở ngại cho Mỹ. Cuộc thảo luận trở lại bắt đầu ngày 20-11, Hà Nội trễ bốn tuần, khai thông ngày 9-1-1973, ký Tắt Hiệp định (Kissinger và Lê Đức Thọ) ngày 23-1, người ta có thể chỉ trích tại sao đã nói Hòa bình trong tầm tay mà tới sáu tuần mới đàm phán. Vấn đề là một cuộc chiến khốc liệt dài 10 năm, chết vô số kể, được giải quyết trong nhiều tuần là đúng (lời Kissinger)
Điều then chốt là kéo BV trở lại bàn Hội nghị, trước khi họp báo ngày 26-10, Kissinger đã nói (bằng điện tín) với Đại sứ Bunker bảo đảm là ông Thiệu không phản đối tất cả Dự Thảo. BV gửi thư nói Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh VN phải nghiêm chỉnh đàm phán. BV66 sẽ đàm phán thiện chí, đứng đắn để sớm chấm dứt chiên tranh đúng nguyện vọng của người VN, người Mỹ và cả nhân dân thế giới, sẽ tạo điều kiện thiết lập bình đẳng quyền lợi chung Mỹ và VNDCCH. Hôm sau ngày 27-10, xướng ngôn viên BV Nguyễn Thanh Lê rút lại, họ nói nếu ký Hiệp định tháng 10 thì Lê Đức Thọ, Xuân Thủy sẽ họp với Kissinger. Lê hứa hẹn Hòa bình ở cuối cây bút (Peace is at the end of a pen). Kissinger trả lời họ sau khi họp lần cuối sẽ ngưng ném bom 48 tiếng sau khi ký Hiệp Định
Nga trách Mỹ không họp đúng hẹn có thể do VNCH không đồng ý kiến. Kissinger trả lời thư nhân danh TT Nixon nói chúng tôi giữ cơ bản đề nghị và nhờ Nga giúp đàm phán, Nixon thư cho Nga (do Kissinger soạn) nói mục đích của hòa bình trong tầm tay. Kissinger chỉ thị Sullivan (Thứ trưởng ngoại giao) chuẩn bị thủ tục để sửa đổi các điều khoản do VNCH muốn rồi bảo Tướng Haig gửi thư cho Ngũ giác đài tiếp tục chương trình viện trợ Enhance plus (bị đình chỉ vì ông Thiệu chống bản Dư thảo). Ngày 30-10 Hà Nội nói thời hạn dự trù ngày (ký kết) 30-10 đã qua, họ bị mất mặt, Kissinger nhờ Haldeman nói với Tổng thống: Hà Nội có thể bỏ ký kết, bỏ đàm phán hôm sau 31-10. Trung Cộng phàn nàn về VNCH và đề nghị Mỹ phải ngăn chận VNCH, Kissinger trả lời họ (nhân danh TT)
“Qui vị phía Trung Hoa phải hiểu nguyên tắc chính, chúng tôi không thể coi chính phủ Sài Gòn như bù nhìn, phía VNDCCH (BV) thường cho là Mỹ là ông chủ của đồng minh VNCH, nhận định này là nguyên nhân đưa tới bế tắc. Chính phủ Mỹ xin nhắc quí vị là nhiều cuộc đối thoại giữa Kissinger và Thủ tướng (Chu Ân Lai) khiên chúng tôi kính trọng quí vị đã ân cần với ông Hoàng Sihanouk, chúng tôi nhận định là vấn đề đối với đồng minh (VNCH) không dễ, nguyên tắc không thay đổi.”
Nói chung người Mỹ đa số tỏ ra thoải mái sau khi có tiết lộ ngày 26 việc lập lại hòa bình trong danh dự, đây là một xỉ nhục đối với nhóm những kẻ chống đối, họ chống hai cách: họ nói cuộc họp báo để giúp Nixon đắc cử và có một số phản chiến đạo đức giả lặp lại lời ông Thiệu chỉ trích Hiệp định bất bình đẳng để BV ở lại. Họ thúc dục Mỹ phải đơn phương rút hết (bỏ Đông Dương). Từ lâu họ không đếm xỉa gì tới ngưng bắn, BV rút khỏi Miên, Lào, cấm xâm nhập. Về việc tiếp tục viện trợ cho Sài Gòn, họ chỉ trích những khoản này gây khó khăn cho đàm phán nhưng nay nhiều khoản đã được giải quyết, họ không thừa nhận Chính phủ của họ (tức Nixon) đã không vô đạo đức, ngu xuẩn như vậy.
McGovern chiếm hàng đầu, ngày 29-10 ông ta nói họp báo về Hiệp định Paris ở giai đoạn tranh cử phút cuối, ông có biết là Hà Nội đã nói chuyện ấy trên đài Phát thanh hay không? Ngày 5-11 ông ta nói Kissinger đánh lừa dân, nói dối, cả hai Kissinger và Nixon đánh lừa dân mục đích kiếm phiếu. Hòa bình chẳng thấy đâu cả. Báo Washington Post chỉ trích Kissinger, Nixon đòi hỏi nhiều quá về các điều khoản (asking for too much). Tuần đầu tháng 11 câu “Hòa bình trong tầm tay” bị người ta hỏi sao đàm phán lâu thế để có hòa bình, vấn đề là BV không chịu đàm phán. Ngày 6-11 báo New York Times nói nó là cái vỏ để che đậy leo thang, Washington Post nói Nixon từ chối ký ngày 31-10 vì không muốn có Hiệp định trước bầu cử, ông ta đánh lừa dân
Người dân không tin tưởng hòa bình, ngày 4-11 Hà Nội đồng ý đàm phán họp ngày 14-11 hoặc một ngày nào do Mỹ lựa chọn, ngày 7-11 Kissinger trả lời hẹn ngày 15-11 mục đích có thời giờ cử Tướng Haig tới Sài Gòn khuyên ông Thiệu. Ngày 8-11 Hà Nội trả lời hoãn lại tới 20-11 vì Lê Đức Thọ bị bệnh, họ muốn trả lời sớm, phía Mỹ đồng ý.
Khoảng Trống Do Bầu Cử
Giai đoạn kỳ lạ nhất của nhiệm kỳ Nixon là thắng cử áp đảo ngày 7-11-1972, ông đã hoàn thành một lô công trạng tuyệt diệu năm 1971 và 1972: như Thỏa ước Bá Linh, Thượng đỉnh Bắc Kinh, Thượng đỉnh Mạc Tư Khoa và Thỏa ước tài giảm binh bị, chấm dứt chiến tranh VN gần kề… có lẽ đây là lần thắng cử lớn nhất trong lịch sử (lời Kissinger)
Mười một giờ sáng ngày 8-11 (sau ngày bầu cử) tại phòng Roosevelt Tòa Bạch Ốc, Nixon họp cám ơn rồi ra cửa giao lại cho Haldeman (Đổng lý văn phòng) xử lý, ông này bảo mọi người thuộc Ban tham mưu tòa Bạch ốc làm đơn từ chức ngay. TT Nixon sẽ bổ nhiệm các viên chức mới trong một tháng, buổi sáng sau ngày thắng cử, họ bị đuổi, ai nấy đều bối rối. Một giờ rưỡi sau, Nội các cũng phải làm y như vậy. Chẳng hiểu sao ông Tổng thống mới đắc cử lại đuổi các cộng sự viên thân cận nhất mà không giải thích bao giờ. Kissinger cho biết Nixon cảm thấy như bị gạt vì năm 1968 đắc cử với tỷ lệ thấp và áp lực chiến tranh VN đã khiến ông không quét dọn Chính phủ, Nội các, ông ta không tin tưởng những người này vì họ như là phường Dân chủ. Ông không giải thích sự gấp rút này, người ta bị hạ nhục.
Sau phiên họp, Kissinger được Haldeman cho biết thư từ chức của ông chỉ là hình thức, ông (Kissinger) được giữ lại. Chiều 8-11 Kissinger cùng Nixon, Haldeman và Ehrlichman (Cố vân) bay tới Key Biscayne. Sau đó Nixon và Haldeman, Ehrlichman tới Cap David để lập kế hoạch Chính phủ mới. Chín ngày sau, Kissinger chỉ gặp ông có hai lần và ngày 17-11 Kissinger gặp ông chút xíu trước khi đi Paris, rất khó gặp ông ấy, nhà lãnh đạo thắng 61% phiếu phổ thông đã cắt đứt liên hệ với những người cộng sự cũ của ông ta.
