Ngày 20-1-1974, Trung Cộng (TC) đã cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Lo ngại TC sẽ thừa cơ hội tiến chiếm quần đảo Trường Sa, Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ra lịnh cho Hải Quân VNCH mở cuộc hành quân chiếm thêm 5 đảo ở Trường Sa.
Ngày 1 tháng 4, lực lượng hành quân đã đổ bộ Địa Phương Quân (ĐPQ) lên đảo đầu tiên là đảo Song Tử Tây.(1)
Chỉ trong vòng hơn một năm, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) cũng có cùng mối lo như VNCH và cũng đã hành động tương tự qua nhận xét của Đại Sứ Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân William Sullivan trong công văn báo cáo về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (BNG/HK) :” Trong một thời gian, tôi đã lo ngại là những diễn tiến hiện nay tại Việt Nam sẽ khơi dậy lòng ham muốn của TC để chiếm đoạt quần đảo TS và các đảo tranh chấp trong Biển Đông … bây giờ đã cho thấy là Hà Nội cũng có điểm lo ngại tương tự và đã ra tay trước để ngăn chận TC, ít nhất là những hòn đảo do VNCH chiếm đóng”.(2)
Chuẫn bị
Quyết định đánh chiếm các đảo hiện do ĐPQ trấn giữ đã được Quân Ủy Trung Ương CSBV ban hành ngày 30-3: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ giao Khu ủy và Bộ tư lệnh B1 nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo hiện do quân chính quyền miền Nam đang chiếm đóng”
Mười ngày sau, Quân Ủy Trung Ương ra lịnh cho Bí thư Khu ủy Khu V Võ Chí Công và Chính ủy chiến dịch Huế – Đà Nẵng Chu Huy Mân cùng phó tư lệnh hải quân Hoàng Hữu Thái: “Chỉ thị cho các lực lượng ta hành động kịp thời theo phương án đã định”.
Thi hành lịnh thượng cấp, 3 tàu mang số 673, 674 và 675 đã rời Hải Phòng trực chỉ Đà Nẵng và đã cập cảng Tiên Sa vào 21g đêm 10-4-1975, tại đây đội 1 của đoàn 126 đặc công nước cùng một lực lượng đặc công của sư đoàn 2 – Quân khu 5 được đưa xuống tàu.
Từ Tiên Sa, trong đêm tối cả ba tàu 673, 674 và 675 được ngụy trang thành tàu đánh cá mang cờ hiệu nước ngoài. Chỉ huy lực lượng tiến chiếm các đảo thuộc VNCH ở Trường Sa là Lữ đoàn trưởng đặc công nước Mai Năng.(3)
Tình trạng chiếm đóng ngoài Trường Sa
Việt Nam Cộng Hòa: Đảo Nam Yết (đây là đảo đầu tiên trong quần đảo Trường Sa mà chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa đã chánh thức thiết lập sự hiện diện thường trực từ tháng 8-1973, và cũng là Bộ chỉ huy của các lực lượng đồn trú trong vùng), Đảo Song Tử Tây, Đảo Sơn Ca, Đảo Sinh Tồn, Đảo Trường Sa và Đảo An Bang (5 đảo này chiếm từ 2-1974).(1)
Tổng số Địa Phương Quân (ĐPQ) trú đóng trên 6 đảo khoảng 150 người, riêng Đảo Song Tử Tây có 29 ĐPQ và 4 nhân viên dân sự điều hành trạm truyền tin và khí tượng.(4)
– Đài Loan : Đảo Ba Bình (Thái Bình), tháng 7-1971, Đài Loan tăng cường quân số TQLC trên đảo Ba Bình lên đến khoảng 500 người.
Phi Luật Tân: Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay-Parola Island), đảo Thị Tứ (Thitu Island-Pagasa Island), đảo Loại Tá (Loaita Island-Kota Island), đảo Vĩnh Viễn (Nanshan Island-Lawak Island), đảo Dừa (West York Island-Likas Island) và Đảo Bình Nguyên (Flat Island-Patac Island)
Trong tháng 5-1963, Hải Quân VHCH đã dựng bia chủ quyền trên các đảo Song Tử Đông, Thị Tứ và Loại Tá.(5)
Hiện tại khoảng khoảng một Đại đội TQLC Phi với đầy đủ cấp số đang trú đóng trên 6 đảo này.
