Vào năm 2006, khi còn là phó chủ nhiệm quốc hội “CHXHCNVC”, ông Trần quốc Thuận đã công khai lên tiếng, đánh giá, xác minh về các bản chất trong sinh hoạt của chế độ cộng sản là: “Ngày nay người ta phải nói dối nhau mà sống… Nói dối lâu ngày thành thói quen, thói quen dùng lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là rất mất đạo đức, nhưng đó lại là đạo đức của cách mạng! (của Việt cộng)”. Sau đó một khoảng thời gian, một con cưng khác của chế độ, mang quân hàm đại tá, cũng là đại biểu của quốc hội, là phó chủ tịch của hội nhà văn CS, ông Nguyễn Khải, trước khi xuôi tay về với thiên đàng Mác Lê, trong Đi tìm cái tôi đã mất đã viết: “Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ và không hề run sợ… và người ta không dám hỏi lại những điều được nghe ấy đúng sai ra sao?
Thật ra thì chẳng cần đến việc hai nhân vật này nói ra, viết ra như thế người ta mới biết đến việc cộng sản chủ trương xây dựng một xã hội dựa trên nền tảng gian dối. Trái lại, hầu như tất cả mọi ngưòi đã biết rất rõ, một trong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước cộng sản là phải tạo ra và bảo vệ gian dối. Nếu CS không tạo ra và bảo vệ được sự gian dối, cộng sản sẽ bị hủy diệt. Tuy thế, lời công bố của hai nhận vật này cũng giúp đưa ra vài chỉ dẫn.
Một mặt, họ xác minh việc gian dối, hay nói dối tràn làn trong cuộc sống của người Việt Nam ngày nay không phải là sự gian dối mang tính tự phát của người dân. Nhưng nó là một thành quả xuất sắc bắt nguồn từ chủ trương của đảng và nhà nước CS trong tiến trình đào tạo và huấn luyện các đoàn đảng viên, cán bộ của đảng và nhà nước. Để từ đó, những người này đem vào xã hội. Dưới áp lực khủng bố quá lớn và sự sợ hãi, người ta không dám hỏi lại, hay tìm hiểu cái xuất xứ của những câu nói từ đảng, từ nhà nước, từ cán bộ là đúng hay sai. Trái lại, chỉ còn biết tuân theo và lập lại như thế mà sống. Kết quả, gian dối từng bước huỷ diệt tận căn nhân thiện của con người trong xã hội, trong tôn giáo và được thay thế vào đó là thứ “đạo đức cách mạng”, là sự đồng bộ trong gian dối và làm nô lệ cho gian dối. Nên những ai tranh đấu cho công lý, cho sự thật thì đều có thể bị quy kết là chống nhà nước CHXHCN/VC với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền CS. Một thể chế mà không đáng được tồn tại thêm một giờ, một phút nào nữa!
Mặt khác, khi phấn khởi hay ta thán về thành qủa bất hủ của nhà nước CS, cà hai vị này đã đưa ra được những lời cảnh tỉnh, gởi cho những ai còn thao thức với vận mệnh của dân tộc, của đất nước biết là: Nếu còn cộng sản, chúng ta không bao giờ thoát ra khỏi được sự gian dối lấp đè lên gian dối. Trái lại, càng lúc càng bị CS đưa từng thế hệ này tới thế hệ khác lún sâu vào cuộc sinh hoạt trong dối trá do họ chủ trương. Kết quả, tiền đồ của đất nước không còn, tương lai của dân tộc bị hủy diệt. Bởi vì, có những sự thật như chúng ta đã bị Tàu đô hộ bao nhiêu năm nay rồi, có thể từ ngày 02-9-1945, mà người ta vẫn dối trá bảo không. Không một ai dám bảo là có. Tệ hơn, CS còn rêu rao cuộc nô lệ ấy là tình hữu nghị! Và họ bảo vệ cái tình hữu nghị ấy bằng mọi giá! Theo đó, những ai còn nghĩ đến tiền đồ của tổ quốc, tương lai của dân tộc thì không thể khoanh tay trước cái chủ trương vong bản của CS.
