…Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên…
Đằng Phương– Anh hùng vô danh- Hồn Việt – 1950)
Thưa quý bà con,
Hai câu thơ trên, trích từ bài thơ “Anh hùng Vô danh của tập thơ Hồn Việt, của thi sĩ Đằng Phương, tức là cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, tức là Thầy Ba Huy, một trong những ông thầy, những đàng anh, một trong những lãnh tụ cách mạng, đã dẫn dắt dạy dỗ, nung đúc tâm hồn cá nhơn chúng tôi, đoàn thể anh em chúng tôi suốt những năm tháng qua, đã nhắc nhở công ơn của những anh hùng vô danh đã nằm xuống để bảo vệ lãnh thổ giang san, cho Độc lập, cho Tự do đất nước. Họ là những biểu tưởng vô danh có mặt trong những biểu tượng hữa danh. Thật vậy sau những chiến thắng, sau những anh hùng tên tuổi đều có những:
“ Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước (Đằng Phương– Anh hùng vô danh- Hồn Việt – 1950)
Đã từ một năm nay, từ ngày 10 tháng sáu năm 2018, bà con ta trong nước đã xuống đường biểu tình chống Trung Cộng đã xâm phạm lãnh thổ chúng ta. Đồng bào tỵ nạn hải ngoại cũng vậy, cứ mỗi tuần hoặc thứ bảy hoặc Chúa Nhựt, tại Quảng trường Nhơn Quyền Trocadéro Paris, Pháp, hoặc ỏ các tỉnh trên toàn thế giới, ở đâu có người Việt tỵ nạn Cộng sản là có tập họp biểu tình trương cao ngọn cờ vàng ba sọc đỏ chánh nghĩa chống Giặc Việt Cộng bán nước, Giặc Trung Cộng xâm chiếm quê hương ; đây Milpitas, nọ San José, hay Houston … hay các thành phố khác ở Mỹ, hoặc kìa Sydney, kìa Melbourne ở Úc… hay Berlin, Munchen Đức … Đây vài chục người, nọ vài trăm người, mặc mưa tuyết lạnh, mặc nắng nóng thiêu người, tất cả vi đất nước, tất cả vì bà con người Việt Nam, tất cả buộc Việt Cộng hãy cút đi, Tàu Cộng hãy cút đi.!Tất cả chống sự có mặt của Tàu ở Việt Nam! Hãy nhớ hai câu thơ nầy của Tố Hữu:
“Bên ni biên giới là mình
Bên kia biên giới cũng tình quê hương…” (Tố Hữu – Đường sang nước bạn –1961)
Đúng vậy, Đảng Cộng Sản Tàu có mặt cầm quyền quốc gia Việt Nam và công dân Việt Nam bên cạnh Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhơn danh, anh em, huynh đệ, đồng chí, người Tàu vào Việt Nam tự do, qua lại biên giới (còn biên giới không ?) như trong nhà họ… Vì ra vào tự do, ăn ở, trú ngụ tự do, nên ngày nay, không có thống kê số dân Tàu ở Việt Nam… và cũng không nghe nói người Việt gốc Hoa như xưa nữa! Vì Hoa Việt đề huề nên ngày mai, Hoa như Việt Việt như Hoa, đều người …Hoa cả! Vì bên ni bên kia biên giới đều là quê hương!
