“Nầy công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng…”
(Tiếng gọi Công dân – Quốc Ca Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa)
Công Dân vs Nhơn Dân:
Chế độ miền Nam và người miền Nam chúng ta không quen và không dùng và không lạm dụng từ ngữ nhơn dân hay nhân dân nếu nói với giọng đàng ngoài. Thật vậy, từ ngữ công dân, nếu được áp dụng theo các Hiến Pháp của các quốc gia có một chế độ tử tế với một Hiến Pháp đàng hoàng, thì người công dân với định nghĩa đó sẽ có một định nghĩa minh bạch và một quy chế rõ ràng, với những trách nhiệm, những bổn phận, những đóng góp nghĩa vụ rõ ràng, và sẽ nhận lại những đãi ngộ và những thụ hưởng cân bằng, bình đẳng, synallagmatique, win-win, có qua có lại, giữa nhà cầm quyền và người công dân.
Trái lại, sau khi miền Nam Việt Nam bị Đảng Cộng Sản Hà nội cưởng chiếm, công dân và quy chế công dân không còn nữa, và Đảng Cộng Sản và lý thuyết MacLê đã và chỉ dùng và áp dụng từ ngữ nhơn dân. Từ đó từ ngữ Nhơn dân hoàn toàn thay thế từ ngữ công dân.
Hầu như, hai miền Nam Bắc có hai chủ nghĩa, hai nhơn sanh quan khác hẳn nhau, với hai cái nhìn văn hóa khác nhau, về vị trí về vai trò người dân trong đất nước – quốc gia mình?
– Miền Nam văn hóa, nhơn sanh quan, chủ nghĩa vị trí và vai trò của một Công dân, dân chủ.
– Miền Bắc, văn hóa, nhơn sanh quan, chủ nghĩa vị trí và vai trò của toàn thể Nhơn dân, toàn trị.
Định nghĩa qua từ “công dân” ở phần trên rồi, xin để sẽ mở rộng suy diễn thêm về Công dân.
Nay xin phép nói riêng về từ “Nhơn dân”, mà Cộng Sản Chủ nghĩa đã đặt một vai trò rất lớn! Tuy chỉ là vai thứ ba, nhưng thật sự, là một vai trò quan trọng nhứt tuy dù chỉ là một vai trò rất mơ hồ: “làm chủ đất nước”. Trong câu thiệu:
“Đảng lãnh đạo, Chánh phủ quản lý, Nhơn dân làm chủ !”.
1. Nhơn Dân
Le peuple, the people…thường được nghe nói đến nhiều sau ngày miền Nam thất thủ. Đảng Cộng Sản Hà suốt ngày, từ sáng sớm oanh oanh với cái loa chói tai đến tối mịch trong các họp tổ các khu phố, suốt ngày, suốt giờ … câu “thiệu giáo đầu, mở màn”: “nhơn dân làm chủ”, … và như thế cả chục lần, cả trăm lần. Thế nhưng không thấy nhơn dân “chủ động” làm cái gì, chỉ thi hành thôi! Trái lại, Đảng Cộng Sản Hà nội, suốt ngày, nhơn danh Nhơn dân làm chủ, “ra lệnh”. Nhơn danh Nhơn dân … để dân… nào làm cách mạng, … nào cải tổ, nào sửa đổi, nào đả phá… và cả … uy quyền hơn cả, … để cả … Đảng ta sửa sai nữa! Và còn hơn nữa, trên cả Pháp luật, … cũng lại nhơn danh Nhơn dân để lập Tòa Án cũng Nhơn dân để xử người có tội … cũng với Nhơn dân – Tội gì? Xử với Luật lệ nào? Chuẩn trên Bộ Luật nào? Luật Nhơn dân! Thói thường không ai biết! Vì chẳng có một bộ luật nào gọi là luật Nhơn dân – hay là luật Thành kiến hay Ý kiến Nhơn dân? Hay là Luật Dư luận Nhơn dân? Để làm nền tảng hay làm chuẩn cả…
Do đó:
Từ hơn mười năm nay, từ những ngày hoàn toàn về hưu, bớt bận bịu kiếm cơm, người viết chúng tôi quyết cùng một nhóm bạn hữu đồng chí, đồng tâm nghiên cứu, trao đổi học hỏi lẫn nhau, viết bài phổ biến những ý kiến, quan niệm, những bài học, những khái niệm về tổ chức, về giáo dục tim đọc trên những sách báo xứ người, để gởi vế góp ý với người trong nước, đóng góp xây dựng một đường hướng tương lai cho một quốc gia Việt Nam tử tế với những người Việt Nam đàng hoàng, cũng vì Nhớ nước-Thương nhà.
