Kính thưa quý bà con, quý thân hữu,
Bốn tuần qua, chúng tôi người viết, được quý bà con cho phép chia sẻ những cái bực mình do chính địch là bọn Tàu Cộng và nhóm nịnh thần Hán Ngụy « nằm vùng » đang rình rập đánh vào cộng đồng Người Việt tỵ nạn chúng ta. Phải, chúng ta đang và vẫn đang tiếp tục đánh nhau với địch. Nước đang mất nhà có thể tan… Nhưng mong rằng, sau cơn mưa trời lại nắng. Suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, bao nhiêu lần Tàu xâm lăng, bao nhiêu lần quân Nam ta đều thắng cả. Do đó, đánh giặc nhưng vẫn, nếu có cơ hôi học hỏi, chung ta bàn tán chia sẻ nhau những bài học chánh trị kinh tế, cơ chế xây dựng. Chúng ta phải nghĩ đến ngày mai, làm sao xây dựng lại nước Việt Nam và con người Việt Nam.
Dân chủ phải là thể chế chánh trị. Nhưng Dân chủ nào ? Hai chế độ không giống ai, Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Việt Cộng Hà nội, đều (cả hai) rêu rao tuyên bố có chế độ Dân Chủ. Thế nhưng trong thực tế, sau 70 năm cầm quyền Miền Bắc, và trên 40 năm cầm quyền cả nước Việt Nam, ai ai cũng biết chế độ quản trị Việt Nam của độc đảng Cộng Sản là một chế độ Độc Tài.
Do đó, bài viết nầy, lần nữa, xin được chia sẻ cùng bà con, thân hữu !
Thưa quý bà con, thưa quý thân hữu !
Trong những bài viết qua, chúng tôi, người viết, thường đề cập đến Con người và Môi trường song hành với Đạo Đức là những yếu tố khả dĩ để Phát triển và Quản trị tốt một quốc gia tiên tiến.
Hiến pháp chỉ là một bản văn, tuy cần thiết, nhưng vẫn chưa đủ (nécessaire et non suffisant) để bảo đảm cho những Tự do thật sự và một nền Dân chủ thực hữu của quốc gia. Rất nhiều chế độ độc tài trên thế giới vẫn dùng những bản Hiến pháp làm chiêu bài, để vay mượn danh nghĩa chánh thống cũng như tánh cách hợp pháp. Những nước có chế độ độc tài toàn trị do độc đảng cầm quyền, như Cộng sản Hà Nội, vẫn thường tự gọi là những “Cộng hòa Dân chủ Nhân dân”. Thậm chí, thế giới lúc bấy giờ cũng vẫn dùng chung một từ tổng hợp là “Khối các Dân chủ Nhân dân”.
Ngày nay, ngay tại các quốc gia tiên tiến, nơi có những Tự do căn bản được áp dụng, nhưng phần lớn việc điều hành quyền lực từ các cơ quan hành chánh hay pháp lý vẫn gợi cho những người quan tâm đến tình trạng Nhơn quyền và Dân chủ không ít nghi ngờ, khiến phải suy nghĩ và e ngại.
Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện (Démocratie directe, démocratie représentative) :
– Khái niệm Dân chủ là một khái niệm trong sáng, nhưng dễ bị lạm dụng khi áp dụng những phương cách thực hiện, trong những thể chế ngày nay.
Định nghĩa của Abraham Lincoln “Dân chủ là do Dân cầm quyền, cho Dân và vì Dân”, bởi thế, chúng ta gọi là Dân chủ trực tiếp. Nghĩa là:
– Người Dân phải cầm quyền trực tiếp, không qua một trung gian nào cả,
– Người Dân cũng vừa là Người Cầm quyền và cũng là Người bị trị (Gouvernant et gouverné),
Nói như vậy, những người sử dụng công quỷ cũng là những người quyết định thâu thuế, và trả thuế. Về mặt lý thuyết thì tạm hiểu, nhưng làm sao áp dụng trên mặt thực hành. Hiện nay,vẫn có một vài thị xã, hay làng xã của Thụy sĩ, vẫn áp dụng cách thức “Trưng cầu dân ý trực tiếp” về một vài tài khoản thuế vụ có tính cách địa phương.
