11. GIẢI TỎA AN LỘC, PHẢN CÔNG.
Có lẽ ngay trong giữa khuya 10/5 rạng ngày 11/5 khi được Tướng Hưng báo cáo là địch đang pháo kích với cường độ vô cùng lớn lao và An Lộc sẽ bị tấn kích trong buổi sáng sớm hôm sau khi dứt tiếng pháo… nên Tướng Minh và Bộ Tham mưu Hành quân của ông đã họp khẩn cấp lúc đó để hoạch định sử dụng các đơn vị chưa lâm chiến thi hành ngay kế hoạch cứu nguy cho An Lộc trong ngày hôm sau. Theo nhận định riêng của tôi thì kế hoạch này có hai phần, diễn ra chỉ cách nhau mấy ngày.
Thứ nhất: Tấn công mạnh để “bứng chốt” ở suối Tàu-Ô nhưng thực ra là để kềm SĐ-7/CSBV không cho tăng cường quân lên mặt bắc tập trung truy diệt Lữ đoàn 3 Nhảy Dù hiện đang còn hành quân trong các vùng ấp Đức Vinh và ấp Tân Khai từ 6km đến 10km phía nam An Lộc hay hợp công với các đơn vị chủ lực khác dứt điểm An Lộc. Thứ hai: Khi quân CSBV tấn công vào An Lộc đợt 3 này thì ở vùng hai ấp nói trên có hai Trung đoàn 165 và 141 của SĐ-7/CSBV cộng thêm Trung đoàn 271 của SĐ-9/CS. Tất nhiên chúng phải rút bớt đơn vị sau trả về sư đoàn gốc để tấn công An Lộc, chỉ còn lại ở chiến trường phía nam này hai trung đoàn của SĐ-7/CSBV đã đang còn đánh nhau dữ dội với LĐ3ND và tất nhiên là đã thấm mệt vì tổn thất bởi các trận chạm súng và bởi hỏa lực không yểm quân Dù của KQVN và KLHK, nhất định là đã yếu đi. Nay Tướng Minh đổ thêm một cánh quân mạnh vào Tân Khai, tức nhiên lấy mạnh đánh yếu, vừa giải toả áp lực cho LĐ3ND, vừa có thể đánh thốc lên tiến thằng vào An Lộc bắt tay với các cánh quân phòng thủ An Lộc của Tướng Hưng mà gần nhất ở mặt nam là cánh quân của LĐ1ND cuả Đại tá Lê Quang Lưỡng. TWC/MN đã hết quân, không thể truy cản được cánh quân mới nhập trận nầy.
Phần thứ nhất cuả Kế hoạch được thưc hiện vào sáng tinh sương ngày 11/5/1972.
Trung đoàn 32 của SĐ21BB được tăng cường hai Chi đoàn chiến xa 1/5 và 1/18, cộng thêm Chi đoàn 1/2 Thiết kỵ, chia làm hai mũi, xuất phát từ Chơn Thành cập theo hai bên trục QL-13 tấn công mạnh vào chốt chặn ở đoạn đường dài hơn 3 cây số khu vực suối Tàu-Ô. (Quận lỵ Chơn Thành được giao cho Trung đoàn 9/SĐ5BB (-) –mới được tái lập với hai tiểu đoàn, tạm thời đặt trực thuộc hệ chỉ huy hành quân của SĐ21BB, bảo vệ trục QL-13 từ Lai Khê lên Chơn Thành). Ở mặt trận Suối Tàu-Ô, cuộc chạm súng đã diễn ra vô cùng dữ dội. Cần nói là trước khi quân của Trung đoàn 32 tiến đánh các mục tiêu, các chốt chặn liên hợp của Trung đoàn 209/SĐ-7/CSBV tăng cường Trung đoàn 101 Địa phương, một đại đội trinh sát của SĐ-7/CSVB, Đại đội C41 Chống Chiến xa, một đại đội phòng không, tất cả ước chừng hơn 1,200 cán binh –đóng chốt trong hai căn cứ với hầm hố kiên cố ở hai bên đường do các đơn vị HK để lại, kết hợp với các địa đạo sâu chi chít và hệ thống các “kiềng” dày đặc– đã bị dội hàng chục phi xuất B-52, và mỗi lần bị tấn kích chúng đã phải hứng hàng vài chục phi xuất không kích với bom, đạn, kinh hồn… của KQVN và KLHK mà chắc chắn rằng tổn thất không nhỏ. Có lẽ chúng chỉ thêm quân từng toán nhỏ và tiếp tế vào đêm… nhưng các chốt đó vẫn tồn tại. Cũng dĩ nhiên là chúng cũng không thể nhích chân để chuyển lên phía bắc để tiếp tay với các đơn vị khác. Và như vậy, Tướng Minh cũng thực hiện được một phần kế hoạch của ông, mặc dù sau đó đã phải tăng viện thêm cho Trung đoàn 32 ba Tiểu đoàn 65,73 và 84 BĐQ…
Phần thứ hai của Kế hoạch được thực hiện vào ngày 14/5/1972.