Do đó, từ nay, mong quý bà con làm ơn, Trong Nước hay ở Hải Ngoại, hãy trân trọng tất cả những biểu tượng chống Tàu. Hãy trương cao ngọn cờ với những biểu tượng chống Tàu. Vi đó là gia tài, vì đó là vốn quý, mỗi mỗi biểu tượng là những hy sanh, những giọt máu của bao tiền nhơn, từ những anh hùng tên tuổi, đến những người anh hùng hay cả những dân lành nạn nhơn vô danh
“…Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt và xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm trinh trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống VIỆT.” (Đằng Phương – Hồn Việt 1950)
Kính thưa quý bà con, quý thân hữu,
Mỗi tuần, mỗi lần biểu tình, nếu có thể, hãy để một biểu tượng chống Tàu làm biểu tượng dẫn dắt. Những anh hùng, những chiến công, những gương sáng chống Tàu ngoại xâm chúng ta có đầy đủ cả… Từ Thánh Gióng đuổi Giặc Ân, qua Hai Bà Trưng, Bà Triệu, thời Hán thuộc, đến Vua Ngô Quyền, các Đại Tướng Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, các Vua Lê Lợi, Quang Trung, lịch sử hay thời đại chúng ta với Hạm trưởng-Commandant Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, và chúng ta củng không quên ơn các chiến sĩ Hải quân Nhơn dân Việt Nam ở Gạc Ma… Lịch sử chống Tàu giữ nước chúng ta cũng đầy đủ các chiến công hiển hách… Nên đều đểu, cứ mỗi biểu tình, chúng ta trưng ra, giương cao một ngọn cờ vơớ một biểu tượng; nay Bạch Đằng, mai Vạn Kiếp, nọ Hạ Hồi, Ngọc Hồi, chiến thắng Thăng Long của Vua Quang Trung, chiến công Chi Lăng dân quân ta chém đầu Liễu Thăng, và cũng không quên những chiến công các chiến s’ dân quân biên giới Bắc Việt đã làm tê liệt những đoàn quân Trung Cộng năm 1979… Giương cao những ngọn cờ ca t(ng các chiến cao, các vị anh hùng chống Tàu, là răn đe quân Hán Cộng, kẻ xâm chiếm, phải biết rằng, đất Việt ta, người Việt ta không dung túng người Tàu thực dân, đế quốc, xâm lược!
Phải tạo một chiến dịch Chống Tàu ! Với những hành động cụ thể: Cả trong nước lẫn ngoài nước. Phải tẩy chay tiêu thụ hàng hóa, thực phẩm Tàu… khó khăn đó, nhưng phải cố gắng! Trong nước, lựa chọn hàng hóa, ưu tiên sử dụng hàng nội hóa Việt Nam … với cảnh giác xem hàng ấy do người Việt làm, hay người Tàu trong nước làm …
Hải ngoại khỏi nói, ưu tiên mua hàng nội địa Pháp Mỹ Úc Đức … mua hàng sản xuất gần nhà… nắm rõ gốc gác, nhứt là về lương thực, rau trái cây… Và nếu có thể tẩy chay, boycott nhà hàng Tàu. Bỏ tất cả mọi tiệc tùng, đi ăn Buffet, Điểm Xấm… Xin thử một năm thôi!Trong nước, không tiếp người Tàu, và nếu người Tài đi lẻ tẻ uy hiếp họ… nếu người Tàu ở lẻ tẻ đuổi họ dì, không nhận họ…
Riêng Hải ngoại chúng ta, chung ta phải tẩy chay cả Việt Cộng, những tên đang bán nước. Chúng ta bằng mọi giá cắt tiếp tế Đảng Cộng Sản cầm quyền. Vì gởi tiền dollars Mỹ về, là viện trợ hối đoái cho nhà cầm quyền Việt Cộng. Không tiếp tế, không về Việt Nam. Không gởi tiền về Việt Nam. Mục đích mang con số 16 tỷ dollars xuống con số không! Là cắt bớt 10 % của GDP, Tổng Sản Lượng Việt Nam. Không về du lịch Việt Nam, kêu gọi bạn bè ngoại quốc không du lịch Việt Nam là đánh vàu yết hầu kinh tế Cộng hòa Cộng Sản Việt Nam.
Bằng mọi giá phải, phụ giúp, ủng hộ, hậu tuyến, bà con, dân chúng trong nước nổi dậy, đánh đổ Dảng Cộng Sản Việt Nam đương quyền. Không gởi tiền về cho gia đình, là tạo khó khăn kinh tế cho người dân, để người dân ý thức rằng, một nhà cầm quyền PHẢI có trách nhiệm nuôi dân, tạo phương tiện để người dân sanh sống… Nếu không làm được nhiệm vụ ấy, hãy trả quyền tự quyết cho người dân, người dân tự cầm quyền, tự nuôi lấy thân. Người dân ở Việt Nam, các gia đình ở Việt Nam không phải là những trẻ con do gia đình ở ngoại quốc đi làm gởi tiền về nuôi ăn. Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, là một Nhà cầm quyền không có chánh nghĩa, không có chánh thống, vì không do người dân bầu lên! Do đó
Toàn dân PHẢI đoàn kết, nổi dậy cướp quyền để cứu nước!