Những quốc gia tiên tiến ngày nay, đa số áp dụng Dân chủ dưới hình thức Dân chủ đại diện (démocratie représentative). Một tấm bình phong cách ly người dân và người cầm quyền (tạm gọi là quan chức cầm quyền, hay gọi chung là nhà cầm quyền): đó là những đại diện dân, do dân bầu, và phát biểu thay dân về những nguyện vọng của người dân.
Đó là một Dân chủ gián tiếp, người dân không có những quyết định hành xử, quản trị đất nước, người dân chỉ tham dự bầu những đại diện thay mình. Thực tiển, dễ thực hiện, nhưng rất có nhiều hạn chế nguy hiểm, càng ngày càng lộ rõ. Bởi lẽ : Đó là
Một “thị trường chánh trị”.
Phải, đó là cái nguy hiểm của ngày nay, đó là do sự bành trướng của một hiện tượng được gọi là “thị trường Chánh trị”. Định nghĩa này được nhóm “public choices”, một nhóm các nhà nghiên cứu, kinh tế gia, chánh trị gia hay xã hội học Âu-Mỹ, theo dõi những cách thức xử thế, quyết định từ các vị lãnh đạo công cộng của quốc gia (nhà cầm quyền, các vị lãnh đạo các nhóm chánh trị, các vị dân cử và các công chức). Những quyết định ấy thường khi thiếu sự chính xác, không trung thực ; bởi lẽ, thay vì các quyết định phải được thoát thai từ kết quả trao đổi giữa hai nhóm người, của hai đối tác, đúng theo luật “cung – cầu”, theo luật “kinh tế thị trường” ; thì ngày nay, những quyết định ấy, lại là những mặc cả, thương thuyết, đã làm mất những “thông tin chính xác, trung thực”, dẫn đến “cái chung chung”, thiếu hẵn phần “trách nhiệm”.
“Thị trường chánh trị” là thị trường của những ứng cử viên để thành các đại diện dân, một bên, và đối với (versus) cử tri đoàn, một bên.
Trên thị trường này, ứng cử viên và các dân cử nắm quyền chủ động. Cũng như một anh nhà buôn, họ đề nghị những “món hàng công cộng” (công viên, trường học, giảm tô thuế, ủng hộ Dân chủ ở VN …) hay những “món hàng chánh trị” (những người mới nhập cư dễ dàng nhập lấy quốc tịch để xử dụng lá phiếu lấy những quyết định cho địa phương, làng xã, nơi mình sanh hoạt và cư ngụ … đổi lấy lá phiếu của người đi bầu của cử tri gốc Việt, gốc Hispanic ở Mỹ, gốc Á-rập ở Pháp…
Và người nào đề nghị nhiều, hứa hẹn nhiều, thì kẻ ấy có cơ may lượm nhiều lá phiếu.