Trong ngày 11/5 khi Trung đoàn 15 cuả SĐ9BB đến Lai Khê, Trung tướng Minh định đưa vào tăng cường cho Tướng Hưng, bằng trực thăng vận vào thẳng An Lộc, nhưng trong đêm 10 rạng 11/5 CSBV pháo kích khủng khiếp vào An Lộc và biết rằng sáng sớm chúng sẽ tấn công vào các tuyến phòng thủ thành phố bằng bộ binh và chiến xa nên Trung tướng Minh đã thay đổi chiến thuật: Vẫn đưa trung đoàn nầy và một trung đoàn khác vào An Lộc nhưng bằng cách khác. Sau mấy ngày chuẩn bị, mặc dù sau hai ngày 11 và 12/5 các mũi tấn công của CSBV và các tuyến phòng thủ đã bị chặn đứng và mức độ tấn kích của chúng cũng giảm đi, nhưng kế hoạch vẫn được tiến hành. Hai cánh quân được chuẩn bị để đưa vào chiến trường:
Cánh quân thứ nhất là Chiến đoàn 15 với các Tiều đoàn 1, 2, 3 và Đại đội 15 Trinh Sát trực thuộc, tăng cường Thiết đoàn 9 Kỵ binh và Pháo đội 93 Pháo binh, do Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy, chia làm ba đợt, trước tiên vào Tân Khai. Sau đó sẽ dùng nơi nầy làm “bàn đạp” tiến lên An Lộc. Đợt thứ nhất xuất phát gồm Thiết đoàn 9 Kỵ binh và Tiểu đoàn 1/15 tùng thiết kéo theo Pháo đội 93, xuất phát từ Chơn Thành, hành quân bộ tiến lên hướng bắc, đến Ngã ba Ngọc Lầu, 2km bắc Chơn Thành bọc vòng ra phía đông QL-13, nội trong ngày 15/5 đã vào ấp Tân Khai và thiết lập căn cứ hỏa lực Long Phi. Đợt thứ hai, Tiểu đoàn 2/15 được trực thăng vận xuống bãi đáp phía tây cách Tân Khai chừng 1km, tiến vào ấp trong ngày 16/5. Sau đó Bộ Chỉ huy Chiến đoàn đổ xuống căn cứ hỏa lực trong ấp. Đợt thứ ba, Tiểu đoàn 3/15 và ĐĐ15TS cũng được trực thăng vận đổ xuống phía đông, rồi tiến vảo Tân Khai. Các cuộc đổ quân an toàn.
Cánh quân thứ hai là Trung đoàn 33/SĐ21/BB với các tiểu đoàn bộ binh và đại đội trinh sát trực thuộc, do Trung tá Nguyễn Viết Cần chỉ huy, cũng sẽ vào Tân Khai. Từ đó sẽ tiến lên An Lộc song song với cánh quân thứ nhất. Ngày 17/5 một tiểu đoàn của Trung đoàn nầy được trực thăng vận vào căn cứ Long Phi để bảo vệ đơn vị pháo binh và thay cho Tiểu đoàn 2/15 rút ra khỏi căn cứ và di chuyển quân bên ngoài tiếp nối với Tiểu đoàn 3/15. Ngày 18/5 Trung đoàn 33 (-) xuất phát từ một căn cứ hỏa lực cách Ngã ba Ngọc Lầu 1km và cách Chơn Thành 3km về phía bắc, cũng bọc ra hướng đông trục lộ, theo đường tiến quân của Thiết đoàn 9 Kỵ binh và Tiểu đoàn 1/15 trong mấy ngày trước, vào Tân Khai trong ngày đó. Như vậy, đến ngày 18/5 nầy coi như cả hai cánh quân giải toả An Lộc đã đến được địa điểm tập trung và xuất phát mới chỉ cách An Lộc về phía nam chừng 10km.
Nhưng 10 cây số nầy là đoạn đường sống chết vô cùng nguy hiểm cho cả hai cánh quân nói trên nếu không có một cánh quân bạn –tái nhập cuộc– làm đảo lộn cục diện ở đoạn đường nầy và cục diện chiến trường An Lộc, vì đã đánh một trận để đời làm cho… quân CSBV thực sự kiệt lực.