Từ khi đi Bắc Kinh về liên hệ giữa Kissinger và Nixon phức tạp, lúc ấy Kissinger thấy mình như một cố vấn vô danh. Nixon cho là cơ cấu cũ có âm mưu đối với ông nên truyền thông chú ý mà Ban tham mưu của ông thiếu khả năng. Ông ta không tin Bộ ngoại giao nên đã giao quyền đàm phán cho Kissinger. Trong giai đoạn đàm phán về Việt Nam hai người không khác nhau về lập trường, khác nhau ở chỗ trước ngày bầu cử (7-11), ông không muốn có quyết định rõ ràng (ông không muốn ký). Kissinger có cảm tưởng thấy có sự ghen tị tài năng, chút xíu nữa đã bay chức cố vấn Tổng thống. Số là có lần nữ ký giả Ý Fallaci phỏng vấn Kissinger, một cuộc nói chuyện tai hại nhất mà ông chỉ gặp cô ta một lúc ngày 2 và 4-11 tại văn phòng của ông. Cô này phỏng vấn nhiều nhân vật lãnh đạo thế giới, Kissinger than thở đã trả giá cho sự ngây thơ của mình, Fallaci gán cho ông câu:
“Người Mỹ giống như anh cao bồi…” một mình một ngựa vào thành phố.. và chẳng có ai.. Cái cá tính này giống như Kissinger, ông ta phủ nhận không nói thế. Câu nói ám chỉ ông là vai chính, nó xúc phạm tới bất cứ ông Tổng thống nào, đặc biệt tổn thương tới Nixon, cho là Kissinger khoe công để hạ thấp Tổng thống. Hậu quả chưa tới ngay, Nixon chưa tỏ dấu hiệu gì phật lòng, khi Kissinger chuẩn bị đi đàm phán với Lê Đức Thọ ngày 20-11, Nixon gặp Kissinger ngày 18-11, Nixon chỉ nói điện thoại với ông.
Tướng Haig lại Sang Sài Gòn
Ông Thiệu muốn giữ lực lượng Mỹ lại trong cuộc chiến chừng nào ông sẽ không phải lo sợ chiến đấu một mình. Ngày 11-11 Xuân Thủy trả lời báo chí Pháp xác nhận Hội đồng hòa giải dân tộc không phải là chính phủ Liên hiệp trá hình. Để được VNCH ủng hộ, Mỹ phải cử Tướng Haig sang Sài Gòn mang thư TT Nixon đề ngày 8-11, trong thư than phiền ông Thiệu đã công bố cho dân biết bản Dự thảo Hiệp định, Kissinger, Nixon hứa sẽ sửa đổi. Hội đồng hòa giải hai bên sẽ có số người bằng nhau, củng cố vấn đề Khu phi quân sự, cố gắng đòi BV rút một ít, cố gắng tối đa, TT Nixon muốn ông Thiệu trả lời rõ ràng.
TT Thiệu gặp Tướng Haig ngày 10-11, nghe đọc thư Nixon và hứa sẽ suy nghĩ đêm nay. Ngày 11-11, ông Thiệu và toàn Hội đồng an ninh QG chống đối Haig cùng Bunker, đòi BV phải rút quân và đem theo những vũ khí, gửi thư cho Nixon nhắc lại những đòi hỏi và đòi thay đổi trong Ủy ban quốc tế kiểm soát.
Kissinger điện tín cho Haig nói: Thượng viện Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu ta không tiến về chiều hướng này (ký kết). Tướng Haig qua Nam Vang thăm viện mồ côi và thăm Lon Lol , ngày 14-11 TT Nixon trả lời ông Thiệu (do Kissinger soạn) giải thích việc BV rút quân, chúng tôi cố gắng tối đa nhưng ông Thiệu mong muốn những cái không thực tế. Nixon cam kết:
“Vấn đề quan trọng nếu địch gây hấn, xin cam kết với ông nếu chúng vi phạm Hiệp định , tôi sẽ trả đũa ngay”
Đây là một bức thư nữa do viên chức VNCH năm 1975 đã công bố ra (tại Mỹ) để hy vọng được viện trợ, đáng tiếc việc này đã khiến Quốc hội có cớ bỏ VNCH chứ không phải để cứu (họ kết án Nixon đã cam kết với VNCH mà không đưa ra Quốc hội)
Kissinger nói chúng tôi không chủ tâm ký một Hiệp định đầu hàng, chúng tôi tin đó là một Hiệp định có được do 45,000 người lính Mỹ (chết tại mặt trận, KIA, chưa kể hơn 10 ngàn chết vì những lý do khác), nó được ký kết không phải để cho BV coi thường. Sau này TT Nixon nói khi gặp ông Thiệu ngày 3-4-1973: Chúng tôi có quyền cưỡng bức thi hành Hiệp định do Hà Nội ký và xác nhận tại một Hội nghị quốc tế gồm 12 nước vào tháng 3-1973. Bộ trưởng quốc phòng Richardson nói với báo chí và chứng nhận trước Quốc hội, Kissinger xác nhận trước cuộc họp báo. Sáu tháng sau, dưới ảnh hưởng của Watergate, họ ra luật cấm Hành pháp không được thực hiện những việc do luật quốc tế nhìn nhận đẻ cưỡng bức thi hành Hiệp định. Như thế họ hủy bỏ những rủi ro của Hiệp định và mỉa mai những hy sinh của quân đội Mỹ.
Ngày 17-11 Kissinger gửi Đại Sứ Bunker một bản tóm tắt những thay đổi để đưa cho ông Thiệu, nhưng thay vì đưa những sửa đổi ưu tiên, Sài Gòn lại đưa ra 69 điều khoản đề nghị sửa đổi (quá nhiều). Gần 4 tuần khiến cho Sài Gòn và Washington bị xa cách, ông Thiệu muốn phía Mỹ phải áp lực mạnh Hà Nội
Ngày 13-11, Kissinger sẽ gặp Lê Đức Thọ, ông ta ăn tiệc với Thứ trưởng ngoại giao Trung Cộng tại New York, ông này hướng dẫn phái đoàn Trung Cộng tới Liên Hiệp Quốc đã nói với Kissinger như sau:
“Không thể để mất cả thế giới để được lòng VNCH. (One should not lose the whole world just to gain South Vietnam).
Lại họp với Lê Đức Thọ
Ngày 27-11 Laird (Bộ trưởng QP) nói: không thể để mọi việc tiến hành như thế này. Ông nhận xét như vậy vì đã họp với các Thượng nghĩ sĩ, Dân biểu tuần trước. Ông nhắc lại kết luận mà TT Nixon đã họp với Tham mưu trưởng liên quân, TT cho biết nếu Quốc hội họp trở lại (3-1-1973) có thể cắt viện trợ. Phía Mỹ đang đối diện với ác mộng về đàm phán trước khi Quốc hội nhóm họp (đầu năm) mà Hà Nội không chịu hợp tác .
Đám ký giả đông như kiến vây quanh căn biệt thự đàm phán, Kissinger tặng Xuân Thủy, Lê Đức Thọ món quà để bầu không khí êm dịu hơn, khi ông đưa ra 69 điểm đòi thay đổi (của miền Nam) sẽ khiến BV gây khó dễ khiến trở ngại tìm hòa bình trước phiên họp của Quốc Hội. Sở dĩ Kissinger đưa ra để tránh tai tiếng không quan tâm tới Sài Gòn và để lấy lòng ông Thiệu. Thọ phản đối nói nếu Mỹ đưa ra những khoản thay đổi này tức là muốn chiến tranh kéo dài thêm bốn năm nữa, Thọ đòi coi lại những đề nghị này đêm nay, thế là xong một ngày đàm phán không tiến bộ, thời hạn nay trở nên rất nguy hiểm.
Thọ bác bỏ những đề nghị sửa đổi này, còn đòi sửa lại những khoản họ nhượng bộ trước đây, đòi thả tù Mỹ trong khi VNCH phải thả tù VC. Thọ không còn là con người dễ chịu gần đây (tháng 10) mưốn ký kết sớm Hiệp định, lần này ông ta muốn kéo dài đàm phán vô thời hạn. Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến Nam-Bắc VN một thập niên và phải đối diện với sự xâu xé tại Mỹ. Thọ chơi trò mèo vờn chuột, vấn đề thay thế vũ khí bị Thọ làm khó khăn hơn, ông ta đòi thả tù VC tại Sài Gòn cùng với tù Mỹ, các nhân viên dân sự phải theo quân đội về Mỹ.