Lời cảnh báo ấy, không phải là không có lý lẽ. Bỏi vì, trổi vượt lên trên cái bản ngã nói dối mà sống của từng cá nhân. Sự dối trá của chế độ đã trở thành một khuôn mẫu để làm tiêu chuẩn cho lãnh đạo. Khuôn mẫu này được chứng minh rõ nét nhất là ở cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng Miền Nam, chống Đế Quốc Mỹ xâm lược”! Khẩu hiệu to hơn những cái mồm to nhất. Kết qủa, nó chỉ là một cuộc lừa dối trắng trợn nhất, vĩ đại nhất trong chủ trương của cộng sản đã thực hiện. Để ở đó, có hàng triệu người chết mất xác đến nay vẫn chưa thể tìm ra. Những nghĩa trang liệt sỹ thì đầy những bia mộ, có tên nhưng không có cốt. Có hàng vạn thương phế binh của cả hai miền, hàng triệu gia đình ly tan. Mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, anh chị em mất nhau chỉ để đánh đổi lấy một kết luận đanh thép của đảng CS do Lê Duẫn công bố: “trận chiến này, ta đánh là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”. Và còn tồi tệ hơn thế, trong cuộc gặp gỡ Mao trạch Đông vào năm 1970. Lê Duẫn đã tự hào kể công, kể thành tích của một tên nô lệ với chủ là:“Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch”! Có còn ai tìm ra thứ ngôn ngữ kể công nào bóng bẩy hơn thế nữa? Theo đó, đất nước ta có bị tập đoàn CS / HCM áp đặt vào vòng nô lệ của Tàu thì cũng không có gì lạ. Có lạ là chúng ta không nhìn ra được những gian dối của chúng! Và lạ là không cùng nhau tìm phương cách thoát ra khỏi nanh vuốt của CS mà thôi.
Trở lại “ chuyện đánh Mỹ cứu nước” dù đây có là một cao điểm của phản trắc và lửa dối thì nó cũng đã thuộc về qúa khứ. Có hối cũng bất cập. Có nói cũng bằng không. Nhưng hiện nay, sự gian dối, lừa đảo của nhà nước CS vẫn phủ lấp trên tất cả mọi sinh hoạt trong xã hội. Từ gia đình đến học đường, thậm chí trong cả lĩnh vực thuộc về tôn giáo, không có một nơi nào mà sự dối trá của đảng và nhà nước cộng sản không luồn lách vào. Mà một trong những lừa dối vĩ đại nhất, hào nhoáng nhất, có khả năng phù lấp, hủy hoại tiền đồ của đất nước, tiêu diệt tương lai của dân tộc là trường hợp Hồ chí Minh, một con cờ do cộng sản tạo ra?
Hồ chí Minh là ai? Ông ta là người Tàu hay là ngưòi Việt Nam? Nguyễn ái Quốc có phải là Hồ chí Minh, hay ông ta đã chết vì bệnh lao phổi sau khi ra khỏi nhà tù vào năm 1931? Có phải dưới sự chỉ đạo của CS/QT, Hồ tập Chương đã đóng vai Hồ chí Minh từ 1932 và xâm nhập vào cơ chế trong đảng CSVM?