Xin nhắc lại diễn tiến:
Ngày 18/5, khi Trung đoàn 33 (-) của SĐ21BB đến Tân Khai thì Chiến đoàn 15 của Trung tá Hồ Ngọc Cẩn bắt đầu xuất phá tiến lên An Lộc, với toàn bộ 3 tiểu đoàn, đại đội trinh sát và nguyên vẹn Thiết đoàn 9 Kỵ binh; chỉ để lại Trung đoàn phó Trung đoàn 15 chỉ huy căn cứ pháo yểm Long Phi với 4 khẩu đại bác 105 ly và 2 khẩu 155 ly và một tiểu đoàn của Trung đoàn 33/SĐ21BB, đến yểm trợ và bảo vệ căn cứ từ hôm trước. Như vậy, khi xuất phát từ Tân Khai tiến lên An Lộc, Trung đoàn 33 (-) của Trung tá Nguyễn Viết Cần chỉ huy có hai tiểu đoàn bộ binh và đại đội trinh sát trực thuộc, không có đơn vị chiến xa cùng theo. Ở đây có một chi tiết quan trọng cần nêu lên là hai cánh quân nầy cùng tiến lên giải tỏa hay bắt tay với các đơn vị phòng thủ An Lộc không có một cấp chỉ huy thống nhất, cấp bậc cao hơn –tức là cấp đại tá– để chỉ đạo hai ông trung tá chỉ huy hai cánh quân khác nhau nhưng cùng chung một nhiệm vụ. Dĩ nhiên, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh SĐ21BB chỉ huy toàn thể các cánh quân đó, nhưng ông ở Lai Khê lại còn phải điều động các cánh quân khác nữa, nên cần… phải chỉ định một vị chỉ huy và ban tham mưu của vị nầy để trực tiếp chỉ huy Chiến đoàn 15 và Trung đoàn 33. Cũng cần nên nói là sao chỉ tổ chức “một chiến đoàn” quá nhiều quân và “một trung đoàn” trừ bớt một tiểu đoàn trong khi hai cánh quân nầy cùng song song tiến theo trục lộ: Chiến đoàn 15 ở hướng tây và Trung đoàn 33 (-) ở hướng đông? Do đó, trước tiên là thiếu sự chỉ huy phối hợp, thiếu đồng nhất –cánh mạnh, cánh yếu. Thứ đến, kế hoạch hành quân không được phối hợp chặt chẽ, thiếu yểm trợ hữu hiệu, và có thể thiếu cả sự tương trợ khi cần đến nhau. Tóm lại những quyết định tại chỗ của một cấp chỉ huy thống nhất rất cần thiết cho một cuộc hành quân phối hợp có nhiều đơn vị khác nhau… Dựa vào “logic” mà nói thì nhận định trên không sai, nhưng hình ở trận lần thứ hai đổ quân vào Tân Khai nầy tình thế trận địa có vẻ phù hợp với tổ chức các cánh hành quân như Tướng Minh hay Tướng Nghi đã làm. Vì cánh quân sườn tây trục lộ tiến lên An Lộc của Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chạm địch dữ dội, mạnh nhiều lần hơn so với cánh quân của Trung tá Nguyễn Viết Cần ở sườn đông trục lộ.
Đêm 18/5 địch bắt đầu pháo kích vào căn cứ Long Phi. Rốt cục, Trung tá Hồ Ngọc Cẩn quyết định để thêm Tiểu đoàn 1/15 ở lại phối hợp với tiểu đoàn có sẵn của Trung đoàn 33, thay nhau bung ra để hạn chế bớt việc địch pháo bắn súng cối vào căn cứ hỏa lực quan trọng này.