Và chúng tôi mong, và chúng tôi mơ, chúng tôi thèm có một Việt Nam mới với một cơ chế Nhà nước do những công dân trách nhiệm tạo thành. Những công dân có chủ quyền thật sự: quyền đóng góp và việc quản trị đất nước. Quyền được quyền đóng góp, quyền được dự và góp phần đóng góp và quyền được gặt hái và hưởng thụ những kết quả thích đáng.
Những công dân được nhận thức nắm rõ vai trò công dân của mình: được nhận định đúng và thực thi đúng vai trò mình, khi được dân bầu làm đại diện dân trong vai trò lãnh đạo, cũng như khi chỉ làm người dân bình thường trong vai trò công dân tuân thủ, chấp hành hay đóng góp.
Đất nước Việt Nam ngày nay dưới sự cai quản của Đảng Cộng sản Hà nội, dưới sự khai thác của người Cộng sản. Đó là một sự thật, một hiển nhiên, rõ ràng. Do đó Đảng Cộng Sản Hà nội, và người Cộng Sản phải hoàn toàn chịu trách nhiệm mọi sự thành bại, suy thạnh, của đất nước Việt Nam, và cả mọi phẩm chất đời sống của người Việt Nam – công dân hay nhơn dân tùy quan niệm và định nghĩa của chế độ cầm quyền. Thế nhưng, một quan sát chung nhìn thấy ngày nay, người Cộng sản Việt Nam đang hưởng thụ, đang ăn trên, ngồi tróc trên đầu trên cổ người dân Việt Nam, đang hút nhụy, đang hút mật tất cả tài nguyên đất nước Việt Nam, và tệ hại hơn họ đang tạo những người Việt Nam mới với một văn hóa văn minh Việt Nam mới! Xa lạ với cái định nghĩa văn hóa và văn minh Việt Nam cổ truyền. Khác hẳn với nền văn hóa văn minh cổ truyền mà người Việt Nam tỵ nạn Công sản Việt Nam đã chắc chiu trân quý đem ra ngoài hải ngoại nầy được một phần lớn – Việc ấy cũng là một bình thường, ở hai môi trường khác lạ, do sự phát triển, trên một môi sanh, môi trường văn hóa đời sống khác lạ, thì chỉ phải khác nhau thôi. Cư dân Québec-Canada nói một tiếng Pháp rất xa lạ với tiếng Pháp tại Pháp, với một giọng nói, một cách phát âm, quá cổ, quá xưa, đối với tiếng nói, và giọng nói của người Pháp tại Pháp ngày nay. Nhiều từ ngữ, giọng đọc, cách dùng chử, cách dùng các đảo ngữ của dân Québec Canada vẫn giữ thói xưa như hồi còn ở thế kỷ 17/18, lúc di dân.
2. Công Dân
Quan niệm đầu tiên, là quan niêm “người công dân”. Người Pháp dùng từ citoyen, người Anh-Mỹ dùng từ citizen. Cũng như các từ ngữ có ý niệm tổ chức xã hội, và chánh trị, những ý niệm ấy đều có gốc La Hy (La mã và Hy lạp).
Citoyen hay citizen đều đến từ Cité hay Citi = thành phố. Khi dịch sang việt ngữ là công dân, chúng ta đã “đi tắt”, và chúng ta càng “đi tắt” khi chúng ta áp dụng cho cả một quốc gia. Và từ công dân ngày nay chẳng những được áp dụng tùy trường hợp, tùy quốc gia, hơặc hiểu là quốc tịch-nationalité, mà còn được hiểu là được hiểu là quốc dân nữa!