Sự thật ra sao, chưa rõ thực hư. Nhưng nghi án này càng lúc càng lớn, làm cho người Việt Nam vuốt mặt không kịp. Trong khi đó, tập đoàn đảng và nhà nước CHXHCNVC vẫn tiếp tục ca bài phường chèo, ra rả ngày đêm xưng tụng, đánh bóng HCM là một loại cha già dân tộc ( không biết là dân tộc nào, Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan chăng?). Rồi xếp cho Y có địa vị, chỗ ngồi cao hơn cả quốc tổ Hùng Vương, cao hơn các anh hùng, cứu tinh của dân tộc như Đức Hưng Đạo Vương, Đức Lê thái Tổ, Đức Quang Trung Nguyễn Huệ…. Đã thế, còn ngày đêm thúc dục mọi người, mọi giới phải học tập theo gương của HCM, mà không hề có lấy một lời làm rõ, nêu lên những chứng cứ khả dĩ, đủ xác định và chứng minh HCM là Nguyễn ái Quốc, người làng Kim Liên. Cũng không hề đưa ra những chứng minh thực tế về hoạt động của Nguyễn ái Quốc từ 1932 đến 1942 để phản bác những lý luận trong cuốn sách kia. Cũng không mời những nhà khoa học thực nghiệm đến làm DNA cho HCM để xác nhận nguồn gốc lý lịch thật sự của cái xác gỉa ở Ba Đình kia là Nguyễn ái Quốc hay Hồ tập Chương?
Theo đó, giả sử — tôi giả sử –, nếu Hồ chí Minh là người Tàu đúng như những gì mà tác gỉa Hồ tuấn Hùng, trình bày trong cuốn sách Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008. Và theo ông Phạm quế Dương, “cuốn sách chủ yếu nói về Nguyễn Ái Quốc. Sau vụ án Hương Cảng, 1931 cụ sang Liên xô nhưng bị lao phổi và chết ở Liên xô từ năm 1932. Sau đó, Quốc tế Cộng sản phân công Hồ Tập Chương, người Đài Loan cùng hoạt động với cụ Nguyễn Ái Quốc thay cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng ở Việt Nam. Ông Hồ Tập Chương lấy tên là Hồ Chí Minh” thì chúng ta, những người còn sống đây, rồi đến những thê hệ nối tiếp sau đây sẽ phải ăn nói làm sao? Lịch sử nghìn năm chống phương bắc sẽ phải viết lại thế nào? Rồi căn chòi nào, mảnh đất rừng nào sẽ còn được phép lưu danh những Anh Hùng nước Việt Nam đây? Tôi cho rằng, câu hỏi này chỉ có thể là nỗi tủi nhục cho người Việt Nam thôi? Về phía đảng và nhà nước Việt cộng thì chắc đã có sẵn kế sách rồi. Bịp được đến bao giờ thì cứ bịp. Không bịp được nữa thì bỏ chạy sang Tàu, sang Tây là hết chuyện!
Như thế, gỉa sử ấy không phải là một bi quan, cũng không đơn thuần là một diều đáng lo, đáng quan ngại. Trái lại, nó có thể là một thảm hoạ cho đất nước và dân tộc Việt Nam nếu như nó tiếp tục được kéo dài. Theo đó, nếu chúng ta, thế hệ hôm nay muốn đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng nhân bản, làm nô lệ cho gian dối, làm nô lệ cho chủ nghĩa vong bản cộng sản. Hoặc gỉa, muốn tái tạo lại một đất nước có tình người, có cuộc sống lương tri chân thật, có văn hóa, có nhân bản, có cội nguồn dân tộc thì chúng ta chỉ có một con đường duy nhất là cùng bạch hóa nghi vấn này. Bạch hoá bằng cách:
1. Tất cả mọi người, không trừ ai, hãy mạnh mẽ đem tiếng nói của công lý vào truyền thông. Chuyển tải sự thật đến mọi nơi, mọi chốn, để giải phóng người dân ra khỏi mọi gian trá từ cuộc tuyền truyền bất lương của đảng và nhà nước cộng sản.