Cùng vì lẽ đó, mong tất cả bà con chúng ta, hãy trân trọng trước tiên với cái Biểu tượng ngày 30 tháng Tư là Ngày Quốc Hận! Vì bắt đầu ngày đó, một khung trời mới đã đến với Việt Nam. Vì nay, đã mất rồi, một Việt Nam tử tế, tươi mát, đầy những giấc mơ, đầy những nụ cười. Trái lại, từ đấy, một bức màn đen đầy uất hận đã trùm lên Việt Nam ! Và Tố Hữu đã ca:
“…Hai ngọn cờ đỏ máu thơm tươi
Chiến thắng ôm nhau, biên cương mở hội…” (Tố Hữu – Đường sang nước bạn –1961)
Và, cũng từ ngày Quốc Hận đó, một chuổi dài những biến cố, tưởng đã lùi vào quá khứ bổng nhiên trở lại với lịch sử Việt Nam. Cái họa xâm lăng của anh láng giềng phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp của đất nước và dân tộc Việt Nam đang rình rập, dọa dẩm và sẽ có một ngày sẽ đổ ập vào Việt Nam. Họa Phương Bắc! Họa Trung Hoa! và nay Họa Trung Cộng!
Kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Đại Việt. Anh láng giềng phía Bắc, lúc nào cũng tham lam, lúc nào cũng rình rập, lúc nào cũng muốn giành dân, chiếm đất, đã từ ngàn xưa rồi, từ thời nước Đại Việt còn phôi thai. Đã 1000 năm đô hộ, cả hơn mười lần đánh đuổi. Bao nhiêu đời Vua Tàu, bất cứ thời nào, bất cứ Triều đình nào của Tàu, kể cả bất cứ dân tộc nào phương Bắc. Từ Hán qua Mông đến Thanh đều hể có dịp, là phải đem quân đi thôn tính, xâm lăng Việt Nam.
Chỉ từ lúc Chúa Nguyễn Hoàng tỵ nạn vào phía Nam, núp bóng sau dẩy núi Hoành Sơn (1558), mở mang bờ cỏi về phía Nam; đất nước Việt Nam chia làm hai Xứ (1620), với Xứ Đàng Trong, phía Nam Việt Nam, mới bỏ, không còn thủ tục triều cống với các Triều đình Tàu nữa. Còn Đàng Ngoài, phía Bắc Việt Nam, với Chúa Trịnh với Vua Lê (1592) là vẫn còn liên lạc ngoại giao, triều cống, đi sứ với các Vua Tàu.
Và cũng để cắt đứt liên lạc với Văn Hóa Tàu. Các Chúa Nguyễn đã dùng Phật Giáo làm căn bản luân lý và đạo đức để quản trị đất nước, không xài chung cái Nho giáo với Tàu nữa. Nhờ vậy gần hai trăm năm tránh được nạn Tàu xâm lược.
Và Vua Quang Trung chỉ với một chiến công hiển hách, đánh một trận để đời, với chiến thắng Tết năm Ất Dậu (1789), diệt quân Thanh, đuổi Tôn Sĩ Nghị về Tàu. Và từ đấy, hết nạn Tàu xâm lược.
Khi Gia Long lên ngôi Vua lập Nhà Nguyễn, Vua Gia Long lại “tái diễn cái trò đi sứ triều cống”, không ai bắt buộc cả, lại trình diện Vua Tàu (1804), lại xin “ cầu chứng tại Tòa với Nhà Thanh bên Tàu”, và … xin đặt tên nước. Do đó để tránh “làm phiền” anh Tàu, tên nước tránh tên Đại Việt, thử xin tên Nam Việt cũng không đặng, đành phải biến qua Việt Nam!
Và cũng đau đớn thay, cũng hèn kém thay ! Qua hai đời sau, cũng không bị bắt buộc, Vua Minh Mạng còn”hèn” hơn hai tiên đế mình , tiếp tục “né Tầu” đền phải đổi tên nước là Đại Nam, chỉ vì ngại Tàu dị ứng với cái tên Việt, tên một dân tộc anh hùng. Về sau, khi Pháp qua xâm lược Việt Nam, Vua quan Triều đình Tự Đức ta, vì u mê, vì nhu nhược, thiếu tự trọng và lòng Yêu Nước, suốt ngày chỉ biết thơ phú Nho học, chấp nhận để Tây thương thuyết với Tàu, đặt đô hộ trên toàn cỏi nước ta và gọi Triều đình ta bằng tên Tàu là An Nam, và Vua quan ta vẫn cúi đầu chấp nhận tự gọi ta là Nam Triều. Thật tình là quá nhục !