Tại Washington, liên hệ giữa Kissinger và Nixon căng thẳng, TT cho rằng buổi họp báo ngày 26-10 của Kissinger làm yếu thế đàm phán của Mỹ, ông cấm cung tại Camp David, chỉ có các chuyên viên đối ngoại., đưa ra một chỉ thị với nội dung (tóm lược)
“TT rất nản lòng vì cuộc đàm phán với Thọ vừa qua, ít ra họ cũng phải có thiện chí như ta. Tôi lệnh cho ông (Kissinger) chấm dứt đàm phán để có biện pháp mạnh về quân sự cho tới khi bên kia muốn đàm phán sẵn sàng . Họ muốn ta phải chấp nhận điều khoản của họ. Ông hãy cho họ biết là chúng ta sẽ có cách khác, Tổng thống Mỹ đã có hành động mạnh trước cuộc họp Thượng đỉnh (Moscow tháng 5-1972) và trước cuộc bầu cử. Nay bầu cử đã qua, ông TT sẽ có hành động cần thiết để bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ.”
Haldeman (Đổng lý văn phòng Bạch Cung) còn nhắn Kissinger khi đứng bênThọ không được cười thân thiện (TT không thích). Cuộc họp ngày 23-11 kéo dài sáu giờ, Kissingger chú trọng Khu phi quân sự để ngăn xâm nhập, Thọ nhượng bộ một nửa và gây khó khăn những khoản khác như tù binh Mỹ. Thọ nói sẽ rút một số lực lượng ở gần vĩ tuyến 17 để đổi lấy trao trả tù VC, ông ta không cho biết rút bao nhiêu quân. Kissinger đề nghị rút 100,000 người, Thọ bác bỏ. Kissinger cho là những điều khoản này cho thấy Hiệp định này còn thua Dự thảo tháng 10.
Ngày Thanksgiving, BV đãi bò, gà… Kissinger điện tín cho Nixon nói Thọ nhượng bộ một tí nhưng lại lấy bớt những khoản khác, Hiệp định tệ hơn Dự thảo tháng 10, tùy Tổng thống lựa chọn:
-Bỏ đàm phán, oanh tạc Bắc vĩ tuyến 20 hoặc
-Cải thiện Khu phi quân sự và vấn đề thay vũ khí (cho VNCH), đổi một số điều khoản cho Sài Gòn vui lòng, phần còn lại vẫn như Dự thảo tháng 10. Kissinger không biết Hà Nội có đồng ý chăng, chắc VNCH sẽ từ chối, ông ta không dám khuyên Nixon về hai sự lựa chọn vừa rồi và nghĩ “BV muốn ký sớm trước bầu cử 7-11, nay bầu cử đã qua, họ không cần nữa”
Tổng thống trả lời:
“Ngày 8-10 (BV nhượng bộ) có lợi cho ta, ta phải nhận thức là cố gắng ký Hiệp định như nguyên tắc ngày 8-10”
Nay Nixon lại muốn đốc thúc Sài Gòn hơn Hà Nội:
“Ông phải nói cho Sài Gòn biết nếu không ký Hiệp định được, Quốc hội sẽ cắt hết viện trợ quân sự, kinh tế, lúc đó không thể được Quốc hội ủng hộ nữa.”
Sáng hôm sau Nixon lại đổi ý, ông gửi một điện tín khác nói ngưng đàm phán, lấy cớ coi lại những nguyên tắc chính, sẽ có thể ông sẽ oanh tạc BV dữ dội. Kissinger không muốn vậy mà chỉ muốn oanh tạc Bắc vĩ tuyến 20 nếu Hòa đàm tan vỡ mà ta không đạt được. Nixon nói:
“Mục đích của chúng ta chấm dứt chiến tranh trong danh dự… nay bầu cử đã qua”
Ông muốn tùy Kissinger quyết định, ngày 23-11 được biết ông Thiệu cử ông Nguyễn Phú Đức (Phụ tá ngoại giao) đi Paris để giúp phái đoàn VNCH, Thọ chưa có chỉ thị (Hà Nội) và chưa thấy gì của Sài Gòn. Kissinger đề nghị với Thọ, Kissinger và Tướng Haig sẽ gặp họp với Thọ và Xuân Thủy, họ họp một giờ rưỡi ngày 24-11, Kissinger nói TT Nixon muốn làm mạnh xử dụng oanh tạc, nghĩa là ông từ chối những thay đổi khi Hiệp định yếu hơn trước.
Kissinger hy vọng NP Đức tới có thay đổi, chờ ông tới để quyết định nhưng ông chẳng mang được gì mới lạ, Nixon điện tín nói cho Đức biết thái độ của Quốc hội nhưng ông ta không thay đổi được chỉ thị (của ô Thiệu). Hai bên họp ngày 25-11, sau đó hẹn gặp lại 4-12. Thọ vẫn kiên trì, cứng rắn, có lẽ họ muốn Mỹ ép Sài Gòn chấp nhận Dự Thảo tháng 10 làm Sài Gòn mất tinh thần hoặc Quốc hội có thể ra luật chấm dứt cuộc chiến. Nixon lại đổi ý, ông biết là đàm phán tự nó không thể có kết quả tốt mà chỉ một sáng kiến, trừng phạt là có thể tiến bộ, cần bác bỏ đòi hỏi của VC đòi thả tù VC và dân sự Mỹ (phải về nước theo quân đội). Một điều rõ ràng là hai phía VN không thúc đẩy đàm phán lúc này, Mỹ cần tránh bế tắc và sẽ bị áp lực nào không
Những dấu hiệu cho thấy đàm phán tháng 11 không tiến triển, nhượng bộ của Hà Nội rất giới hạn, họ chỉ làm ra vẻ muốn ký kết. Thọ miễn cưỡng bàn về thủ tục, thời khóa biểu ký kết, Ủy ban kiểm soát đình chiến, Ủy ban Quốc tế… Thọ tránh né những vấn đề này và kéo dài đàm phán.
Kissinger về Mỹ, báo chí nhắc lại câu “Hòa bình trong tầm tay”. Đàm phán khủng hoảng có nguy cơ tan rã, Mỹ chấp nhận đề nghị của chính phủ Sài Gòn cử ông N P Đức sang Mỹ 29-11, ông này mang bức thư dài của Nguyễn Văn Thiệu gửi Nixon. Nếu Mỹ chấp nhận đề nghị của VNCH sẽ sụp đổ hết sự ủng hộ tại Mỹ, thế giới lại ép buộc Mỹ ngày một mạnh nhưng không ép buộc Hà Nội
NP Đức muốn hợp tác, không chống đối nhưng không có quyền đi quá lập trường ông Thiệu, ông ta không nhượng bộ Kissinger. Nixon nói với NP Đức nếu không có Hiệp định sẽ không có viện trợ, ông nói sẽ gặp Thiệu để xác định ông sẽ tiếp tục ủng hộ sau khi ký Hiệp định, phải hợp tác với nhau để có viện trợ kinh tế, quân sự, bảo đảm cưỡng bức thi hành Hiệp định. Nixon nói với NP Đức nếu thất bại không ký được Hiệp định, Quốc hội có thể cắt viện trợ giữa tháng giêng.
Sáng 30-11 Nixon nói đã gặp Bộ trưởng quốc phòng Laird và TMT liên quân, Laird cho là Quốc hội sẽ cắt tất cả các viện trợ.
Kissinger gửi văn thư cho Hà Nội ngày 27-11 nói ngày 4-12 sẽ cố gắng giảm oanh tạc BV, TT Nixon theo lời khuyên của Kissinger đã giảm 25% các phi vụ, có lẽ đó là một sai lầm, BV đáp ứng rất yếu, họ chỉ trích trắc trở là do Mỹ ngụy, phía Mỹ trả lời:
“Việc ký kết nhanh hay kéo dài sẽ có hiệu quả không ngờ, Mỹ cố gắng tối đa nhưng cần có sự cố gắng của VNDCCH”
Quốc hội Mỹ bắt đầu tức giận với hai phía VN.