Cánh quân của Chiến đoàn 15 từ lúc xuất phát đã bị địch đánh nhiều trận lớn, nhất là bị địch bám sát bắn súng cối liên tục trong các ngày 19, 20 và 21/5, như trước đây chúng đã dùng để đối phó với quân Nhảy Dù trong vùng này. Trận chạm súng mạnh nhất diễn ra ở ấp Đức Vinh. Đây là vùng trận địa của Trung đoàn 141/SĐ-7/CSBV. Mặc dù vậy, đến sáng ngày 22/5 cánh quân nầy đã tiến đến một địa điểm khoảng 1km hướng nam xã Thanh Bình. Xã nầy nằm bên ngoải vòng đai phòng thủ hướng tây nam chỉ cách thị xã tỉnh ly An Lộc chừng 2km. Như vậy là rất gần An Lộc, nhưng bị Trung đoàn 141 chận đánh dữ không tiến lên được. Các Tiểu đoàn 2/15, 3/15, Đại đội 15 Trinh Sát và Bộ Chỉ huy Chiến đoàn bị pháo dữ dội, bị xung kích bằng bộ binh có chiến xa phối hợp, nhưng đã đẩy lui mọi cuộc tấn kích đó. Tuy vậy, tiến không được, thối cũng không xong. Chiến đoàn đã bị bao vây kể từ ngày 23/5. Chiến sĩ chết phải chôn tại chỗ, chiến sĩ bị thương không tản thương được. Trong mấy ngày liền phải được tiếp tế thực phẩm và đạn dược bằng thả dù. Trực thăng cũng không đáp được. Hàng ngày chỉ có vài chục phi xuất không yểm, oanh kích và thả bom là có kết quả. Thiết đoàn 9 tiến trên trục QL-13, từ Tân Khai lên Đức Vinh, theo sau Chiến đoàn, không bị tấn công. Chiều ngày 23/5 Trung tá Cẩn quyết định mở đường máu bằng Thiết quân vận của Thiết đoàn này tản thương cả trăm thương binh về Tân Khai. Thành công. Nhưng ngày hôm sau, 24/5 khi trở lên nơi đóng quân của Chiến đoàn, qua khỏi ấp Đức Vinh, Thiết đoàn bị một đơn vị cấp tiểu đoàn và một đơn vị chống tăng của TRĐ141 phục kích, tổn thất nặng, hàng chục chiến sĩ hi sinh hàng chục mất tích, gần 80 bị thương, 22 Thiết quân vận M-113 bị B-40, B-41 vả hoả tiễn AT-3 Sagger bắn hạ. Chiến đoàn 15 phải đưa một đơn vị bộ yểm trợ và phối hợp với Thiết đoàn 9 Kỵ binh mở đường trở về căn cứ Long Phi, ở Tân Khai. Sau đó, đại bộ phận chiến sĩ bộ binh của Chiến đoàn trụ lại địa điểm đóng quân bên ngoài xã Thanh Bình, tổ chức lại đơn vị. Toàn bộ chỉ còn gần 350 chiến sĩ chiến đấu được. Ngày 25/5 chiến đoàn nầy lại đánh thốc lên An Lộc, nhưng không tiến lên nỗi. Không yểm VNCH và KLHK đã trở nên tối cần hơn bao giờ… Đã có hàng trăm phi xuất ngày đó và mẫy ngày tiếp theo.
Cánh quân thứ hai, Trung đoàn 33 (-) của Trung tá Nguyễn Viết Cần lúc đó bắt tay với Trung đoàn 31/SĐ21BB (không nhớ tên Trung đoàn trưởng) –trước đã được đưa vào tăng cường cho Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù trong vùng ấp Đức Vinh– khi quân Dù rút quân, vẫn bám trụ trong vùng nầy. Ngày hôm sau, Trung đoàn 33 tiến lên hướng bắc, Trung đoàn 31 vẫn tiếp tục được lệnh hoạt động trong địa bàn cũ vùng phía đông Đức Vinh. Trung đoàn 33 vừa qua khỏi đông bắc ấp Đức Vinh bị Trung đoàn 165/SĐ-7/CSBV chận đánh. Nổ lực đánh thốc lên phía bắc của cánh quân này ngày 31/5/1972, cũng không thành công. Tổn thất của địch lớn bởi hoả lực không yểm của KQVN và KLHK nhất là là trực thăng võ trang Cobra HK rất nhanh với các dàn đại liên bắn chính xác. Cánh quân nầy của Trung tá Nguyễn Viết Cần tránh không khỏi tổn thất, nhất là bị pháo kích, nhiều nhất vẫn là các loại súng cối 61 ly, 82 ly và loại hoả tiễn 122 ly. Chiến sĩ bị thương đã lên đến hơn 200. Không ghi nhận rõ bao nhiêu chiến sĩ hi sinh và mất tích.
Trong bốn năm ngày kế tiếp cả hai cánh quân của hai ông Cẩn và Cần còn tiếp tục chịu nhiều trận tấn công xung kích bộ và chiến xa của hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV. Số binh sĩ thương vong của hai cánh quân bạn càng nhiều hơn, nhưng vẫn không thể tản thương được vì trực thăng không thể đáp xuống các vị trí đóng quân dã ngoại của các cánh quân này. Màn lưới phòng không của chúng dày đặc, nguy hiểm nhất là loại hoả tiễn SA-7. Trực thăng không thể đáp được. Chỉ có thể nhờ vào không yểm mà thôi, kể cả những boxes B-52…
Vào những giờ phút khó khăn, gay cấn nhất của hai cánh quân “Giải toả An Lộc” nói trên thì đơn vị cứu tinh tái xuất hiện ở chiến trường nam An Lộc nầy. Đó là Tiểu đoàn 6 Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, do Trung tá Nguyễn văn Đỉnh chỉ huy.