Lúc nào ta cũng lấy Tàu là chuẩn. Tàu ở Bắc, ta ở Nam. Đến đổi cờ nước ta cũng dùng Quẻ Ly để tượng trưng Phía, phương Nam. Chỉ từ 1949 trở đi, cờ nước Việt Nam ta mới dùng ba sọc liền biểu tượng Quẻ Càn, Càn là hướng Đông, là mặt Trời là Thái Dương!
Cờ Quốc Gia Việt Nam thoạt đầu, khi vừa lấy lại độc lập từ Pháp với Hiệp Ước Élysée năm 1949, và sau 1954, cờ Việt Nam Cộng Hòa, với nền Vàng, biểu hiệu màu dân tộc với Quẻ Càn màu đỏ, Biểu hiệu hướng Đông không còn cái chuẩn Nam Bắc đối với Tàu nữa.
Với quốc kỳ Vàng Ba sọc đỏ, dân tộc Việt Nam đã rứt khỏi hẳn cái chuẩn văn hóa Tàu.
Vì vậy chúng ta, ngày nay, muốn rứt bỏ hẳn những di tích, những huyền thoại dính líu với văn minh hay văn hóa Tàu, chúng ta phải nuôi, phải dưởng phải trân trọng tất cả những biểu tượng chống xâm lăng Trung Hoa.
Nhưng nhìn chung, mặc dù nếu chỉ thuần túy quân sự, dân tộc Việt đánh nhau thật sự với quân Tàu chỉ có trên dưới chưa đầy mươi lần. Nhưng với một ngàn năm đô hộ, với một chương trình Hán hóa có hệ thống, từ văn hóa, Tàu đã xóa bỏ chữ viết ta, xóa bỏ tập tục ta , phong tục ta , lễ nghi ta …, Quên sao? Những đòn tấn công của những chiến dịch hán hóa ta từ tập tục, lễ nghĩa đến nền văn hóa Tàu, …” tiêu biểu bởi những tên Thái thú như Tích Quang –Xi Guang, Thái thú Giao Chỉ từ năm 1 SDL đến 25, đã chủ trương với cả một chương trình, một đường lối chánh trị hán hóa toàn dân Lạc Việt ta, bằng cách khuyến khích đem dân từ bên Tàu qua : cho dân Tàu di dân bằng động viên dân Tàu đi kiếm đất canh tác, đi buôn bán (có khác chi Việt Cộng ngày nay ? Có khác chi Tàu Cộng ngày nay); chấp nhận cả dân Tàu tội phạm hay phản loạn qua đất Việt trốn luật pháp tra lùng; chấp nhận cả dân Tàu bị đi đày; chấp nhận cả những tỵ nạn chánh trị hoặc kinh tế để dần dần hán hóa đất Lạc Việt (phương pháp Tàu Cộng đang được áp dụng ngày nay tại Tân Cương, tại Tây Tạng, và tương lai sẽ Việt Nam ta!) Riêng phần đối với các quan chức Lạc, thuần hóa, sử dụng, mua chuộc,(khác chi ngày nay với đường lối chủ trương của Tàu Cộng đối với Nhà Nước Việt Cộng!) Lúc bấy giờ, chỉ có tướng Lạc là Tây Vũ đã dám nổi dậy, nên đã bị giết chết. Tích Quang, vì không nhìn nhận Vương Mảng – Wang Mang đã cướp ngôi nhà Hán, để trở thành vì Hoàng Đế đầu tiên dùng Khổng Giáo đề cai trị (9-23 SDL) nên Tích Quang đã mở cửa Giao Châu tiếp đón các quan chức và các văn hào, nhơn sĩ nhà Hán không phục Wang Mang tỵ nạn, mang văn hóa Tàu sang đất Việt. Tích Quang và sau đó Nhâm Diên –Ren Yan (Thái thú Giao Châu từ năm 29 đến năm 33 SDL) cùng nhau Hán hóa đất Giao Châu, từ văn hóa, chữ nghĩa, phong tục, lễ lạc ( buộc dân Việt làm lễ cưới theo phong tục Tàu) cho đến canh tác cấy cày tròng trọt* …” nhưng, may quá, nhờ sức sanh tồn khá mạnh, dân tộc ta vẫn giữ được Việt tánh, dân tộc tánh.
( * Theo – H. Maspero et E Malas « Histoires et institutions de la Chine ancienne Paris » P.U.F 1967 page 68 ;
-H. Maspero « L’expédition de Ma Yuan » BEFEO XVIII n°3 page 11 ; Revue « Annam » VII 1a, Sainson p 316, Cương Mục tiên biên II, 9a.)