Hội nghị tháng 12, Hòa đàm tan vỡ
Kissinger điện tín cho Lê Đức Thọ đề nghị mật đàm, Hà Nội đồng ý. Thọ kết án Mỹ liên kết với bù nhìn VNCH, chỉ trích không thả tù VC đã thỏa thuận từ tháng 10, Thọ nói BV không sợ áp lực quân sự
Kissinger nói : “Các ông đã đề nghị ngày 8-10, tôi đã nói sẽ đi Sài Gòn thảo luận và sẽ gặp lại hai, ba tuần sau đó, chúng ta đã thảo luận ba năm, chậm vài tháng có gì đâu, ông kết án chúng tôi không đáng tin cậy là xúc phạm. Chúng ta đã làm xong gần hết, không có gì bàn lại, tuần này sẽ ký, nếu không sẽ không bao giờ hoàn tất được. Chúng ta chỉ có hai cách một là hòa bình, hai là chiến tranh, chúng tôi muốn hòa bình
Kế hoạch của Kissinger là giải quyết những vấn đề trong hai ngày nghĩa là tới chiều 5-12, buổi sáng khi Kissinger và Thọ kết thúc ký kết, Phó TT Agnew và Tướng Haig sẽ đi Sài Gòn để thuyết trình ông Thiệu, trong 48 tiếng Mỹ sẽ ngưng oanh tạc BV, sẽ ký Hiệp định hạn chót là 22-12
Thọ nói tràng giang đại hải, không thay đổi lập trường, ông ta kêu gọi Kissinger cố gắng nhiều mà Thọ thì chẳng cố gắng tí nào, sau đó Thọ lại bác bỏ hết những nhượng bộ, rút lại tất cả những nhượng bộ từ tháng 11, đòi đổi tất cả những khoản đã thỏa thuận từ tháng 10.
Kissinger báo cáo Tổng thống
“Hắn bác bỏ những đề nghị thay đổi của Mỹ, đòi thay đổi vấn đề tù dân sự (VC), đòi chuyên viên Mỹ phải rút hết khỏi VN (Không quân VN sẽ không bảo trì được), hắn rút lại những nhượng bộ vài tuần trước. Hiệp định còn tồi tệ hơn lúc bắt đầu. Hắn đòi trở lại Dự thảo tháng 10, nghĩa là hai bên không thay đổi gì cả”
Kissinger cho là BV muốn phá Hòa đàm và nói với TT Nixon:
“BV cho là ta bất lực, Mỹ bất hòa với VNCH, bị trong nước chống đối, nếu họ chịu ký tôi sẽ thỏa thuận những điều kiện chấp nhận được”
Trong khi ấy Nixon sẵn sàng xử dụng B-52 oanh tạc Hà Nội, Hải Phòng trước cuộc đàm phán 6-12, Kissinger gửi điện tín cho TT nói hiện còn sớm để dùng sức mạnh. Ngày 6-12, Kissinger điện tín cho Haldeman nói nếu 48 tiếng đồng hồ sau không có thỏa thuận, như vậy đàm phán không có kết quả, ta có thể nhượng bộ hay vận động dân ủng hộ. Nga khuyên Mỹ kiên nhẫn, BV sẵn sàng ký trong 48 giờ nữa trong khuôn khổ tháng 10, ngày 6-12 đàm phán không có gì thay đổi, hai bên coi lại lập trường của mình, Thọ không muốn thỏa thuận. Hôm sau 7-12 coi như thất bại, bên nào cũng chờ bên kia nhượng bộ, Kissinger báo cáo Nixon cho biết có thể hòa đàm tan vỡ, có lẽ cần phải can thiệp (quân sự). Tướng Haig cho biết Phó TT Agnew sẽ đi Sài Gòn nếu hôm sau có khai thông
Kissinger muốn tạm ngưng đàm phán về Mỹ để hỏi ý kiến Nixon, Hà Nội vờ vĩnh đàm phán, họ muốn dồn Mỹ vào góc tường, Thọ từ chối không cho các chuyên gia bàn thủ tục ký Hiệp định, đó là cách không kết thúc đàm phán thỏa thuận, họ cho là Hà Nội trên cơ Mỹ.
Thọ làm ra vẻ như sắp thỏa thuận để tránh không bị Mỹ dùng võ lực. Nixon nói ám chỉ câu Hòa bình trong tầm tay (Peace is at hand) của Kissinger và trách vì câu này khiến người dân không ủng hộ ta nữa.
Ngày 10-12, Nixon gọi cho Đại sứ Nga và nói giúp đưa Hà Nội trở lại lập trường Khu phi quân sự tháng 11, sau lại nói Agnew đi Sài Gòn và giửi chỉ thị cho Kissinger nói: “Giữ vững lập trường về Khu phi quân sự. Ngày 11-12, Thọ không muốn ký kết ít ra là vòng này, hắn từ chối ký thủ tục ký kết, không muốn bàn về thủ tục rõ ràng, không muốn ký Hiệp định hôm nay, hay ngày mai
Kissinger báo cáo TT Nixon:
“Ngày mai không ký được, Hà Nội cho là ta không tiếp tục chiến tranh vì bị dân chống đối trong nước và trên thế giới mong đợi hòa bình, chúng chỉ hy vọng Mỹ-VNCH tan rã. Giáng sinh khiến ta không oanh tạc BV được, không hy vọng gì có Hiệp định, Tông thống phải hiểu là Hiệp định dưới tình thế này sẽ đưa tới sụp đổ miền Nam VN”
Tổng thống khuyên Kissinger ráng kiên nhẫn chờ ký thỏa thuận và cho báo chí biết nếu Tổng thống quyết định ném bom địch, trước khi Kissinger gặp Thọ, VNCH bác bỏ những điều khoản Dự thảo. Kissinger phục Nixon bị áp lực hàng nghìn kẻ thù và bị đồng minh duy nhất (Sài Gòn) ép buộc, ông Thiệu chứng tỏ là người QG chân chính không phải bù nhìn. Nixon gửi cho Kissinger một điện tín để đọc cho Thọ nghe: Mỹ sẽ không bao giờ nhượng bộ thêm. Sullivan và Nguyễn Cơ Thạch gặp nhau buổi sáng, BV từ chối làm sơ thảo thủ tục và giữ quyền vượt Khu phi quân sự, Thọ đồng ý gặp một lần nữa hôm sau.
Ngày 12-12 Kissinger báo cáo: BV mỗi ngày một tỏ ra không muốn ký kết, để ta không có cớ dùng áp lực quân sự, chúng giả vờ kéo dài, có lẽ ta cần áp lực mạnh (oanh tạc).
Ngày 13, ngày cuối, cuộc đàm phán dài nhất đã qua, mỗi ngày thấy thỏa thuận một xa vời kể từ 4-12 tới nay (13-12), BV không cho Hiệp định thành hình kết thúc, chúng cù cưa, kéo dài…
Hà Nội cho là quan hệ Mỹ-VNCH tan vỡ, Quốc hội họp trở lại (đầu tháng 1-73) là điều đáng sợ cho Hành pháp hơn Quốc hội cũ
Kissinger đánh điện chót từ Paris
“Hà Nội coi thường ta, cho là ta không còn cơ hội áp lực quân sự, Sài Gòn thiển cận phá Hiệp định, nếu không ký kết được khi trong nước đang áp lực ta khó có Hiệp định và lấy tù binh về, ta sẽ không giữ được miền nam VN”
Ta phải áp lực mạnh, oanh tạc mạnh, phong tỏa hải cảng, oanh tạc nhà máy điện hai ngày, xử dụng B-52, áp lực Sài Gòn để họ không chống ta, không nhượng bộ họ. Sau đó hẹn gặp Thọ đầu tháng 1-1973, có thể Thọ có chỉ thị mới, nếu gặp trở ngại sẽ phải áp lực Hà Nội, ta sẽ chỉ trích hai miền Nam, Bắc VN nhưng chủ yếu là BV
Sau đó đề nghị rút, kết thúc oanh tạc, đổi tù binh sau đó tới phiên VNCH nếu thất bại sẽ ký riêng với BV.
Trận oanh tạc Giáng sinh
Người ta thường cho là oanh tạc Giáng sinh là trận tàn phá dữ dội, độc ác, không mục đích. Sự thật tháng 12, Hà Nội cố tình kéo dài chiến tranh nên Nixon phải trở lại biện pháp quân sự. Tháng 12 1972 là một bi kịch, từ đầu đến cuối cuộc chiến đều có chia rẽ, nếu ta không quyết định thì Nam, Bắc VN sẽ đi xa hơn.