Xin lấy vài thí dụ : các nhà làm chánh trị hứa sẽ bảo vệ con người, tài sản và quyền lợi con người. Nhưng có ai nói đến bảo vệ bằng cách nào, tổn phí là bao nhiêu ? Khi cần lá phiếu, các ứng cử viên thường có những lời hứa với chương trình thực hiện (sẽ) rất dài. Và cùng trong một lúc đó, các người đi bầu, người cử tri, người dân thường, cũng họp nhau lại thảo những đòi hỏi dài, xin thêm phương tiện hổ trợ, tiền bạc, nhơn danh “phúc lợi công cộng” (intérêt général), nhưng thật sự, đó chỉ là những đòi hỏi rất hạn hẹp có tính cách địa phương và đặc biệt
Và cuối cùng, mọi người cùng ngóng cổ chờ quyết định của Nhà nước, vì sự mặc cả, giữa những người muốn “giảm tiền thuế ”, và những nhóm muốn xin “thêm tiền, để thực hiện những đặc lợi và đặc quyền”, hai nhóm này đều là công dân, và cả hai đòi hỏi đều có lý cả. Vậy phải làm thế nào? Chúng ta thường thấy, theo thông lệ, những nhóm đứng ra đòi hỏi thường là những “nhóm có tổ chức”, biết xuống đường đấu tranh, biết la hét để đòi hỏi. Còn nhóm người bị đóng thuế, như tất cả chúng ta, thường thụ động, im lặng, tuy có rên rỉ đấy, nhưng vẫn phải trả thuế đều đều. Khối thiểu số ồn ào sẽ lấn ép khối đa số thầm lặng.
Những nhà làm chánh trị ở các quốc gia tiên tiến xử dụng cái mâu thuẫn ấy để kiếm phiếu, sẵn sàng hứa thực hiện tất cả những yêu cầu, hứa sẽ giảm các loại thuế, tạo một không khí an lành và gợi cho người dân cảm tưởng là có một “ai đó” sẽ hào phóng chi tiền. Giáo sư trường luật Aix –Marseille, Frédéric Martiat từng mô tả hiện tượng ấy vào năm 1968 : “Nhà Nước là cái ảo tưởng xã hội (une fiction sociale) trong con người mà lúc nào cũng mong được sống bám vào những kẻ khác” (L’Etat est une fiction sociale à travers laquelle chacun s’efforce de vivre aux dépens de tous les autres). Và Nhà Nước Bảo Hộ ra đời. (Et l’État Providence naquit).
Khủng hoảng của Nhà Nước
Vì mọi chuyện đều phải do Nhà nước giải quyết, chúng ta đã đâm đầu vào một cuộc khủng hoảng kinh khủng. Cuộc khủng hoảng nầy đang diễn ra tại các nước tiên tiến.
Mong bài nghiên cứu này đóng góp được những suy nghĩ để các nước chậm tiến như Việt Nam, ngày mai không vấp phải.
– Khủng hoảng đầu tiên, là khủng hoảng chánh trị: nếu Nhà Nước là tất cả, các nhà cầm quyền và các nhà làm chánh trị là tất cả, thì “tất cả đó” đều đứng trên Pháp luật (Việt Nam ngày nay, Đảng Cộng sản và Nhà Nước là một, Đảng Cộng Sản đứng trên Pháp luật)
– Khủng hoảng thứ hai, là những giá trị Đạo đức xã hội hoàn toàn bị xáo trộn. Những thành công đều được đánh giá trên kết quả, mà không cần biết kết quả đó có được là do xảo quyệt, do bè phái, hay do tham nhũng. Những giá trị thật sự về Đạo đức con người, về giá trị học hành, về hiểu biết, về tri thức đều không được nhìn nhận. (Việt Nam ngày nay !)
– Khủng hoảng thứ ba, là khủng hoảng kinh tế, của công bị tham nhũng đục khoét, lãng phí, quản trị tồi tệ, yếu kém, và dĩ nhiên mất hiệu năng sản xuất, cộng thêm Pháp luật bị chà đạp, sưu cao, thuế nặng … là những nguyên nhân chính đưa đến trì trệ kinh tế. Rồi nạn thất nghiệp gia tăng, rồi mức tiêu thụ giảm lần, tạo nên cái vòng lẩn quẩn, người nghèo vì thất nghiệp càng nghèo thêm, khiến quỹ xã hội thâm hụt nặng, bởi không đủ thương vụ, nghiệp vụ đóng góp.