Hai quan niệm, nói đúng hơn hai trường phái thường dùng để cấp quốc tịch, hoặc hưởng quốc tịch, hoặc dựa theo thuyết thổ nhưỡng – nơi sanh quán – là jus soli-droit du sol-quốc thổ hoặc đựa theo thuyết huyết thống – do cha hoặc mẹ truyền cho – jus sanguinis-droit du sang-huyết tộc, thuyết thứ hai nầy dựa theo hoặc thuyết tổ chức thuần túy chánh trị – ca tụng dân tộc huyết thống, ngôn ngữ văn hóa – jus sanguinis, tất cả quốc dân phải cùng một huyết thống, một ngôn ngữ ; hay trái lại với thuyết vừa nói trên, dựa trên sức mạnh sản xuất kinh tế, sức mạnh kinh tế sản xuất một quốc gia do và bằng người sản xuất, người ấy có thể là người di dân, chỉ cần người ấy là người có sanh hoạt kinh tế sản xuất và đóng thuế, tức là có tham dự vào tổ chức kinh tế sản xuất, nghĩa là xã hội, nghĩa là chánh trị, tất cả đếu sanh hoạt trong đất nước của một quốc gia – jus soli, droit du sol -!
Ngày xưa, thời Hy lạp hay La mã, một thành phố có hai giai cấp, hai loại “công dân”. Loại công dân, loại số một – thuần huyết thống, thuần chủng – có tất cả những quyền hạn, có tất cả quyền hành đặc biệt, với những nghĩa vụ đặc biệt, đó là dân của thành phố, đó công dân – citoyen athénien của thành phố Athène, hay citoyen romain của thành phố Roma! Và cũng cùng sanh sống, cũng cùng sanh hoạt, cũng cùng trong một thành phố ấy, lại có một loại người khác – không được gọi là công dân – gồm những di dân đến từ các thành phố khác hay cả những nô lệ đang phục vụ cho những gia đình các citoyens hy lạp hay la mã, các người nầy tuy không được gọi là citoyens nhưng họ vẫn có vài quyền hạn và rất nhiều nghĩa vụ (giống như người dân Vìêt Nam ngày nay Không Đảng Viên) Về sau khi La mã biến thành Đế quốc La mã, chữ citoyen romain được dùng thoát rộng cho tất cả toàn đất đai của đế quốc (La mã lúc ấy dùng luật huyết thống-jus sanguinis). Đấy là quan niệm chánh trị của thời kỳ chánh sách xâm chiếm, thuộc địa và đế quốc. Nhưng đến những năm cuối của Đế quốc La mã, các Hoàng đế La mã mở rộng cho quốc tịch La mã, citoyen romain cho tất cả các người dân sống trên đất La mã – jus soli. Đây là thời của quan niệm phát triển kinh tế cũng cố sức mạnh kinh tế của Đế quốc.
Dưới thời thuộc địa Pháp, thuộc địa Pháp Pháp đểu giã hơn, dùng từ ngữ SUJET, dân Nam kỳ – Cochinchine ta – vì sanh ở một colonie française – đều là sujet français – và chúng ta không có nationalité française. On est français sans être français. Chúng ta thuộc Pháp nhưng không là người Pháp.
Và Việt Nam ngày nay, núp dưới từ ngữ Nhơn dân, là tất cả người thường dân Việt Nam.
Còn những Công dân thực sự là các Đảng Viên Cộng Sản Việt Nam, với một quy chế đặc biệt, với những đãi ngộ đặc biệt (tùy vai vế, chức vụ, thâm niên do đó có một bản thời giá về những văn bằng, văn hàm – thí dụ văn hàm Phó giáo sư là Hai Tỷ sáu triệu đồng Việt Nam?)
Do đó tuy cùng là người Việt nhưng có nhiều người Việt khác nhau!
Nói tóm lại quan niệm định nghĩa công dân ngày nay của thế giới là một quan niệm trung dung dùng cả hai thuyết, tùy thời tùy cảnh, thêm bớt bên nặng bên nhẹ sử dụng cả hai.
Cũng cố chánh trị, dùng chủ thuyết tự hào dân tộc, huyết thống, ngôn ngữ để chiếm đất dành dân, dùng thuyết huyết thống-jus sanguinis.
Còn cũng cố phát triển kinh tế cần tay nghề thợ thuyền sản xuất, dân số đông làm giàu xứ sở dùng thuyết thồ nhưỡng-jus soli.