Cuộc đàm phán tháng 12 đã được Kissinger đề nghị với TT Nixon áp lực quân sự nếu muốn chấm dứt chiến tranh, Kissinger khuyên TT nên giải thích cho dân Mỹ biết nguyên do bế tắc và xử dụng vũ lực sau đó, nếu BV đã chấp nhận về Khu phi quân sự thì có lẽ Nixon đã đồng ý ký, ông chưa muốn oanh tạc và mở rộng chiến tranh
Hà Nội tham lam quá, họ biết Mỹ và VNCH bất hòa, tin là Quốc hội sẽ ra luật (chấm dứt chiến tranh) đầu tháng 1-1973, họ sai lầm khi dồn Nixon vào chân tường (The North Vietnamese committed a cardinal error in dealing with Nixon: They cornered him trang1447). TT Nixon trở nên nguy hiểm khi ông không còn đường lựa chọn, ông không muốn nhiệm kỳ hai cũng bị thương tổn như trước. Haig cũng có quan điểm cho rằng BV đã gây trở ngại cần áp lực quân sự mạnh, khi Kissinger về Mỹ ngày 13-12, Tướng Haig nói cần oanh tạc bằng B-52 cho mạnh.
Nixon, Kissinger, Haig họp sáng 14-12, không có lý do gì chờ BV đàm phán thuận lợi khi họp vào tháng 1-73, BV sẽ khinh rẻ Mỹ, nếu Sài Gòn không nhượng bộ, Quốc hội sẽ cắt hết các ngân khoản. Kissinger cho biết trong chính phủ không ai đồng ý xử dụng quân sự vì Quốc hội, truyền thông sẽ la lớn, Bộ trưởng QP Laird chống biện pháp quân sự. Tại cuộc họp ở phòng bầu dục ngày 14-12, mọi ngưởi đồng ý biện pháp quân sự, Kissinger muốn dùng máy bay chiến thuật tại các khu đông dân cư, Haig muốn oanh tạc B-52 vì phải đánh thật mạnh địch mới sợ và chịu trở lại bàn Hội nghị.
Nixon chọn kế hoạch cho oanh tạc ồ ạt bằng B-52, pháo đài bay không phụ thuộc vào thời tiết, Kissinger cảm phục Nixon nhưng buồn vì ông không lên TV, ông ra lệnh cho gài mìn ngày 17-12 và oanh tạc ngày 18. Trận oanh tạc này gây kinh hoàng cho BV, nó là canh bạc cuối cùng của TT Nixon cũng như trận Tổng tấn công tháng 3-72 của Hà Nội là ván bài chót của địch (The B-52 bombing was in these sense his last roll of the dice, as the March offensive had been Hanoi’s, trang 1449). Nixon muốn áp dụng biện pháp quân sự thật mạnh nhưng đàm phán thật nhẹ nhàng, ngược lại Kissnger thì muốn đàm phán cứng rắn và quân sự mềm dẻo, chỉ có lần này ông ta đồng ý với Tổng thống
Báo chí chỉ trích Nixon oanh tạc BV tàn bạo, đó là một điều xấu hổ trên trái đất, ném bom dã man dưới danh nghĩa vì hòa bình. Quốc hội chỉ trích tuy thầm nhẹ nhưng mạnh hơn. Họ cho là Nixon không cón lý trí, chiến thuật đồ đá, người dân bị lừa, chiến tranh dữ dội hơn. Âu châu lên án mạnh, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Bỉ…chống đối dữ dội. Các nước Âu châu, NATO không ai ủng hộ Mỹ. Nga, Tầu lên án chống Mỹ. Thái Lan, Đại Hàn ủng hộ Mỹ. Nam Dương, Mã Lai không chống Mỹ, Sài Gòn dĩ nhiên vui thích
Một nhà sử gia nói.
“BV nói khoảng từ 1,300 tới 1,600 người bị giết mặc dù đã di tản nhiều, cuộc oanh tạc Đức, Nhật hồi Thế chiến Thứ hai giết hàng chục ngàn. Đông Đức ước lượng có 35,000 người chết trong cuộc oanh tạc DresDen tháng 2-1945, ngày 9-10, oanh tạc Tokyo làm cháy nhà ngày 9, ngày 10-2-1945 khoảng 83,793 chết và 40,918 bị thương. Báo Kinh tế Luân đôn nói sổ tử thương của Hà Nội rất nhỏ so với số bị BV pháo kích tại An Lộc hoặc số đồng bào chạy loạn trên đường Quảng Trị tháng 5-1972, ngoài ra một phần do 1,000 hỏa tiễn BV bắn lên rớt xuống giết nhiều người”
New York Times nói BV phóng đại. Giữa Nixon và Kissinger có sự rạn nứt, TT cho người theo dõi những cuộc điện thoại của Kissinger, nếu đàm phán thất bại, Kissinger sẽ từ chức ngay, nếu thành công sẽ từ chức cuối 1973.
Đàm phán trở lại
Sáng 18-12, Mỹ gửi văn thư cho Hà Nội kết án họ gây trở ngại đàm phán và đề nghị họp ngày 23-12, Mỹ cũng sẵn sáng họp ngày 26 là ngày tấn công B-52 dữ dội nhất. BV nói ngưng oanh tạc sẽ đối thoại và nói Thọ không thể họp trước ngày 8-1-1973 vì bị bệnh, họ nói rất lễ phép muốn ký Hiệp định. Nixon muốn họp trước ngày Quốc hội họp trở lại (3-1-1973), hôm sau BV nói sẵn sàng họp trở lại nếu ngưng oanh tạc, Kissinger đề nghị Nixon ngày 2-1-1973 sẽ họp kỹ thuật (thủ tục ký kết), Thọ và Kissinger sẽ đàm phán ngày 8-1 nhưng TT muốn họp (ngày 2) trước khi Quốc hội họp trở lại ngày 3-1, Mỹ đề nghị ngưng oanh tạc trong 36 tiếng.
Ngày 29-12 Kissinger gửi điện tín cho Hà Nội nói ngưng oanh tạc lúc 7 giờ tối, ngày 30 Mỹ tuyên bố ngưng oanh tạc. Kissinger tuyên bố Mỹ đã thắng ván cờ và sẽ thành công phiên họp tiếp theo sau (I was positive we had won our gamble and that the next roud of negotiations would succeed…trang 1459)
Lại đến VNCH, TT Nixon không đồng ý với ông Thiệu, Kissinger soạn văn thư cho Tướng Haig đi Sài Gòn. Nixon cho biết không muốn Thiệu hiểu lầm cuộc oanh tạc này là biểu hiện Mỹ muốn tiếp tục chiến tranh với BV, trong đoạn chót bức thư Nixon nói:
“Tôi cử Tướng Haig sang Sài Gòn để hỏi sự đồng ý của ông, ta cùng hợp tác ký kết hoặc chúng tôi sẽ ký riêng. Xin nói cho ông biết, Haig sang Sài Gòn không phải để thương lượng với ông. Giờ là lúc chúng ta cùng hợp tác đàm phán với kẻ địch. Ông phải quyết định hoặc muốn cùng hợp tác hay muốn chúng tôi ký với Hà Nội vì quyền lợi riêng của Mỹ
Ngày 19-12, Tướng Haig tới Sài Gòn gặp ông Thiệu, ông chỉ muốn gặp riêng Thiệu, không gặp HĐANQG, ông Thiệu biết đây là tối hậu thư và sẽ trả lời hôm sau. Haig đồng thời đi thăm Lon Lol. Hôm sau 20-12, ông Thiệu trả lời Tướng Haig, ông này điện tín cho Kissinger nói Sài Gòn rút những chống đối các khoản chính trị nhưng không chấp nhận BV còn ở lại. Tướng Haig, Kissinger khuyên Nixon ký riêng với BV nếu VNCH không hợp tác, Mỹ sẽ ký riêng để lấy tù binh.
Vòng đàm phán tháng Giêng
Ngày 2-1-1973 Hạ viện Dân chủ bầu nội bộ với tỷ lệ 154/75 để cắt hết các khoản viện trợ cho các hành động quân sự tại Đông Dương (của chính phủ) để quân Mỹ rút an toàn, lấy tù binh, Quốc hội dọa bỏ Việt, Mên, Lào. Ngày 4-1, Thượng viện Dân chủ bầu nội bộ tỷ lệ 36/12. Hà Nội không thể chờ Quốc hội cắt viện trợ nên vội đàm phán.