– Khủng hoảng thứ tư, là khủng hoảng luật pháp. Nhà Nước không còn đóng vai trò quản trị và trọng tài của những tương quan thương mại hoặc xã hội. Vì Luật pháp bị xâm phạm, bị cưởng hiếp, không còn được tôn trọng, nên những nhà chánh trị lương lẹo với những dân cử để tham nhũng hay ngồi xổm lên pháp luật§ Để rồi … trẻ con các khu nghèo kéo nhau đi “đốt xe” để … giải trí. (Ở Pháp vừa qua).
Những khủng hoảng nhỏ biến thành một cuộc « đại khủng hoảng » nặng nề về thể chế Dân chủ nơi các Nhà Nước tiên tiến. Hậu quả :
– a. – Một cuộc trả lời bằng chân : (exit) bỏ nước ra đi.
– b. – Trả lời bằng phát biểu (voice) la ó, biểu tình, đình công, bạo động.
– c. – Trả lời bằng chịu đựng, sống qua ngày (loyalty), mất ý chí công dân, lơ là quyền phát biểu công dân, lãnh đạm với những cuộc bầu phiếu, bỏ phiếu.
Ba cách trả lời trên không đặt lại vấn đề của Dân chủ đại diện, cũng không làm giảm đi những lố lăng lạm dụng của các tổ chức cầm quyền, có chăng chỉ là những tránh né, chạy quanh. Ngày nay, Dân chủ hay Pháp luật được nói đến nhiều, phải chăng chỉ là một bức màn nhung để che những màn ảo thuật chánh trị đó thôi ?!
Sự chuyển tiếp qua trung gian các xã hội dân sự.
Con đường phân chia biên giới giữa quyền lực của giới cầm quyền và xã hội phải được nới rộng.
Để sanh tồn, quyền lực của công lực phải được giảm bớt, những “công hữu” phải được tư hữu hóa. Quản trị những sở hữu hay công nghiệp quốc gia không còn là nghiệp vụ của Nhà nước nữa. Những xã hội dân sự, dần dần nắm quyền quản trị để thay thế.
Quản trị khai thác, phân phối tài nguyên quốc gia phải được tư hữu hóa !
Quản trị những sở hữu hay tài nguyên có tánh cách thương mại rất dễ dàng cho các xã hội dân sự. Sản xuất xe hơi, quản trị năng lượng, khí đốt, điện lực, chuyên chở, truyền thông, các tư nhơn và các xã hội dân sự biết làm và còn làm giỏi hơn Nhà nước.
Về những phần hành “dịch vụ công cộng” (Services publics) vẫn là phận sự của Nhà Nước ! Vì là Công Bộc, như Tổ chức Giáo dục, Tổ chức Y tế, Tổ chức Hưu Trí, Tổ chức Thể Thao, Tổ chức Văn hóa … đành rằng khó khăn, nhưng nếu biết chuyển hướng khéo và quản trị khéo vẫn có thể chuyển dần cho Tư nhơn.
Nhưng, vẫn còn những bộ phận hoàn toàn không thể chuyển nhượng cho thế giới thương mại : Những “tổ chức dịch vụ xã hội tương tế”, hay “dịch vụ phân phối tương trợ”, gọi chung là “dịch vụ xã hội ” (Sercices sociaux) chủ yếu đối với những gia đình nghèo khổ, giúp đỡ người tàn tật, nghiệp vụ cứu thương, cứu hỏa, bảo vệ con trẻ, tổ chức phòng ngừa du đảng, tệ nạn hút sách … Nếu Nhà Nước không làm thì ai đứng ra làm ? Bảo vệ môi sinh, môi trường, Nhà Nước có thể làm luật, nhưng ai kiểm soát ?
Chúng ta có thể trả lời: hãy để cho những “Xã hội dân sự cộng đồng” (des sociétés civiles communautaires).