Nhớ lại, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh trong tháng 4/1972, đã chỉ huy Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đổ quân vào tăng cường An Lộc, chiếm hai cao điểm đông nam An Lộc, Đồi Gió và Đồi 169. Khi đang đóng quân tại Srok Ton Cui gần đó thì đêm 20/4 rạng ngày 21/4 cả ba địa điểm này bị hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV và Trung đoàn 209 của SĐ-5/CS tràn ngập, ông phải chỉ huy hai đại đội đánh mở đường máu rút xuống ven Sông Bé và được trực thăng đón về Lai Khê với hơn một trăm chiến sĩ Dù. Ngày đó địch đã tấn công đơn vị của ông với lực lượng 6/1 (2,400/400). Phải đánh mở đường máu mà thôi. Sau hơn một tháng, Tiểu đoàn của ông được bổ sung với quân số thặng dư của Sư đoàn Nhảy Dù gồm các chiến sĩ Dù của tất cả các đơn vị Dù khác bị thương trong nhiểu trận đánh, hồi phục sau thời gian trị bịnh –trong đó có nhiều sĩ quan các cấp dày dạn chiến trường– và một số tân binh tình nguyện, thường là những thanh niên can đảm, nên khi tái thành lập, Tiểu đoàn đã có khả năng tác chiến như các đơn vị Dù khác. Trở lại chiến trường An Lộc để tái sát nhập với Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng. Tướng Minh giao trách nhiệm cho Trung tá Đỉnh đánh giải vây cho hai cánh quân của hai ông Cẩn và Cần, trước khi tiểu đoàn Dù nầy vào An Lộc. Nên khi vào trận địa, Trung tá Đỉnh còn dẫn theo đơn vị của mình 300 quân bộ binh bổ sung cho Chiến đoàn 15 của Trung tá Hồ Ngọc Cẩn.
Ngày 4 tháng 6, 1972 TĐ6ND được trực thăng vận đổ quân ở một bãi đáp cách căn cứ pháo yểm Long Phi ở Tân Khai chừng 2km, hướng đông bắc. Tiểu đoàn cập theo hướng đông QL-13 tiến lên hướng bắc, qua khỏi ấp Đức Vinh, bất thình lình đánh thúc vào ngang hông của Trung đoàn 165/SĐ-7/CSBV lúc đó đang đối đầu với Trung đoàn 33 của Trung tá Nguyễn Viết Cần. Đơn vị địch tổn thất nặng phải bỏ trận địa rút lên hướng bắc vùng Đồi Gió và Đồi 169. Áp lực địch không còn, các đơn vị của Trung tá Cần có thể dọn bãi đáp cho trực thăng tản thương hơn hai trăm thương binh ra khỏi trận địa và đơn vị tiếp tục vượt qua Đồn điền cao su Xa Trạch vào ấp Đồng Phất 1, chừng 4km nam An Lộc. Ngày 6/6, đơn vị Dù của Trung tá Đỉnh tiếp tục tiến qua hướng tây trục lộ, một lần nữa đánh ngang hông Trung đoàn 141/SĐ-7/CSBV, giải vây, bắt tay với Chiến đoàn 15 và giao 300 quân bổ sung cho Trung tá Cần. Đơn vị của ông Cần cũng ngay sau đó cũng dọn bãi đáp cho trực thăng tản thương gần 150 thương binh (bản đồ # 8). TĐ6ND là cứu tinh của hai cánh quân miền Tây này ở mặt trận nam An Lộc. Đơn vị của Trung tá Cẩn đã khoẻ hơn… Người anh hùng, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh, Tiểu đoàn trưởng TĐ6ND, đã lập kỳ tích lớn lao đánh những trận quyết định làm cho hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV bị thiệt hại thật nặng –gần như tan rã– báo được mối hận tháng trước bị hai đơn vị cộng sản nầy đánh xé đôi đơn vị cuả mình ở vùng Srok Ton Cui và Đồi Gió.
Ngày 8/6, hai đơn vị của hai ông trung tá Dù và bộ binh nầy thành hai mũi nhọn song song cùng tiến lên An Lộc. Trong buổi sáng đó, khi TĐ6ND tiến đến phía đông xã Thanh Bình, lại lần nữa chạm súng dữ dội với một đơn vị của Trung đoàn 141, địch tháo chạy, bỏ lại trận địa trên 70 xác chết và hơn 30 súng cộng đồng và cá nhân. TĐ6ND tổn thất 11 chiến sĩ hi sinh và hơn 50 bị thương. Sau đó tiểu đoàn này của Trung tá Đỉnh tiế́p tục tiến qua đồn điền Xa Cam và bắt tay với TĐ8ND của Trung tá Văn Bá Ninh. Trung đoàn 15 tiến theo sau và đóng quân bên ngoài An Lộc với thiệt hại trên 150 chiến sĩ hi sinh, gần 600 bị thương và trên 30 mất tích, nhưng cũng đã hạ tại trận trên 300 cán binh, thu hơn hàng trăm vũ khí cộng đồng và cá nhân, và bắn cháy 2 chiến xa của quân CSBV từ khi đổ quân vào Tân Khai và tiến lên An Lộc.