Hai bên đàm phán kỹ thuật, thủ tục ký kết ngày 2-1, đại diện Mỹ Sullivan, đại diện BV Nguyễn cơ Thạch. Sullivan cho biết cái trò kéo dài trong tháng 12 không chấp nhận được. Khi mới họp BV kết án ném bom, sau đó không nhắc lại, phía Mỹ cho biết đại diện BV nhớn nhác, nhục nhã. Hôm sau Thạch và Sullivan họp với nhau.
Ngày 4-1 TT Nixon họp Roger, Kissinger, Moorer, Laird. Ông nói về truyền thông đạo đức giả. Ngày 5-1, TT Thiệu và TT Nixon thư từ với nhau:
“Tôi chỉ xin nhắc lại là VNCH chỉ tồn tại nếu có sự thống nhất hai nước (Mỹ-VNCH), sẽ bị tổn hại nếu ông tiếp tục con đường (chống Hiệp định) như vậy. Quốc hội mới bầu trở lại họp khóa đầu đã cảnh báo ta những chuyện đã làm. Tôi tin là ông quyết định hợp tác với chúng tôi, tôi xin hứa bảo đảm giúp đỡ sau khi ký Hiệp định và sẽ trả đũa tối đa nếu địch vi phạm một lần nữa, xin ông hợp tác chúng tôi”.
Ông Thiệu trả lời mơ hồ, ngày 7-1 ông không nói ủng hộ Mỹ nhưng không nói chống ký như trước. Ngày 6-1 TT Nixon và Kissinger họp tại Camp David để xét lại chiến lược và thúc dục Kissinger ký điều khoản nào cũng được, ký những điều khoản tháng 10 cũng được. Thọ tới Paris tuyên bố cố gắng ký sớm và không thay đổi Dự thảo tháng 10. Vì thế ngày 8-1 Kissinger gặp Thọ, cả hai bên đều nói đây là vòng cuối đàm phán. Ngày đầu kéo dài 4 giờ rưỡi, Kissinger báo cáo Nixon: có thể họ sẽ gây khó khăn như tháng 12, sáng mai sẽ gặp nhau, hy vọng sáng sủa hơn. Phiên hôm sau 9-1 có khai thông, Thọ đề nghị Nguyễn Cơ Thạch làm việc toàn ngày về mặt thủ tục, không can dự đàm phán, Kissinger đồng ý.
Thọ nói: “Để chứng tỏ chúng tôi có thiện chí, tìm giả pháp….dĩ nhiên hai bên cần nhượng bộ, nếu bên nào cũng khăng khăng sẽ không ký được, ông đồng ý không?”
Kissinger báo cáo Nixon: Chúng ta đã tiến bộ trong việc ký kết nhưng nói chung đàm phán tiến tới (Dự thảo) tháng 10. Nhờ Nixon cứng rắn và BV thấy ông không bị áp lực của Quốc hội và người dân nên đã được như vậy”
Nixon nói “Cám ơn quà sinh nhật (đúng ngày sinh nhật Nixon 9-1) và báo cáo, nếu họ giữ thỏa thuận và không bỏ dịp ngày mai, cái ông làm hôm nay là quà sinh nhật tốt đẹp nhất từ 60 năm qua của tôi”.
BV và VC ký trong một trang, trang kia Mỹ và VNCH, đàm phán khởi đầu 1968 với tranh cãi về cái bàn, kết thúc 1973 với tranh cãi cùng một vấn đề. Thọ đồng ý ngưng bắn bên Lào mười lăm ngày sau ngưng bắn tại VN, chỉ riêng nước Miên cam kết nói miệng không ghi trong Hiệp định.
Thọ nói về khó khăn của BV đối với Khmer đỏ: Tôi đã nói nhiều lần chúng tôi muốn hòa bình ở VN, Lào và Miên nhưng khi bàn thảo với Miên khó hơn với Lào. Tôi xin cam kết tái lập hòa bình ở VN, Lào sẽ tạo điều kiện ở Miên, khi VN, Lào đã hòa bình, chúng tôi không muốn chiến tranh ở nơi khác (như Miên)
Đàm phán tháng 12 Mỹ bị cả hai miền Nam, Bắc VN thù ghét, Kissinger biết là Mỹ sẽ phải đương đầu với VNCH phía trước mặt. Ông ta và các đồng nghiệp Sullivan, Winston Lord, John Negroponte, Engel, Rodman.. làm việc 15 giờ một ngày, họ làm tới cùng. Bốn mươi tám tiếng sau sẽ ngưng oanh tạc toàn diện, khoảng 18-1 sẽ thông báo Kissinger trở lại Paris để ký tắt Hiệp định. Ngày 13-1 bản Dự thảo hoàn thành, hai bên Mỹ và VN cùng ăn trên một bàn. Cuộc thảo luận từ 20-11 có thay đổi một số điều khoản, chính phủ VNCH mãi tới 20-1 mới chịu đồng thuận với Mỹ (không chống ký kết). Hội Đồng hòa giải không được ghi trong Dự thảo, nhiệm vụ của HĐ bị giảm quyền. Một điều khoản ghi thêm là các bên không được dùng Miên để xâm lấn các nước khác. Bộ máy Quốc tế kiểm soát đình chiến lên tới 1,160 người sẵn sàng hoạt động khi vừa ký xong Hiệp định, những thủ tục cơ bản để bổ sung Hiệp định đã ký xong.
Phải mất ba tháng, thay đổi khoảng 20 điều khoản và dọa cắt viện trợ để ông Thiệu không chống Hiệp định để đồng thuận với Mỹ. Hòa bình, Mỹ rút về là một vết thương cho miền nam VN. Bi kịch tháng 12 (oanh tạc) trách nhiệm và lỗi về Hà Nội. Ký kết gần xong thì Hà Nội đã quyết định ngưng đàm phán, cho tới nay Kissinger nói vẫn không hiểu rõ nguyên do (trang 1468).
Ông Thiệu dịu giọng
Kissinger về Mỹ ngày 13-1-1973 và báo cáo TT từ nửa đêm cho tới 2 giờ 30 sáng. Kiểm điểm lại đàm phán, mặc dù ông không vui vẻ với vài hành động của TT Nixon dành cho mình, tới nay ông đã cảm thấy chút tình cảm. Hai người nói chuyện thân thiện. Ngày 14-1 Haig đi Sài Gòn với tối hậu thư của Mỹ có thể ký riêng với BV mà không cần VNCH. Ngày 15-1 Tòa Bạch Ốc sẽ loan báo chấm dứt oanh tạc, ngày 18-1 sẽ thông báo Kissinger trở lại Paris ngày 23-1-1973 để hoàn tất Hiệp định (ký tắt). Chiều hôm ấy TT Nixon sẽ nói cho toàn quốc biết các nhà ngoại giao sẽ ký chính thức ngày 27-1 tại Paris. Cái mà ta đã phấn đấu, cầu nguyện, hy vọng và có lẽ cả thù ghét- đó là chấm dứt sự can thiệp, lấy lại hòa bình –nó sắp được tổ chức, cử hành.
Nhưng phía Mỹ chưa được Sài Gòn đồng thuận, TT Nixon quyết định cử Tướng Haig ngày 16-1 đưa thư của TT Nixon cho ông Thiệu, thư liệt kê những cái lợi của Hiệp định và kê khai những thay đổi đã được thương lượng từ tháng 11, 12 (sơ lược)
“Tôi quyết định cho ký tắt ngày 23-1 và ký chính thức ngày 27-1 tại Paris, nếu cần đơn phương. Trong trường hợp này tôi sẽ tuyên bố chính phủ của ông cản trở hòa bình, kết quả không thể tránh được là nước Mỹ sẽ cắt hết viện trợ kinh tế, quân sự cho VNCH. Tôi hy vọng sau cùng hai nước chúng ta đã cùng chia xẻ trong cuộc chiến, sẽ cùng gìn giữ và an hưởng thái bình”
Tướng Haig được lệnh đòi Thiệu phải trả lời chiều 17-1, ông ta chưa nhượng bộ, vẫn than phiền Hiệp định còn thiếu cân bằng, BV vẫn còn ở lại nên ông có bổn phận phải chống đối (Haig nghĩ vậy). Hôm 17-1 ông Thiệu đưa thư cho Tướng Haig nhờ nói TT Nixon sửa chữa một số khoản về nghi thức ngoại giao. Vô ích, ông Thiệu phải biết rõ, Dự thảo đã đông cứng rồi, không có đàm phán nào nữa, TT Nixon trả lời ngay trong ngày. Bức thư cũng giống như thư cũ và đe dọa như trước: đòi trả lời sáng 20-1 – ngày nhậm chức – khi Haig trở lại Sài Gòn sau khi đi Miên, Lào. Nếu ông không trả lời coi như từ chối ký, Chính phủ Việt Nam sẽ chịu trách nhiệm về hậu quả của nó (The responsibilitiy for the consequences rests with the Government of Vietnam, trang 1470).