Diễn tiến
4 giờ sáng 11-4, Phó TL/HQ/CSBV Hoàng Hữu Thái ra lịnh toán đặc nhiệm thẳng tiến ra Trường Sa và Đảo Song Tử Tây được chọn là mục tiêu đầu tiên. Chiều 13-4-1975 đoàn tàu đến vị trí tiếp cận đảo.
Khoảng 1g sáng 14-4-1975, đội 1 đặc công chia làm ba mũi rời tàu 673, dùng xuồng đổ bộ lên đảo. Các tàu 674 và 675 làm nhiệm vụ án ngữ phía bên ngoài. Lúc này trên đảo Song Tử Tây trời còn tối đen, toán ĐPQ trên đảo vẫn thi hành nhiệm vụ tuần tiễu như thường lệ, thỉnh thoảng có vài ánh đèn tuần tra loé lên. Toán tấn công có hai mũi đổ bộ an toàn, mũi còn lại gặp trở ngại không thể tiếp cận đảo do sóng quá to, khoảng hơn một giờ sau mới lên được đảo. Đến 4g30 sáng 14-4, sau phát ĐKZ đầu tiên làm hiệu lịnh, lính CSBV đồng loạt nổ súng, ĐPQ trên đảo Song Tử Tây vì bị tấn công bất ngờ nên mặc dù đã nổ súng chống trả, nhưng cuối cùng sau 30 phút giao tranh họ đã đầu hàng. Kết quả lực lượng ĐPQ có 7 chiến sĩ hy sinh và 33 người bị bắt làm tù binh.
Ngay sau đó, cờ của Mặt trận Giải Phóng được kéo lên ( có bài viết cho là cờ đỏ sao vàng, một vài bài khác gọi là cờ tổ quốc).(3)
Cách đảo Song Tử Tây về hướng Đông Bắc khoảng 3 km là đảo Song Tử Đông do Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Phi chiếm đóng và trong khu vực này đang có một tàu trục vớt của Phi đang hoạt động. Thuyền trưởng tàu trục vớt báo cáo là ông thấy lá cờ trên đảo Song Tử Tây đã được thay thế và toán TQLC Phi xác nhận là CSBV đã chinh phục đơn vị VNCH trên đảo và đã nắm quyền kiểm soát.”(4)
Vì bị tấn công bất ngờ, toán lính ĐPQ phòng thủ đảo đã không kịp thới báo cáo về bộ chỉ huy đặt trên đảo Nam Yết, và đảo gần nhất do VNCH kiểm soát lúc bấy giờ là đảo Sơn Ca ở quá xa nên không nghe thấy các diễn tiến (cách nhau khoảng 110km), do vậy các tin tức về biến cố xảy ra trên đảo Song Tử Tây đều qua trung gian của Phi Luật Tân.
Công văn do Đại Sứ HK ở Manila trong ngày 16-4, và công văn đầu tiên do Đại Sứ HK ở Sài Gòn Martin gởi về Hoa Thịnh Đốn trong ngày 18-1 cho biết là BTL/Hải Quân/ VNCH đã nhận được nguồn tin do Phi cung cấp như sau:” ngày 14-4, một chiếc tàu không rõ quốc tịch đã đưa toán đặc công lên đảo Song Tử Tây. Ngay sau đó họ đã nghe tiếng nỗ và thấy lá cờ của Mặt Trận Giải Phóng bay trên đảo”.(4)
Ngày 17-1, BTL/HQ đã cấp thời điều độngTuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 * do HQ Trung Tá Lê Văn Thì làm Hạm Trưởng lúc bấy giờ đang tuần tiễu trong khu vực đảo Nam Yết, trực chỉ đảo Song Tử Tây quan sát tình hình. Chiến hạm không vào sát đảo, nhưng đã báo cáo thấy có người di chuyển và xác nhận là cờ của Mặt Trận Giải Phóng đang bay trên đảo Song Tử Tây.