Trung đoàn 33 cũng đã tiến qua khỏi ấp Đồng Phất 1 và chạm khá nặng với một đơn vị địch quãng giữa đường khi tiến lên ấp Đồng Phất 2. Tiếc thay, khi đã đẩy lui được mọi cuộc tấn công của địch quân và vào đóng quân tại ấp này, đến ngày 29/6/72 Trung tá Trung đoàn trưởng Nguyễn Viết Cần hi sinh trong một đợt pháo kích của địch quân. Ông được truy thăng Đại tá. Nếu ở miền Đông gia đình “Đỗ Cao…” có hai người con hi sinh cho QLVNCH là Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh QĐ III & V3CT và em ruột là Thiếu tá Đỗ Cao Luận thì ở miền Tây gia đình “Nguyễn Viết…” cũng có hai sĩ quan một cấp Tướng và một cấp Tá hi sinh trên chiến trường làm rạng rỡ dòng tộc là Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh QĐ IV& V4CT và em ruột là Đại tá Nguyễn Viết Cẩn. Còn bao nhiêu gia đình nữa có hai hoặc ba người con hi sinh ở chiến địa cho miền Nam tự do?.. Thương cảm biết bao!
Từ ngày 8/6 khi sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ hai quân TĐ6ND và Trung đoàn 15 tay bắt mặt mừng với các chiến sĩ phòng thủ An Lộc thì cục diện chiến trường này đã hoàn toàn thay đổi. Trong thành phố An Lộc, Tướng Lê văn Hưng ra lệnh cho các cánh quân phòng thủ phản công đánh chiếm lại các khu vực ở các tuyến đã bị quân CSBV chiếm trong các trận đánh trước.
Tuyến hướng Tây, Trung đoàn 7/SĐ5BB chiếm lại khu vực trại giam tỉnh ra cổng Phú Lố và trọn con đường dài Hoàng Hoa Thám bọc quanh phía tây thị xã. Tuyến phía bắc Liên đoàn 81/BCND tái chiếm lại toàn bộ khu vực thương mại bắc thành phố và Sân bay Đồng Long, Tuyến phía đông Chiến đoàn 3/BĐQ chiếm trọn lại tuyến cũ trên Đại Lộ Nguyễn Du, bung ra xa khỏi đường rầy xe lửa đến cổng Quản Lợi. Đến quá trưa ngày 12/6 tàn quân của các đơn vị địch không kịp rút chạy hay bỏ trốn đều bị hạ. Tuyến phía nam thị xã, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vẫn giữ chặt chẽ từ lâu, sân bay trực thăng tạm ở đầu xa lộ bắt đầu hoạt đông lại từ đầu tháng 6, khi các cánh quân từ Tân Khai tiến lên đang đánh nhau với các đơn vị địch (bản đồ # 7). Từ khi hai cánh quân của TĐ6ND và Trung đoàn 15/SĐ9BB vào đến vòng đai An Lộc và bắt tay với TĐ8ND, thì đã có rất nhiều loại trực thăng chở quân đến, tải thương đi, khá đều đặn, tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn còn những quả pháo từ xa rót vào. Điều đáng nêu lên là trong ngày 13/6 Trung tướng Nguyễn văn Minh ra lệnh cho SĐ18BB đưa trước Trung đoàn 48 trực thuộc vào An Lộc và đánh chiếm lại hai cao điểm đông nam thị xã là Đồi Gió và Đồi 169 và trấn đóng trong khu vực nầy.
Đến hết ngày này coi như thành phố An Lộc, tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long hoàn toàn được giải toả, Saigòn và Washington không còn bận tâm lo lắng nhiều nữa. Hànội đã vuột mất thành phố này, không như chúng từng tuyến bố. Kế hoạch về quân sự và chính trị của CSVN đã hoàn toàn thất bại.
Ngày kế tiếp, 14/6/1972, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, gởi công điện khen ngợi các Tướng Tư lệnh QĐIII & V3CT, Tướng Tư lệnh SĐ5BB, Tướng Tư lệnh SĐ21BB và toàn thể các đơn vị trưởng và chiến sĩ các cấp của tất cả các đơn vị phòng thủ và khai thông QL-13.