Dỉ nhiên, giữa những cuộc chiến chống xâm lăng vẫn có những giai đoạn xây dựng và gìn giữ đất nước, vẫn có những giai đoạn “nghỉ ngơi giữa hai cuộc xâm lăng” chung sống hòa bình với láng giềng phương Bắc. Nhưng trong những thời gian nghỉ ngơi xây dựng ấy, các Triều đình Đại Việt vẫn luôn luôn cảnh giác, tuy chung sống hòa bình, nhưng vẫn “giữ kẻ” với phương Bắc, tuy thắng trận, nhưng vẫn thực tế biết mình yếu. Nên các Vua Đại Việt, tổ tiên ta, lúc nào cũng khéo léo, cũng biết ngoại giao, nhịn nhục, biết đi hàng dưới, triều cống, thần phục Bắc triều.
Cũng do cái não trạng phục Hán của dân tộc, của người Việt Nam, do não trạng « đồ Nho » lúc nào cũng Khổng, cũng Mạnh, mở miệng ra nói toàn chuyện điển tích bên Tàu. Cho đến với bao nhiêu đại văn hóa phẩm với những đại văn hào Việt Nam như vậy, mà những án văn bất hủ của Việt Nam nổi tiếng như Kim Vân Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Cung Oán Ngâm Khúc… đều được hay bị dịch hay lấy từ truyện Tàu.
Chỉ trừ một thời gian rất ngắn, thời gian vừa lấy lại nền Độc lập sau 1000 năm tăm tối nô lệ, từ Nhà Đinh, Nhà Lý, đến nhà Nhà Trần là lấy Phật Giáo làm nền tảng quản trị dân. Còn tất cả những thời đại sau, vẫn vướng víu đến Nho Giáo. Kể cả nhà Lê, quân Minh đô hộ ta trên 10 năm, tàn ác như thế, diệt dân ta như thế, và khốn nạn hơn, diệt văn hóa ta bằng đốt sách Việt Nam ta, lấy kho tàng văn hóa sách vỡ Việt ta để đem về Tàu, thế mà, khi Vua Lê thành công lên cầm quyền, vẫn dùng Nho giáo và Hán Văn để quản trị đất nước ! Đau đớn quá !
Những sai lầm ấy chúng ta đang trả ngày nay. Một đất nước mà Nhà cầm quyền, Triều đình, quan chức từ chữ viết đến cả tiếng nói người dân hoàn toàn không hiểu. Tuy là âm Việt đấy, nhưng người dân vẫn không hiểu. Nước Việt Nam ta phát triển sanh hoạt với hai ngôn ngữ khác nhau : tiếng Việt quan chức, tiếng Việt học hành, trí thức – Hán Việt và tiếng Việt dân gian. Do đó …và theo thiển ý, đấy là cái phần hèn kém nhứt của nền Văn hóa Việt Nam. Các Cụ tổ tiên chúng ta, có thể mượn ý Tàu, nhưng ít ra cũng biến qua những tiếng nói, chữ viết Đại Việt dân gian !
Chúng tôi, ngày nay, không sợ Họa xâm lược Tàu bằng chiến tranh hay kinh tế. Chúng tôi sợ xâm lược Tàu bằng Văn Hóa. Ngày nay, nếu thật sự mà nói, trong nền văn hóa Việt Nam còn có được bao nhiêu chất dân tộc Việt ?
Cũng phải đau lòng nói thêm, thái độ, não trạng lụy Tàu cũng phải kể đến những thái độ hèn kém của những người Việt chúng ta khi thua cuộc, trong những tranh chấp nôi chiến, đều đi cầu cạnh Vua Tàu, đời nào cũng có. Hậu duệ Nhà Trần dưới đời nhà Hồ, Nhà Mạc, Nhà Lê, nhiều khi không cầu cạnh Vua Tàu, vì Bắc Kinh quá xa, mà chỉ cầu cạnh tên Tổng đốc Lưởng Quảng. Ngay đến cả thời cận đại, những nhà đấu tranh chống Pháp, từ không Cộng sản đến Cộng sản đều chạy qua Tàu. Hết nhờ Tưởng, rồi nhờ Mao. Ngày nay, nếu các tay cầm quyền trong nước hèn và sợ Tàu như vậy, âu đó phải chăng cũng là do cái truyền thống ấy ?