Tư Lịnh HQVN Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang tuyên bố là HQ 16 sẽ lấy quân từ các đảo còn lại và tái chiếm đảo Song Tử Tây khi thuận tiện.”(4)
Ngoài ra Đại Sứ Martin còn viện dẫn nguồn tin từ hảng thông tấn AP ở Sài Gòn trong bản tin ngày 18-4 cho là lính phòng thủ trên đảo Song Tử Tây đã chạy xuống nước và bơi ra ngoài khi họ thấy 3 chiếc tàu Trung Cộng tiến vào gần đảo mặc dù các tàu này không có dấu hiệu đưa người lên bờ.(4)
Ông cho biết là sẽ tiếp xúc chặt chẽ với HQ VN để lấy được các tin tức chính xác những gì đã xảy ra và để xác nhận là lực lượng TC hay CSBV đã can dự vào cuộc tấn công lên đảo Song Tử Tây.(4)
Để xác nhận lực lượng thuộc quốc gia nào đã tấn công đảo Song Tử Tây, ngày 19-4,Tòa Đại Sứ HK tại Đài Bắc đã tiếp xúc với Sĩ Quan phụ trách tình báo của HQ Đài Loan và đã được xác nhận là Đài Loan không có chiến hạm nào hoạt động trong vùng Trường Sa và họ không tham dự vào cuộc tấn công lên đảo Song Tử Tây,vị SQ này cho biết thêm là chiến hạm Đài Loan chỉ thi hành các chuyến công tác tiếp tế và thay quân trên đảo Ba Bình theo định kỳ mỗi 3 tháng, chuyến công tác sau cùng các chiến hạm đã trở về Đài Loan ngày 15-2-1975. Đài Loan tin là 2 đảo Sơn Ca và Nam Yết vẫn còn do lực lượng VNCH kiểm soát. Lực lượng Đài Loan đã nhận được chỉ thị theo dõi sát tình hình trên 2 đảo này.(6)
Vì đảo Song Tử Đông do Phi chìếm đóng chỉ cách đảo Song Tử Tây khoảng 3 km (1,6 mile), nên lực lượng Phi đã được đặt trong tình trạng báo động. Sự kiện đáng kể đã xảy ra trong ngày 19-4, khi một ĐPQ tên Nguyễn Hùng từ đảo Song Tử Tây đã sang đầu thú đơn vị Phi trên đảo Song Tử Đông
ĐPQ này đã cung cấp chi tiết về cuộc đổ bộ chiếm Song Tử Tây của CSBV. Anh cho biết là toán lính đồn trú sau khi đầu hàng đã được đưa về Đà Nẵng, lính CSBV đã cũng cố hệ thống phòng thủ ở hướng đối diện với đảo Song Tử Đông và sau cùng anh đã nghe lén được là lực lượng CSBV sẽ tấn công đảo Song Tử Đông trong ngày 21-4 ngay sau khi tàu của họ từ đất liền ra đảo. Ngày 30-4, người ĐPQ này đã được đưa về Manila để tiếp tục thẩm vấn.(7)
Điểm đáng nghi ngờ ở đây là đảo Song Tử Tây đã thất thủ từ ngày 14-4. Toán ĐPQ đã bị bắt làm tù binh và đưa về Đà Nẵng. Với diện tích quá nhỏ khoảng 0.2 km2, lực lượng CSBV trên đảo không lẽ lại để người lính này lọt lưới qua đầu thú lực lượng Phi? Và sao lại phải mất đến 5 ngày mới qua đến đảo Song Tử Đông trong khi khoảng cách giữa hai đảo chỉ khoảng 3 km?
Ngày 20-4-1975 Thiếu Tướng Mai Năng nhận lịnh tiến chiếm 5 đảo còn lại.
Rạng sáng ngày 21-4, tàu số 641 nhắm hướng mục tiêu đảo Sơn Ca thẳng tiến. Cũng như lần đánh chiếm đảo Song Tử Tây, tàu 641 được cải trang thành tàu đánh cá và liên tục thay đổi biển số tàu. Đúng 2g sáng 25-4, Cộng quân đổ bộ lên đảo Sơn Ca, khoảng 3 giờ sáng đảo Sơn Ca mất.
Ngày 25-4,Tổng Thống Phi Marcos đã có buổi nói chuyện riêng với Đại Sứ Sullivan, ông tỏ ý lo ngại về ý định của CSBV trong quần đảo Trường Sa và cho là đã có dấu hiệu cho thấy Hà Nội có ý muốn chiếm trọn quần đảo này (có thể dựa vào lời khai của người lính ĐPQ đã sang đảo Song Tử Đông đầu thú).(8)
Ngày 27-4, đảo Nam Yết và đảo Sinh Tồn mất.