Ngày 18-1, TNS John Stennis, Goldwater cảnh cáo Hành pháp nếu Sài Gòn cản trở Hiệp định sẽ tai hại cho tình hình Mỹ-Việt. Hôm 20-1 ông Thiệu cử Bổ trưởng Trần Văn Lắm đi Paris để tham gia đàm phán cuối cùng, nghĩa là ông ta thuận ký, ông Thiệu vẫn đòi sửa đổi một chút. TT Nixon phải bác bỏ và muốn ông Thiệu phải đồng ý trưa hôm sau nếu không ông sẽ nói cho các vị lãnh đạo Lập pháp biết là ông ta không thuận ký.
Ngày 21-1, ông Thiệu nhượng bộ chỉ đòi sự xác nhận song phương Mỹ-VNCH rằng Mỹ chỉ nhìn nhận VNCH là chính phủ hợp pháp của miền nam VN và BV không có lý do đóng quân ở đấy. Kissinger tin tưởng Sài Gòn đủ sức đương đầu với du kích và vi phạm nhỏ, đe dọa can thiệp của Mỹ sẽ khiến BV không dám vi phạm lớn, theo lời Kissinger, Chính phủ Mỹ muốn một nền hòa bình lâu dài, nếu không có Watergate, họ đã giúp được VNCH.
Sau cùng là hòa bình, Peace at last, Kissinger dự lễ nhậm chức của Nixon nhiệm kỳ hai vào ngày 21-1, hôm sau 22 đi Paris để ký tất với Thọ, Sullivan và Nguyễn Cơ Thạch đã duyệt lại bản văn mấy ngày liền. Khi ông ta tới Paris được tin cựu TT Johnson chết hôm 23, cuộc họp bắt đầu 9 giờ 35 sáng thứ ba 23-1, Thọ nhắc Mỹ viện trợ tái thiết, Hiệp định đã ký không bàn gì thêm được vả lại còn tùy Quốc hội chấp nhận
Lê Đức Thọ nói (tóm tắt):
“Thưa ông Cố vấn, chúng ta đã thương thuyết gần 5 năm, tôi có thể nói đây là không khí mới của chúng ta, đây là viên đá đầu tiên cho mối liên hệ hai nước mặc dù ngày ký chính thức trong vài ngày nữa. Tái lập hòa bình là ước vọng của nhân dân Việt-Mỹ và của cả thế giới.
Nay chúng ta xong nhiệm vụ, tôi xin nói với chính phủ ông qua ông và ông nói với chính phủ tôi qua tôi, chúng ta không thể quên cái ngày lịch sử này, vì cả một quãng đường dài và khó khăn mà chúng ta đã vượt qua. Đây là một điều khiến tôi và ông mãn nguyện và Hiệp định sẽ được chính thức ký kết vài ngày sau. Chúng ta sẽ xúc tiến Hiệp định, tôi nghĩ chúng ta cũng làm như nhau để hòa bình tồn tại ở VN và Đông Nam Á”
Kissinger đáp:
“Thưa ông Cố vấn đặc biệt, hai dân tộc chúng ta đã chịu nhiều đau khổ, tàn phá, tôi và ông đã được hân hạnh chấm dứt cuộc chiến. nhưng nhiệm vụ của chúng ta chưa chấm dứt trừ khi chúng ta đem lại hòa bình lâu dài cho các dân tộc Đông Dương và hòa giải giữa nhân dân VNDCCH và nhân dân Mỹ. Tôi xin hứa sẽ xúc tiến thi hành Hiệp định, hơn thế chúng ta cần cải thiện liên hệ hai nước, tôi nghĩ chúng ta sẽ có bổn phận về phương diện này. Tôi hy vọng nó đánh dấu tình hữu nghị giữa hai dân tộc.”
Sau đó Thọ và Kissinger ra ngoài đường bắt tay, Kissinger ăn trưa với Trần Văn lắm, ông Lắm can đảm, uy tín không nhắc chuyện cũ. Cuộc chiến VN của Mỹ chấm dứt.
Bản nhạc kết thúc
Ngày 23-1 Kissinger về lại Mỹ lúc 6 giờ 30 chiều, TT Nixon tuyên bố ngưng bắn và ký Hiệp định Paris, TT tường trình các Chủ tịch Ủy ban Quốc hội tại Cabinet room, phòng Nội các. Hơn hai triệu người Mỹ đã tham dự tại phần đất xa xôi, mấy trăm ngàn người đã bị thương, 45,000 người đã bỏ mình tại đây (chưa kể hơn 10,000 đã chết vì những lý do khác). Gia đình họ có chút hãnh diện vì nó không phải vô ích. Những người chống đối cuộc chiến nay đã toại nguyện, các dân tộc Việt-Miên-Lào có lẽ sẽ được hưởng sự yên lặng, an toàn, tiến bộ, một tương lai xứng đáng với sự hy sinh.
…Mỹ đã làm dịu căng thẳng với các nước thù nghịch, Hành pháp Mỹ nay quyết thực hiện năm 1973 là năm của châu Âu và Nhật. lúc một giờ chiều, TT Nixon nói ông đã cống hiến cho cựu TT Lyndon Johnson, người đã ước mong cái ngày này và xin dân Mỹ hãy thực hiện niềm hòa bình lâu dài mà ta được hưởng.
Mỹ, VNCH, VNDCCH, VC ký chính thức Hiệp định ngày 27-1-1973.
Nhận xét
Xin sơ lược từ đầu: Ngày 18-10-1972 Kissinger sang Sài Gòn để thuyết phục chính phủ VNCH chấp thuận bản Dự thảo Hiệp định tháng 10 nhưng đã bị chống đối dữ dội. Ngày 23-10, Kissinger về Mỹ, ba ngày sau 26-10 ông họp báo tuyên bố “Hòa bình trong tầm tay” mục đích tiết lộ sự thật về Dự thảo vì Hà nội đã công bố trước. Sau đó cuộc thương thuyết ngày một bế tắc, Hà Nội muốn ký Hiệp định cuối tháng 10, trước ngày bầu cử Tổng thống, nay bất thành nên họ phá hòa đàm tháng 11, 12 bằng cách kéo dài thương thuyết. Họ tin là TT Nixon không dám làm mạnh, nhưng đã tính sai nước cờ khi cho rằng phá hòa đàm để hy vọng Quốc hội mới bầu họp đầu năm (3-1-1971) sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh. Hà Nội tưởng khi ấy bất chiến tự nhiên thành, Hành pháp Mỹ sẽ bị buộc phải rút quân về nước, miền nam VN sẽ tan rã vì các khoản viện trợ quân sự bị cắt bỏ hết.
Mẹo vặt của Hà Nội đưa tới cơn thịnh nộ của Nixon được thể hiện qua trận oanh tạc long trời lở đất cuối năm 1972, nó đã buộc BV phải trở lại bàn Hội nghị, nghiêm chỉnh đàm phán. Giải quyết xong trở ngại từ miền Băc, nay TT Mỹ lại phải đương đầu với sự phản đối của miền nam VN, ông Thiệu đòi Hà Nội phải rút hết quân hết về Bắc. Ông ta gan lỳ chống đối cho tới giờ thứ 25 mới chịu nhượng bộ.
Mặc dù ông Thiệu chống đối gây khó khăn cho TT Nixon nhưng dù ghét cay đắng VNCH, ông cũng có chút hài lòng vì nó cho thế giới thấy miền nam VN không phải bù nhìn như người ta thường kết án Mỹ. Sau khi Nixon nhậm chức nhiệm kỳ hai (21-1) sáu ngày thì Hiệp định Paris mới được ký kết (27-1). Khi tranh cử ông hứa sẽ mang lại hòa bình trong nhiệm kỳ của mình nên phải gấp rút ký cho xong, ngoài ra Quốc hội và người dân đốc thúc Hành Pháp phải sớm tìm hòa bình.