Tội nghiệp thay cho Việt Nam ! Một dân tộc anh hùng nhưng vẫn ham sống, nên cái dân tộc sanh tồn của Việt Nam, trước tiên là “né Tàu”. Né không được mới đánh, thường đánh những trận ngắn, đánh thắng xong, đi giảng hòa, và xin triều cống… Trong các Triều đại Việt Nam chỉ có Vua Quang Trung là có ý định đòi lại Lưởng Quảng thôi! Còn các trận đánh chống xâm lược, đều đánh nhau trên đất Đại Việt để tự vệ. Chỉ có dưới đời Nhà Lý, kiện tướng anh hùng Lý thường Kiệt dám xuất quân vượt biên giới Việt – Hoa phạt Tống (cuối năm 1075), hạ được thành Ung Châu, chém được đầu Đô Giám Quảng Tây. Nhưng rất tiếc sau đó, các Triều đình về sau chỉ biết giữ nước, be bờ với Tàu thôi !
Đến cả ngày nay, Trung Cộng/ Việt Cộng dù đã thề thốt với nhau, “môi hở răng lạnh, núi liền núi, sông liền sông” thế mà, hể có dịp là cũng xâm chiếm Việt Nam. Mà cũng phải, não trạng aă hóa, văn minh Việt Nam lúc nào cũng cho mình là Văn Hóa Khổng Mạnh. Lăng miếu, Chùa chiền, đều chữ Tàu cả, dân Việt đi viếng không đọc được. dân Tàu thường dân đi du lịch đọc được, vì vậy họ tưởng nhầm là Đất Việt là đất Tàu. May các Cha Cố Đạo đến Việt Nam, la- tinh hóa tiếng nói Viêt Nam để thành chữ Quốc ngữ, quốc hồn quốc túy Việt Nam ngày nay. Nhưng vẫn chưa thoát nạn Hán hóa!
Ngày nay, Tàu nó ăn hiếp như vậy, mà trong nước, Cộng quyền vẫn nín im re, im rinh rít. Né, tránh, nhịn…thôi cũng được nhưng tại sao không để dân biểu tình, dân phản đối Tàu. Dân chủ mà ! Quên sao những nỗi nhục ngàn xưa? Và hãy đọc Tố Hữu để nghe hắn ta ca tụng:
“…Sáng thêm nữa, đời đời, ngọn lửa
Của Trung Hoa, của chúng ta, tất cả!
Của chúng ta, muôn ngọn lửa hãy lên cao
Cho cả địa cầu thành một ngôi sao!” (Tố Hữu – Đường sang nước bạn –1961)
Kính thưa quý bà con, quý thân hữu!
Để kết luận: phải dứt bỏ thằng Tàu nơi chúng ta.
Chúng ta PHẢI nhứt định không chấp nhận, viết văn tự hoàn toàn bằng chữ Hán, từ quảng cáo trên báo chí, bảng hiệu thương mại. chùa chiền … ở hải ngoại cũng như trong nước,, Các di tích PHẢI được dịch ra quốc ngữ! Và không chấp nhận lễ lạc theo Tàu!
Mong các nhà viết sử, nghiên cứu để phân loại ra những tập tục nào thật sự Việt, những tập tục nào do Tàu …
Mong các nhà viết sử tiếp tục nghiên cứu và đi tìm lại nguồn gốc Văn Hóa Đại Việt : Đạo Việt của Đại Việt với Thờ Cúng Cha mẹ, Thờ cúng Trời đất, Tổ tiên, Đất Nước, Đồng Bào… Ơn Trời Đất, Nghĩa Đồng Bào.
Văn Hóa Đại Việt, lễ nghi Đại Việt, có đầy đủ Thánh Hiền không cứ chi mà phải mượn Khổng Tử, Mạnh Tử của Tàu.
Chừng nào chúng ta còn ca tụng Văn Hóa Khổng Mạnh, chừng nào chúng ta còn truyền tụng, kinh điển những Tam Quốc Chí, những Thủy Hử, chừng nào chúng ta còn diễn, còn giải, còn lấy những tích Tàu làm bài học thì dù có bao nhiêu lần đánh đuổi bọn xâm lược Tàu, chúng ta không dứt điểm được suy nghĩ, ý chí và giấc mộng của người Tàu là luôn luôn xâm chiếm nước ta, vì chúng xem nước ta là đất Tàu đó thôi !
Chúng ta phải có ý chí dứt bỏ thằng Tàu trong con người Việt của chúng ta, thì thằng Tàu mới không đòi chiếm đất Việt.
Hồi Nhơn Sơn, sau tháng tư đen 2019
TS Phan Văn Song