Ngày 28-4, đảo Trường Sa, đảo An Bang mất.
Như vậy chỉ trong vòng nửa tháng 6 đảo ở Trường Sa đã mất về tay CSBV.
Ngày 29-4,Thứ Trưởng Quốc Phòng Phi Crisol thông báo TĐS/HK ở Manila là quân đội Phi đã rút khỏi các đảo nhỏ trong khu vực North Danger để tăng cường cho đảo Song Tử Đông. Ông cho là quyết định này chỉ có mục đích phòng thủ trong trường hợp bị tấn công chứ không có ý định gây hấn.(9)
Ngày 7-5, thông tấn xã Giải Phóng thuộc tân chánh phủ CSVN lần đầu tiên loan báo tin là tất cả các đảo ở Trường Sa do VNCH chiếm giữ nay đã thuộc về CSVN.
Đây là tin quan trọng trong ngày ở Manila, Hồng Kông, các hảng thông tấn UPI và AP
Ngoại Trưởng CSVN Nguyễn Duy Trinh đến Mạc Tư Khoa ngày 7-5, trong cùng ngày báo Pravda của đảng Cộng Sản Nga đăng bản tin do phái viên từ Hà Nội gởi về trong trang nhất với hàng chữ lớn “cờ cuả MTGP bay trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa” trong khi nội dung bản tin là chi tiết các đảo thuộc Trường Sa. Đây không hiểu là một sự nhầm lẫn vô tình hay có chủ ý đặt ra câu hỏi về sự chiếm đoạt Hoàng Sa của Trung Cộng.
Trong khi đó, ngày 6-5 phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Đài Loan tuyên bố là Đài Loan vẫn còn chiếm giữ đảo Ba Bình và tình hình đang êm dịu.(10)
Ngày 27-5, Tướng Espino, Tham Mưu Trưởng quân lực Phi thông báo Đại Sứ Sullivan là ông đã quyết định triệt thoán quân lính Phi ra khỏi hai đảo Song Tử Đông và đảo Bến Lạc (đảo Dừa) là hai đảo ở gần đảo Song Tử Tây sau chuyến thanh tra các đơn vị phòng thủ Phi ở Trường Sa. Lực lượng Phi đã hoàn tất lịnh triệt thoái trong đêm trên hai đảo này, tuy nhiên họ còn duy trì cờ trên đảo để làm dấu chủ quyền. Tất cả lực lượng quân sự bây giờ tập trung vào việc phòng thủ đảo Thị Tứ chỉ cách đảo Song Tử Tây của Việt Nam khoảng 40 km.(11)
Trước hành động này của chánh phủ Phi, Đại Sứ Sullivan cho là với khoảng cách quá gần, khoảng 3 km và với tình trạng không có hoạt động nào trên đảo Song Tử Đông, lính CSVN trên đảo Song Tử Tây sẽ sớm biết được và ông nghĩ là trong thời gian ngắn CSVN sẽ chiếm đảo Song Tử Đông cùng lúc họ sẽ bày tỏ tình hữu nghị nồng ấm với quốc gia láng giềng Phi Luật Tân.(11)
Phản ứng về phía TC
Ngày 2-10-1975, BNG/HK trích dẫn nguồn tin của phóng viên Henry S. Bradsher đăng trên nhật báo Washington Star, theo đó có thể có sự căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc kinh trong chuyến thăm viếng Bắc Kinh của Đệ Nhất Bí Thư Đảng Lao Động CSVN Lê Duẫn. Ngoài mặt họ biểu lộ tình hữu nghị, nhưng đàng sau là mối bất hoà qua sự việc hai phiá không đưa ra bản tuyên bố chung sau buổi họp giữa Lê Duẫn và phiá TC. Sau đó Lê Duẫn không trở lại dự tiệc khoản đãi, khác với lần thăm viếng năm 1973. Lý do vì vấn đề chiếm đóng các hải đảo trong Biển Đông. **(12)
Có lẽ vì thế, nên sau một thời gian dài im tiếng, ngày 25-11-1975, nhật báo Nhân Dân và đài phát thanh Bắc Kinh lập lại bài bình luận dài ở trang nhất của báo Guangming, cảnh cáo Việt Nam đã chiếm quần đảo Trường Sa là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Trung Hoa, lập luận là Trung quốc không bao giờ xâm lăng và chiếm đóng lãnh thổ của các dân tộc khác, tuy nhiên chúng tôi không cho phép bất cứ ai, dưới bất cứ lý do nào xâm lăng và chiếm cứ lãnh thổ chúng tôi.(13)