Nhận xét về Hiệp định có nhiều cách nhìn khác nhau, có người khen Nixon can đảm chịu đựng chống đối của mọi phía trong nước và cả ở ngoại quốc, cũng có nhận định cho là ông và Kissinger đã nhượng bộ Hà Nội nhiều
Tác giả Marvin Kalb và Bernard Kalb nhận xét trong cuốn Kissinger: mỗi bên được một phần, không bên nào đòi được hết: Nixon lấy được tù binh về, Lê Đức Thọ đòi được Mỹ rút, Nguyễn Văn Thiệu vẫn làm Tổng thống (không bị ép từ chức), Chính phủ Cách mạng lâm thời (VC) có tư cách chính trị chính thức. (1). Cũng trong cuốn này, trang 421Tác giả Kalb chỉ trích Hiệp định không hơn gì bản Dự thảo tháng 10 trước đây ba tháng mà hai bên định ký vào cuối tháng 10
Negroponte phụ tá của Kissinger chỉ trích bằng giọng mỉa mai cho rằng người Mỹ oanh tạc BV để bắt họ phải chấp nhận nhượng bộ của ta” (We bombed the North Vietnamese into accepting our concessions) (2). Nhiều người trong Ban Tham mưu của Kissinger, Nixon cho rằng trận oanh tạc dữ dội bằng 20,000 tấn bom cuối cùng không ký được một Hiệp định tốt đẹp hơn, không đuổi được CSBV về phía trên Khu phi quân sự.
TT Nixon giải thích trong hồi ký (3), xin tóm lược như sau:
Sự tồn tại của VNCH không phụ thuộc vào việc Cộng quân còn đóng tại một số vùng mà phụ thuộc vào việc Mỹ có cưỡng bách thi hành Hiệp định hay không (enforce the agreement), Mỹ có tiếp tục viện trợ hay không. Nếu ta không giải quyết cuộc chiến nhanh có thể Quốc hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh vì cho là miền nam VN cản trở hòa bình. Nixon tin tưởng Quốc hội sẽ thuận cho Hành pháp được cưỡng bức thi hành Hiệp định, có nghĩa là dùng áp lực quân sự để trừng phạt địch nếu họ vi phạm lớn, nhất là xử dụng pháo đài bay.
Ông Nguyễn Phú Đức, Phụ tá ngoại vụ TT Thiệu đã hỏi Sullivan, Đại sứ Lào (1964-69) về việc Cộng quân vi phạm thỏa ước Lào, ông ta trả lời: Hiệp định chỉ là mảnh giấy, mực trên tờ giấy không quan trọng bằng sắt thép và hỏa lực của B-52 Mỹ (4). TT Nixon cũng có quan niệm như vậy, ông cho là giấy mực của Hiệp định Paris không là gì cả, chỉ có bom đạn của B-52 mới đáng kể. Dù BV còn đóng quân tại một số vùng gần biên giới, nếu ông được Quốc hội ủng hộ cho phép cưỡng bức thi hành Hiệp định thì BV dành bó tay thúc thủ.
Ông Thiệu quá sợ hãi khi biết địch vẫn còn đóng quân tại gần Khu phi quân sự nhưng không phải là vấn đề to lớn, Hiệp định không quan trọng mà vấn đề là ta có được Quốc hội có ủng hộ hay không. Sự thực ta thấy miền nam VN sụp đổ không phải do Hiệp định mà vì bị Quốc hội bức tử. Ông Thiệu rất lỳ, can đảm nhưng không thể đương đầu với ý chí sắt đá của người Mỹ, họ quá chán chiến tranh VN muốn lập lại hòa bình ngay. Theo tác giả Mark Clodfelter Quốc hội Mỹ phẫn nộ vì trận oanh tạc Giáng Sinh 1972, nếu TT Thiệu bác bỏ ký kết Hiệp định thì việc cắt viện trợ bức tử VNCH chắc sẽ sẩy ra, ông Thiệu thừa biết như vậy nên đã đồng thuận vào giờ thứ 25.(5)
TT Nixon và Kissinger đổ lỗi cho Watergate đã khiến Hành pháp không cứu được Đông Dương, nhưng thực ra khó mà biết Nixon có thể cưỡng bức thi hành Hiệp định Paris hay không cho dù ông còn tại chức. Sáu tháng sau ngày ký Hiệp định, Quốc hội ra Tu chính án cắt hết các ngân khoản dùng oanh tạc tại Đông Dương: Từ nay không còn ngân khoản nào dành cho các hoạt động quân sự (của Chính phủ) Mỹ tại Miên, Lào, Nam, Băc VN. Luật được Tổng thống ký ngày 30-6-1973, được áp dụng từ 15-8-1973, TT Nixon nói ông không còn quyền hành đề cưỡng bưc thi hành Hiệp định.(6)
Về giai đoạn này xin sơ lược: Giữa tháng 10-1972 Mỹ và Hà Nội thỏa thuận ký Hiệp định vào cuối tháng, phía CS nhượng bộ hầu hết các đòi hỏi trước đây để có hòa bình trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ (7-11). Sở dĩ BV muốn ký sớm trước bầu cử vì tin là Nixon sẽ thắng cử, sau đó ông ta sẽ có nhiều quyền hơn. Hiệp định bất thành vì bị phía VNCH chống đối. Sang tháng 11, 12 Hà Nội phá hòa đàm, kéo dài thương thuyết để chờ phiên họp đầu năm (3-1-1973) của Quốc hội mới được bầu. Họ hy vọng Quốc hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh để đổi tù binh, rút quân, cắt viện trợ miền Nam VN… khi ấy bất chiến tự nhiên thành, chả phải ký kết gì cả.
TT Nixon sợ Quốc hội ra luật kết thúc chiến tranh (đầu tháng 1-1973) nên đã vội mở trận oanh tạc BV dữ dội để kéo chúng trở lại bàn Hội nghị hòng cứu miền Nam, các nhà học giả nghiên cứu về Cuộc chiến VN cũng đều nhận định như thế (7). Nhưng Kissinger lại nói ông không hiểu sao BV đổi ý không ký Hiệp định và phá vỡ đàm phán (tháng 11, 12-1972), sự thật đã rõ như vậy, ngay cả người ngoài cuộc như các nhà sử gia đều đã biết mà riêng ông lại không biết!
Ông Thiệu cứng rắn cho tới giờ thứ 25 mới chịu chấp nhận Hiệp định, nhiều người cho là Nixon đã bắt ép miền Nam phải ký một Hiệp định bất bình đẳng. Tác giả Mark Clodfelter cho rằng Quốc hội Mỹ giận dữ vì Nixon oanh tạc BV, nếu TT Thiệu gây trở ngại cho hòa binh thì chắc chắn họ sẽ cắt viện trợ bức tử VNCH ngay từ đó (8) Ông Thiệu biết rõ việc này hơn ai hết nhưng không nói ra. Cho dù có hay không có vụ Watergate, Quốc hội Mỹ (đa số Dân chủ) đã chủ tâm rút bỏ Đông Dương từ trước và sau khi Hiệp định đã thành hình, họ nói cuộc chiến đã gây phân hóa trầm trọng cho nước Mỹ.
Cuộc hòa đàm kéo dài từ năm cuối trong nhiệm kỳ TT Johnson tới nguyên một nhiệm kỳ đầu của TT Nixon. Trên thế giới chưa cuộc đàm phán nào kéo dài đầy mưu mô ma mãnh như thế. Hồi ấy báo Sài Gòn nhận định rằng người Mỹ sợ Cộng Sản da vàng hơn CS da trắng.
Nhiều người cho là Hiệp định hòa bình năm 1973 là án tử cho miền nam VN, sự thực dù ký hay không, Quốc hội Mỹ cũng chủ trương rút bỏ Đông Dương bằng cách này hay cách khác, họ cho là cuộc chiến VN đã là nguyên nhân gây chia rẽ tan nát cho nội tình nước Mỹ.
Trọng Đạt
(1)Trong Kissinger, trang 421
(2) Walter Isaacson, Kissinger A Biography, trang 483
(3) No more Vietnams trang 155
(4) Larry Berman, No Peace No Honor… trang 197
(5) The Limits of Air Power trang 200, 201
(6) No More Vietnams trang 180, This defeat stripped me of the authority to enforce the peace agreement in Vietnams
(7) George Donelson Moss: Vietnam, An American Ordeal trang 366; Phillip B. Davidson: Vietnam At War The History 1946-1975 trang 726; Mark Clodfelter: The Limits of Air Power trang 197
(8) The Limits of Air Power trang 200, 201