“Xã hội dân sự cộng đồng” là những Hiệp hội, hội đoàn có ý kiến trên một vấn đề đặc biệt: Hội gia đình, Hội bảo vệ các người già, Hội bảo vệ phụ nữ chống tệ nạn bị hành hung, Hội bảo vệ trẻ con … Nhà nước và các Tư doanh không thể lo được. Những hội đoàn ấy tạo sự kiểm soát và đi dần đến quản trị hoàn toàn.
Định nghĩa những hội đoàn ấy là “Tương trợ”, “Tự nguyện”, “ Bất vụ lợi”, “Hội tương tế ”
(Solidarité, volontariat, bénévolat, partage, mutualité).
Dĩ nhiên xã hội không thể đòi hỏi những “quý tánh ” ấy. Xã hội phải có những khu vực thương doanh (đa số) và phải có những kiểm soát chế tài pháp lý (càng ít càng tốt).
Chúng tôi nghĩ rằng con người, tức là những công dân và những đoàn thể công dân có thể thay thế Nhà nước điều hành tốt xã hội.
Hãy tổ chức lại tình tương trợ.
“Xã hội chánh trị” đã ngự trị gần một thế kỷ, “Xã hội doanh thương” (la société marchande) và “Xã hội cộng đồng” (la société communautaire) hoàn toàn không có tiếng nói. Đặc biệt tại những quốc gia do độc tài toàn trị cai quản, như Việt Nam. Nhà Nước độc tài đã đè bẹp tất cả những cá nhơn thương nghiệp, hay những “cơ chế trung gian” (les corps intermédiaires). Ngày nay dưới sức bộc phát của kinh tế thị trường, các xã hội doanh thương phục hồi rất nhanh, nhưng trong tình trạng hỗn loạn, vì thiếu một khung pháp luật.
Các công ty quốc doanh được tư hữu hóa khá nhanh và dễ dàng, sự cạnh tranh bắt đầu thực hiện bởi sự thúc đẩy của toàn cầu hóa. Nhưng con người và tâm trạng “cộng đồng” đến chậm hơn.
Bởi lẽ, thời xưa dưới chế độ độc tài toàn trị, quan niệm “tập thể” bị thúc đẩy đến cao độ, nhưng quan niệm ấy chỉ là bề mặt thôi, thật sự lúc bấy giờ, là thời gian của cá thể cao độ, mạnh ai nấy lo, “tôi lo cho tôi và gia đình tôi trước”. Chụp giựt, mạnh ai nấy lo chụp giựt là tâm trạng công dân dưới thời “tập thể” lãnh đạo. Ngày nay, những dấu vết chánh trị ấy vẫn còn, mặc dầu xã hội doanh thương đã hoạt động bình thường. Làm sao có được cái yên tâm để lo cho người khác và lo việc chung ? !
Tạm Kết Luận :
Nói tóm lại , ngay từ bây giờ , phải nghĩ ngay đến :
Một chương trình công dân giáo dục. Những công dân có nhiệt tình, có tinh thần cộng đồng, hãy gánh vác việc tổ chức lại những cơ cấu xã hội và những cơ chế tương trợ cộng đồng.
Thoạt tiên là gia đình, ngày nay, tánh cách gia đình đã bị phá vỡ, cộng đồng gia đình là môi trường tạo sự tương trợ và hòa hợp, không nói đến gia đình là phủ nhận nền tảng của xã hội.
Trong khi chờ đợi một quan niệm mới để tổ chức lại gia đình, chúng ta phải cố gắng đào tạo những đức tánh căn bản để phát triển “những tập tục đời sống hội đoàn”,“những sáng kiến tương trợ” và “những hy sanh cá nhơn”.
Phát huy những đức tánh ấy là thực hiện được những đóng góp của công dân đối với nền dân chủ. Đo đó, thể hiện những “đức tánh dân chủ” của những người công dân mới.
Mong lắm !
Tuần sau : Dân Chủ Tham Dự là một Giải Pháp ?
Hồi Nhơn Son, 07 tháng 11 2019
TS Phan Văn Son