Trên thực tế, con đường bộ từ Chơn Thành lên đến Tân Khai đã không thể nối liền được. Trung đoàn 32/SĐ21BB bị thiệt hại nặng ở khu vực chốt chặn suối Tàu-Ô, phải đưa về SĐ25BB để bổ sung và sư đoàn nầy đưa Trung đoàn 46 trực thuộc vào thay thế để tiếp tục “bứng” chốt ở đó. Ở đoạn trên, các Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV sau mấy trận đánh với Chiến đoàn 15, Trung đoàn 33 và TĐ6ND trong tuần lễ trước, tuy bị tổn thất nặng nề về vũ khí và nhân mạng, nhưng ngày 17/6 đã tập trung trong vùng ngoại vi Tân Khai, tổ chức thành cả hàng chục địa điểm phòng không và pháo với ý định dứt điểm căn cứ hóa lực Phi Long của Chiến đoàn 15 ở Tân Khai. Tướng Nghi, Tư lệnh SĐ21BB phải điều động Trung đoàn 31 từ ngoại vi ấp Đức Vinh quay về, phối hợp với hai tiểu đoàn bộ binh và Thiết đoàn 9 Kỵ binh (-) trong căn cứ để bảo vệ căn cứ hoả lực nầy. Ngày 18/6 Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng được lệnh xuất phái ra khỏi SĐ5BB rời chiến trường An Lộc, di chuyển hành quân xuống Tân Khai và lập thêm thành tích đánh một trận lớn nữa, hạ gần 600 quân của hai Trung đoàn nói trên của SĐ-7/CSBV –bỏ xác tại trận– và tịch thu trên 70 súng đủ loại, trong đó cả nhiều loại đại liên phòng không. Đó là trận đánh lớn cuối cùng của mặt trận Binh Long mà Lữ đoàn cứu tinh nầy đã thực hiện. Sau đó tất cả các đơn vị Dù của Đại tá LQL được trực thăng vận về Chơn Thành và trở về Saigòn bổ sung rồi tăng viện cho QĐI & V1CT. Tàn quân của các trung đoàn CSBV rút về tăng cường chốt chặn Tàu-Ô. Coi như SĐ-7/CSBV đã mất ba phần tư nhân lực và phân nửa vũ khí ở chiến trường nam An Lộc và trên QL-13 mặc dù chúng vẫn giữ chặt được chốt chặn Tàu-Ô này trong khi các tướng chỉ huy của chúng ở TWC/MN đã để thua một cuộc chiến lớn nhất trong thời điểm đó.
Chiến thắng ở Bình Long là điều khẳng định của các tướng lãnh, các cấp chỉ huy đơn vị và chiến sĩ phòng thủ và tiếp ứng An Lộc. Nhưng trên hết vẫn do tinh thần “quyết tử” của những người giữ thành từ ông tướng đến một chiến sĩ vô danh như một nghĩa quân, một địa phương quân, một cảnh sát, hay ngay cả một cư dân, một cậu bé nhỏ tên Đoàn văn Bình từng xin Đại tá Trần văn Nhựt súng để “bắn xe tăng” địch, hoặc giả như một cô thơ ký hành chánh tỉnh chạy giặc ẩn trú trong khu vực của LĐ81/BCND đã viết hai câu đối ca ngợi chiến sĩ của đơn vị thiện chiến này “An Lộc địa sử ghi chiến tích. Biệt Kích Dù vị quốc vong thân.” Như vậy cô thư ký nầy cũng đã tham dự vào chiến công giữ vững An Lộc. Các tỉnh thành miền Đông, miền Tây, ngay cả Saigòn bừng bừng tin chiến thắng, đến chị em bán hàng trong Chợ Bến Thành và các chợ búa khác ở Saigòn cũng biết “Tướng Hưng tử thủ và chiến thắng An Lộc”. Hình như ít ai biết “giữ được An Lộc, đánh được Tướng Trần văn Trà là công lớn của vị Tướng cầm quân hữu tài, túc trí, Nguyễn văn Minh, Tư lệnh QĐIII & V3CT”. Và chính vì tiếng vọng xa của Hưng đã làm… hại ông cộng thêm một sự kiện khác diễn ra vào những ngày chót chiến thắng đã làm cho binh nghiệp của ông không còn hanh thông như trước nữa. Tôi sẽ nói… nhưng nên nói sao cho phải lẽ trước, sau.