Thái độ của Hoa Kỳ
Ngày 25-4-1975, Đại Sứ Sullivan đã trình bày lên BNG/HK “Tất cả những lần thăm dò ý kiến TĐS/HK từ các giới chức thẫm quyền Phi đã nêu rõ sự quan tâm tột bực của chánh phủ Phi về hành động và tiềm năng đe doạ cuả CSBV đối với lực lượng trú đóng và chủ quyền của Phi trong quần đảo Trường Sa. Chánh phủ Phi cũng nhấn mạnh đìều thực tế là HK còn phải quyết định chánh sách của HK như thế nào trước vấn đề hiện nay dựa theo điều V của hiệp ước phòng thủ hổ tương.***(14)
Ngày 5-5-1975, BNG/HK trong văn thư gởi cho Tư Lịnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương xác định “ Lập trường của Hoa Kỳ đối với quần đảo Trường Sa vẫn được duy trì như trong văn thư đã chuyển đến các nơi nhận trong mùa hè 1974. Đối tượng chính sách của HK là không can dự và lập trường công khai của HK khi được hỏi đến là HK “không đứng về bên nào trong những tranh chấp về chủ quyền trên các quần đảo.” và sẽ lên án việc sử dụng vũ lực.
Như Tư Lịnh đã gợi ý với Tổng Thống Marcos, việc chiếm đóng hai đảo Song Tử Tây và Nam Yết của CSBV có lẽ đã được dự định một phần nào là để chận trước hành động của các nước tranh chấp khác, trong đó có Trung Cộng. BNG không tin là hành động của CSBV báo trước là họ sẽ sớm mở cuộc tấn công vào các tiền đồn của Phi hoặc Đài Loan. Về phần TC vì quyền lợi của mình trước các mối quan hệ tốt đẹp với CSVN và với các nước còn lại trong khu vực Đông Nam Á, việc TC tấn công Phi không xảy ra vào thời điểm bây giờ. Ngoài ra chánh sách của TC đối với quần đảo Trường Sa còn gặp phức tạp qua việc Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình”.(15)
Thềm Sơn Hà
Chú thích
* HQ 16 đã có mặt tại Côn Sơn trong ngày 1-5-1975 cùng với các chiến hạm thuộc HQ/VNCH di tản.
** Nhật báo Washington Star phát hành ở Hoa Thịnh Đốn đã đóng cửa trong tháng 8-1981
*** Hiệp ước phòng thủ hổ tương (Mutual Defense Treaty) đã được ký kết giữa Hoa Kỳ và Phi Luật Tân tại Hoa Thịnh Đốn vào ngày 30-8-1951
Tham khảo
(1) Thềm Sơn Hà “HQ/VNCH mở cuộc hành quân THĐ 48 chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa vào tháng 2-1974”. www.hqvnch.net
(2) Điện văn số 030753 ngày 16-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
(3) Tổng hợp từ các bài viết trong nước.
(4) Điện văn số 075644 ngày 18-4-1975 của TĐS/HK tại Sài Gòn gời BNG/HK
(5) Đinh Phan Cư “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa”, Luận văn tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh-1972”.
(6) Điện văn số 090615 ngày 19-4-1975 của TĐS/HK tại Sài Gòn gởi BNG/HK
(7) Điện văn số 024019 ngày 24-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
(8) Điện văn số 042678 ngày 25-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
(9) Điện văn số 105827 ngày 30-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
(10) Điện văn số 057395 ngày 7-5-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
(11) Điện văn số 085812 ngày 27-5-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
(12) Điện văn số 105657 ngày 02-10-1975 của BNG/HK
(13) Điện văn số 029930 ngày 25-11-1975 của BNG/HK
(14) Điện văn số 060667 ngày 25-4-1975 của BNG/HK
(15) Điện văn số 062068 ngày 5-5-1975 của BNG/HK