Thí dụ điển hình là ngày nay, Nhà nước Việt Cộng với chánh sách Quốc tịch Việt Nam và nghị quyết 36 đang đi dành dân chiếm của (của cộng đồng người gốc Việt ở Hải ngoại) với thuyết huyết thống để dụ người Việt hải ngoại.
Công dân-quốc dân, huyết thống và ngôn ngữ là những quan niệm chánh trị có thể dùng làm vũ khí chiến tranh. Thí dụ Anschluss nước Áo bởi quân Đức Nazi, vì người Áo dùng Đức ngữ, xâm chiếm Tiệp Khắc bởi quân Đức Nazi để cứu người Tiệp đức ngữ năm xưa,
Và cũng có người cho đấy là do và để phục vụ và nhơn danh lòng YÊU NƯỚC. Thật vậy không?
Để Kết Luận
Bổn phận của ta, Cộng đồng Người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại, với Quốc tịch và văn hóa Công dân Người. Nhưng vẫn giữ Gốc Ta và văn hóa Công dân Quốc gia Việt Nam Cộng hòa.
Thử quan sát cộng đồng Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại, bất kể ở đâu, Mỹ, Úc, Pháp, Đức … có rất nhiều hiệu phở, chỉ nhìn tiệm phở thôi ! Thường dùng “hình con bò cười” làm bảng hiệu. Nhản hiệu ấy là của pho mát Con Bò Cười – La Vache qui Rit của Pháp. Vì thời xưa Việt Nam, nhứt là miền Nam Việt Nam, dân Sài gòn, ảnh hưởng văn hóa pháp của thời thuộc địa – mê ăn phô mát Con Bò Cười (với chuối), mê ăn Bơ (mặn) Bretell, mê nước chấm Maggi, thích uống rượu Cổ Nhắc Martell với Sôđa Con Cọp (BGI) – Nay mặc dù ra hải ngoại đã trên 40 năm nay vẫn tiếp tục dùng hình “Con Bò Cười” làm hình bảng hiệu tiệm Phở Bò. Ở hải ngoại ta vẫn tiếp tục nhan nhản những tên hiệu thường thấy ở Sài gòn năm xưa, trước 1975, như Phở Xe Lửa, Phở Pasteur, Phở 79, Cơm Gà Xiu Xiu, Bánh mì Ba Lẹ … Thế hệ biết và thưởng thức những thức ăn thức uống của bảng hiệu ấy nay cũng xêm xêm, trên 6, 7 bó, nhưng thế hế tiếp nối vẫn nối chí cha mẹ tiếp tục thưởng thức Phở Xe Lửa, Phở Pasteur, dù bên xứ người, chẳng có tiệm Phở nào nằm đường Pasteur – Hiền Vương cả…!! – “Lee Sandwich” chắc cũng do tên Ba Lẹ biến thể ra chăng? –
Và “phe ta” vẫn cứ thế, mà tiếp tục … dù qua tỵ nạn xứ Mỹ hay xứ Úc vẫn thích ăn bánh mì theo kiểu Pháp, là bánh mì baguette. Và còn ngon lành hơn cả người Pháp là ngày nay, nhiều tay người Việt tỵ nạn ta thành công trong nghề làm và phổ biến bánh mì baguettes của Pháp! Thành công nhứt là ở Mỹ và ở Úc! Bánh mì baguettes pháp ngày nay, dân Việt tỵ nạn biến thành bánh mì baguette việt nam. Cũng như “cà phê phin” cũng vậy, và phải với cái “phin” bằng nhôm, tuy được anh cán ngố giải phóng đặt “chết” tên là “cái nồi ngồi trên cái cốc”, nhưng “phe ta” bình tỉnh trưng dụng luôn cái “tên – cái nồi ngồi trên cái cốc” luôn, trước chỉ đặc biệt có ở Việt Nam và nay tiếp tục phục vụ ở những khu cộng đồng Việt Nam trên thế giới! (mặc kệ expresso tây hay capuccino ý hay Starbuck Coffee!). Và phe ta, thủ cựu, người Việt tỵ nạn (khắp thế giới) tiếp tục uống cà phê sữa với sữa đặc có đường hiệu Nestlé hay Ông Già (Tây uống café với crème!) …
Đó có phải là những dấu ấn biểu tượng lòng Yêu nước của chúng ta không?