Trước hết, nhờ tính năng động của tuổi tré, vận động mọi người, mọi giới cùng tham gia vào phong trào làm DNA, tìm hiểu sự thật về lý lịch của Hồ chí Minh. Hãy nhắn tin cho cả nước biết những hoài nghi của dân ta về Hồ chí Minh. Hãy nói chuyện với bằng hữu, người thân về những chứng cứ hiện có, gởi đi những tin nhắn qua các diện thoại cầm tay, để mọi người cùng đi tìm sự thật, Hồ chí Minh là ai? Ông ta là ngưòi Việt Nam hay người Tàu?
Tôi tin rằng, dù chỉ là vài mẫu chuyện nhỏ do nhiều người chứng kiến và kể lại cách xử thế của Hồ chí Minh với mẹ và chị gái của ông ta, nếu được chúng ta chuyển tải rộng ra cả nước, đến với mọi người ở mọi nơi, mọi chốn. Nó không còn là câu chuyện nhỏ bé nữa. Trái lại nó có khả năng tác động cực mạnh trong lòng người và tạo ra một sức mạnh vô bờ, có đủ khả năng đập tan sự gian dối. Chuyện là, vào năm 1957, Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không đến thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng Thị Loan dù ngôi mộ không xa địa diểm Hồ chí Minh đến thăm là bao. Trước đó, năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, Hồ chí Minh cũng tránh mặt, không dám gặp. Tại sao lại thế? Nếu Hồ chí Minh là con bà Hoàng thị Loan thì có lẽ nào Y lại không giữ phận làm con đến bên mộ, khóc òa, tạ tội bất hiếu không thể phụng dưỡng cha mẹ. Rồi thắp nhang cho mẹ, báo đáp ơn đức sinh thành? Nếu là chị em ruột tại sao HCM không dám gặp bà Nguyễn thị Thanh?
Chỉ có một lý giải là: Hồ chí Minh là Hồ tập Chương người tàu, không phải là Nguyễn ái Quốc con của bà Hoàng thị Loan, nên Y không thể nào đến thắp nhang “ báo đáp ơn sinh thành” cho cụ Hoàng thị Loan . Nhưng tại sao không gặp lại người chị duy nhất của mình sau bao năm xa cách? Sợ phải nhận họ hàng, làm chị em với bà nhà quê hay sợ bị phát giác ra sự gỉa mạo là em của bà chăng? Nên nhớ, có tật thì giật mình thôi, chứ hình dáng của Hồ chí Minh có đổi khác đi, tiếng nói có khác xưa thì bà Thanh cũng không thể nhìn ra ngay được. Như thế, câu trả lời vắn gọn là: Hai người này cũng chẳng phải là chị em với nhau. Gặp chẳng tỏ bày được tình thân, còn có thể lộ tẩy trong những câu chuyện của gia đình khi xưa. Nên Hồ tập Chương, không gặp, không đốt nhang chẳng có gì là lạ. Có lạ là về phía nhà nước VC vẫn giữ im lặng. Im lặng cho đến chết? Tuy nhiên, khi không dám công khai có ý kiến trước dư luận, cũng không làm thực nghiệm DNA về HCM để trả lời, phản chứng, thì cũng chính là lúc họ xác nhận sự thật Hồ chí Minh không phải là Nguyễn ái Quốc.
Kế đến, vận động các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu sử ở trong nước, hải ngoại, các nhà văn, nhà báo hãy cứu nước, cứu dân bằng những bài viết của họ. Người thì làm thực nghiệm với chứng cứ của khoa học, kẻ khác bằng phương pháp sử liệu. Nếu không thể thực nghiệm trực tiếp trên cái xác của Hồ chí Minh với thân nhân ruột thịt, đề nghị làm cách gián tiếp từ Nguyễn tất Trung với những thân nhân ruột thịt này. Mặt khác, cũng có thể vận động GS Hồ tuấn Hùng làm DNA với ngưòi chú (Hồ chí Minh) để tìm ra những điểm tương đồng có thể chứng minh là có liên hệ máu huyết ay không? Dĩ nhiên, những thử nghiệm gián tiếp không thể đưa ra được một kết luận vững chắc. Nhưng dù sao thì nó cũng cho ra những chứng cứ để làm sáng tỏ thêm sự liên hệ giữa những người này.
Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc là. Việc xét nghiệm DNA dù là gián tiếp cũng không khả thi. Bởi lẽ, với một quá trình và chủ trương ” tráo rồng đổi phượng” thì dĩ nhiên, tro cốt của Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đã bị cộng sản tiêu hủy toàn bộ từ lâu rồi. Đên ngay cái xác của Hồ tập Chương trong lớp áo Hồ chí Minh cũng chỉ là cái xác giả. Riêng cái cốt thật của Hồ tập Chương dù mới chết 1969 thì tập đoàn CS cũng chẵng còn để lại một dấu vết nhỏ nào. Và có thể chính Liên Sô là người đã thực hiện hai vụ phi tang này. Phần cá nhân, Hồ Tập Chương vì phải bảo vệ bí mật của chính mình và tổ chức của CSQT, nên khi còn ngồi ghế chủ tịch nhà nước, Y có thể đã ra lệnh cho thủ hạ tiêu hủy hoàn toàn hài cốt của những vị có liên hệ huyết thống vói Nguyễn ái Quốc như cụ Hoàng thi Loan, bà Nguyễn thị Thanh hay ông Nguyễn Sinh Khiêm rồi. Riêng phần mộ của ông Nguyễn sinh Sắc, có thể chôn ở miền nam. Nhưng trong những năm chiến tranh, ai dám bảo đảm rằng Hồ tập Chương đã không ra lệnh cho cán bộ, du kích trên danh nghĩa là tìm kiếm bảo vệ. Nhưng thực ra là tiêu hủy toàn bộ dấu vết của ông và thay vào đó là những cái hài cốt chẳng có một tý liên hệ nào đến dòng họ Nguyễn sinh Sắc? Theo đó, việc DNA tưởng là dễ và chính xác nhất thì lại không khả thi.
Theo đó, sự việc chỉ còn trông chờ các nhà sử học đứng đắn. Nhờ họ, qua các cuộc nghiên cứu sử liệu từ các thư viện mật của Nga, Trung quốc, hy vọng tìm ra được những những tài liệu lịch sử khả tín về cái chết của Nguyển ái Quốc vào năm 1932. Hay những sinh hoạt của Hồ tập Chương trong thời bí mật từ 1932-42 ở Liên sô, trước khi Y được giới thiệu với nhóm Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp với cái tên Hồ chí Minh rồi cùng vào sinh hoạt trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí hội của cụ Hồ Học Lãm. Nguyễn ái Quốc khi đến Pháp và sang Liên Sô rồi về làm chủ tịch đảng CSVN chắc cũng còn để lại nhiều giấy tờ ghi nhận về chiều cao, kích thước, hình dạng. Đây cũng là những chứng liệu hữu ích cho cuộc đi tìm sự thật.
Về phía các nhà văn nhà báo, bloggers, cũng có thể làm xét nghiệm DNA Hồ chí Minh qua các tác phẩm của ông ta, để tìm xem trong đó có hơi hám của Việt Nam hay không. Bởi lẽ, văn là người. Thơ là hơi thở. Không một người làm thơ, viết văn nào phải xa quê hương mà trong thơ văn của nguời đó không thao thức, không nhắc đến quê hương hay những người thân, không nhắc đến những đồng ngô nương sắn, thành thị, nơi mình đã đi qua. Nhờ những chứng từ đó, chúng ta có thể có được một đáp số trung thực hơn về lý lịch của Hồ chí Minh. Dù kết qủa thế nào, phải hay là không, thì điều này cũng giúp dân ta và đất nước ta có được một chỗ đứng nghiêm chỉnh hơn. Dứt khoát, không thể trông chờ CS làm việc này cho chúng ta.