Hay chỉ là một loại “hoài niệm lãng mạng” như anh Lê Mạnh Hùng ở Luân đôn nói trong một bài viết gần đây!
Nhưng cũng nhờ vậy, mà chúng ta giữ được linh hồn của Quốc gia Việt Nam, của Việt Nam Cộng Hòa, của một chế độ, một văn hóa, văn minh Việt Nam đặc biệt, trước năm 1975.
Năm 1975, năm mất nước, cột mốc đánh dấu cái cửa giữ chặt linh hồn của một thời Tự Do Độc Lập của miền Nam Việt Nam, với lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ, với bài quốc ca Tiếng gọi Công dân! Gói trọn khung trời lý lịch của chúng ta, người Công Dân của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Lý lịch của chúng ta là như vậy !
Phải trân trọng, phải nưng niu, phải nuôi dưỡng, một lá quốc kỳ, một bài quốc ca, suốt năm, vòng quanh thế giới, không tuần nào không được hát lên, không tuần không được trương lên trên mọi vùng trên thế giới.
Hát lên để giữ nền văn hóa, trương lên để giử nét văn minh.
Chúng ta nhớ cả, chúng ta trân quý cả. Từ Vua Hùng dựng nước đến Ngũ tướng anh hùng Việt Nam Cộng Hòa vì nước tuẩn tiết hay bao vị anh hùng vô danh dân quân cán chính đã bỏ mình trên các trận địa thời giữ nước hay trong các trại tù binh thời mất nước hoặc các anh hùng bỏ mình trên đường vượt biên hay trên đường phục quốc !
Với chúng ta ngày nay ở hải ngoại, quê hương là “nhớ nước”.
Nhớ nước qua hình ảnh xưa, nhớ nước qua kỷ niệm, nhớ nước qua quá khứ.
Sàigòn với con đường Duy Tân cây dài bóng mát, Sàigòn với mùa gió và những cánh trái dầu rơi xoay theo gió,
Sàigòn tình tứ khi ngồi trú mưa chờ em với ly cà phê đen nhỏ giọt trên một lớp sữa đặc có đường, với điếu thuốc Capstan thơm tho… và nhiều nữa.
Với chúng ta ngày nay ở hải ngoại quê hương là “thương nhà”.
Thương nhà là thương những ngày thanh bình tuổi ấu thơ, tắm ở trưồng ở con rạch sau nhà, của thời học trò, thời “ô môi” ăn vàng răng, …thời ăn chùm ruột chấm mắm ruốc…
Thương nhà là thương cả những ngày “đổ mồ hôi nơi quân trường”, hay thương cả những ngày hành quân truy địch, và thương cả những ngày chiến đấu sống còn quần thảo với Việt Cộng, …
Thương nhà cũng là thương cả những ngày dưởng thương hay nghỉ phép, cùng em dạo phố…
Chúng ta ngày nay, ở hải ngoại, đấu tranh đòi hỏi tự do, nhơn quyền cho người dân trong nước, đấu tranh đòi hỏi dân chủ, dân quyền phải được trả lại cho người dân trong nước. Chúng ta không chấp nhận Việt Cộng cầm quyền, có phải vì họ cầm quyền láo, làm hư hỏng cả một nước, một quốc gia, hay là chúng ta không được nhìn thấy những cái gì chúng ta mơ thay đổi hoặc chúng ta thấy quá nhiều thay đổi nhưng không giống định nghĩa của chúng ta? Có lẽ cả hai.
Và chúng ta sốt ruột, vì sao người dân trong nước, những người chúng ta mơ giống chúng ta cúi đầu chấp nhận, và giòng đời cứ thế mà trôi, và chẳng chốc 50 năm sắp qua.
Do đó
Ngày mai, chúng ta sẽ không phải nói “nhơn dân làm chủ, đất nước là của nhơn dân” nữa. Chúng ta phải nói “Công dân làm chủ, đất nước của Công dân”.
Hồi Nhơn Sơn, rằm tháng giêng năm Mậu Tuất
TS Phan Văn Song