2. Vận động toàn dân tham gia vào cuộc đảnh đổ gian dối, làm chuyển hóa và xóa bỏ chế độ vong bản cộng sản để đưa dất nước vào cuộc sống trong hoà bình ổn định, trong công lý, nhân quyền, nhân ái.
Trong khi chờ có được những bằng chứng khả tìn trong tay, Hồ chí Minh là Hồ tập Chương là ngưòi Tàu theo họ Mật La, Đài Loan, hay là người Việt Nam để công bố cho toàn dân. Chúng ta phải vận động mọi người, mọi giới, không trừ ai, kể các các đoàn đảng viên cộng sản, hãy vì danh dự của tổ quốc, vì tiền đồ của dân tộc, cùng với toàn dân tham gia vào cuộc đánh đổ gian dối, dành lại Độc Lập cho Tổ Quốc. Đem lại Tự Do cho cho con người. Vận động mọi ngưòi cùng nắm tay nhau, biến sợ hải, nhút nhát, vô cảm thành một phong trào lớn mạnh. Cương quyết giải trừ trường hợp Hồ chí Minh ra khỏi dòng lịch sử Việt Nam. Giải phóng đất nước ra khỏi cuộc đánh tráo dơ bẩn và gian dối của cộng sản.
Đây là công việc trường kỳ, nó đòi hỏi chúng ta tốn phí nhiều thới gian. Hơn thế, còn đòi buộc chúng ta phải có thái độ dứt khoát và cương quyết nữa. Từ nhiều năm qua, vì nhiều lý do. Phần vì e dè, phần vì sợ hãi, phần vì né trách nên những cuộc tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Công Lý cho Việt Nam dưới nhiều hình thức đều được mở hàng bằng những mớ ngôn từ vay mượn của Hồ chí Minh. “ bác nói thế này, bác nói thế kia”. Coi những lời ấy như một thứ thuẫn che đạy cho chủ kiến và hành động của mình. Điều này không hoàn toàn sai. Tuy nhiên, đã đến lúc chúng ta phải chọn lấy một hình thức tích cực mới. Bởi vì:
Theo Kinh Thánh: “Không thể nhân danh quỷ để mà trừ qủy”. Trái lại, chỉ có Công Lý, chỉ có Sự thật mới giải trừ được gian dối. Theo đó chúng ta cần mạnh dạn hơn, nghiêm khắc và can đảm hơn với chính mình. Hãy dùng tiếng nói của công lý, của nhân tâm dân tộc, của tiền nhân, của nhân tâm con người mà tạo nên nền móng vững chắc cho những hoạt động giải trừ cái bạo tàn, gian dối của đảng và nhà nước cộng sản tại Việt Nam. Sẽ không, không bao giờ còn dùng bất cứ những ngôn từ nào của HCM như là một cái thuẫn, giúp chúng ta chống lại tập đoàn này. Trái lại, phải loại trừ trường hợp của HCM ra khỏi ý thức tư tưởng của Việt Nam. Việc làm này, khỏi đầu có thể lạ lẫm và hơi khó khăn. Tuy nhiên, đó là việc cần phải khởi đầu.
Có làm được như thế, chúng ta mới sứng đáng và hãnh diện mình là nòi giống của Tiên Long, là thần tử của Quốc Tổ Hùng Vương, là con cháu của các anh hùng dân tộc, của Hai Bà Trưng, của Ngô vương Quyền, Hưng Đạo Vương, Lê Thái Tổ, Quang Trung… mới xứng danh là những hậu duệ của Trần bình Trọng, Lý thường Kiệt… hét vào mặt quân thù rằng: “Thà làm qủy nước nam còn hơn làm vương đất bắc.”
Có giải trừ được gian dối, đem trả sự thật về cho nghi án của dân tộc thì con cháu ta mai sau mới còn có chỗ đứng riêng trên mảnh đất mang tên Viêt Nam.
Bảo Giang