Trước tiên là mấy ông tướng cầm quân TWC/MN tức ấm ức, nhất là Tướng Trần văn Trà nổi danh, vì biết sẽ thua ở An Lộc, nhưng vì Chiến dịch mùa Hè năm 1972 đó của Bộ Chính Trị Đảng và Quân Ủy Trung Ương quyết nghị và chỉ đạo chưa ngã ngũ ở Vùng 1 và Vùng 2 Chiến Thuật, nên, cũng giống như các võ sĩ thượng đài có tiếng, chẳng lẽ… mới bị đấm một vài “cú” vào mặt ngả ngữa mà không cọ cạy tay chân thì người ta tưởng là chết gục rồi, nên mấy ảnh đành gượng dậy –từ cuối tháng 5/1972 và tiếp theo từ trung tuần tháng 6/1972– đánh qua Phước Long, đấm qua Xuyên Mộc, Đất Đỏ tỉnh Phước Tuy, đấm xuống Đức Huê, tỉnh Hậu Nghĩa và còn đánh càn xuống Cái Bè, Cai Lậy tỉnh Định Tường, Mộc Hoá, tỉnh Kiến Tường của Vùng 4 CT. Ở mấy nơi thuộc lãnh thổ Vùng 3 Chiến Thuật thì Tướng Minh biết rồi và đã có lực lượng trừ bị đánh trả. Còn sở dĩ Tướng Trà cho đánh lan xuống Vùng 4 là vì, tuy trong chiến dịch này ông ta là Tư lệnh Tiền phương của BTL/TWC/MN, nhưng trước đó là Tư lệnh Mặt Trận B-2, mà theo tổ chức của CSBV, gồm cả lãnh thổ V3CT và V4CT của QLVNCH, nên lập kế hoạch đánh khắp… nơi cho mặt trận nó rộng lớn. Đánh thì đánh nhưng ở đâu thì mùa Hè năm đó ông Trần văn Trà cũng thua thôi. Lý do là vì TWC/MN chỉ có mấy đơn vị bộ chiến chủ lực, Sư đoàn 5, 7, 9 và Sư đoàn mới thành lập C30B, còn một số đơn vị địa phương cấp trung đoàn hay tiểu đoàn. Các đơn vị địa phương CS không ai coi ra gì, chủ lực thì, nói riêng trong mùa Hè đó, chỉ có SĐ-7/CSBV và Sư đoàn 69 Pháo là các lò nướng rụt rịt qua lại khá lâu tại chiến trường Binh Long-An Lộc chịu… đốt, còn các đại đơn vị khác thì như những chiếc lò nướng lớn, di chuyển loanh quanh đông tây nam bắc, mà bao nhiêu lớp người “sinh Bắc, tử Nam” đưa từ ngoài ấy vào đều chung vào các lò… đó để nướng, hết lớp nầy đến lớp khác… Chết thì châm… thêm. Càng châm thì càng chết. Vậy mới đúng nghĩa với câu “dĩ ngôn” rất ư là… thản nhiên của các “lãnh tụ” Đảng CSVN khuyến dụ nhân dân miền Bắc… ái quốc, “chống Mỹ cứu nước” và “giải phóng nhân dân miền Nam” v.v.
Kế tiếp là phải nói đến chiến thắng của quân dân ở An Lộc chẳng những tạo niềm tin lớn lao trong mọi tầng lớp trong quần chúng các tỉnh miền Nam mà còn vang xa đến tận nhiều nơi trên thế giới, những chiến lược gia lỗi lạc như Tướng Moshi Dayan của Do Thái, đã đến Nam Viêt Nam –như nói ở trên– để tìm hiểu bằng cách nào mà quân phòng thủ miền Nam trong một thành nhỏ nầy lại có thể chiến thắng được đạo quân thiện chiến cuả Võ Nguyên Giáp ở Điện Biên Phủ… nhất là Sir Robert Thompson, nhà chiến lược nổi tiếng của Anh Quốc –lúc đó đang là cố vấn đặc biệt cho TT. Nixon– cũng được Tướng Hollingsworth hướng dẫn vào thị xã An Lộc trong ngày 15/6/1972 và được Tướng Hưng đưa đi quan sát sự đổ nát gẩn như hoàn toàn cuả thành phố và một số xác của các chiến xa CSBV ở khắp các tuyến phòng thủ… đã vô cùng ngạc nhiên về sức chiến đấu, lòng can đảm và sự chịu đựng cuả chiến sĩ phòng thủ An Lộc. Ông cho rằng chiến công của chiến sĩ An Lộc trong trận chiến nầy lớn lao hơn ĐBP rất nhiều và tỏ ra khâm phục các tướng, tá, các cấp chỉ huy và chiến sĩ phòng thủ. Hình như chưa cỏ một nơi nào mà sĩ quan và binh sĩ ôm vũ khi rượt bắn xe tăng và hạ hầu hết bất cứ chiến xa nào đã vào thành phố… Tiếng vang chiến thắng An Lộc cũng đến thủ đô các nước Nam Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân. nên BTTM/QLVNCH định thành lập một phái đoàn gồm các chiến sĩ anh hùng ở mặt trận nầy thăm viếng và thuyết trình “Trận An Lộc” ở Đài Bắc và Hán Thành. Đây là việc làm tốt để biểu dương thành tích của QLVNCH.
Ngày hôm sau, 16/6 Trung tướng Nguyễn văn Minh mới vào thị sát và ủy lạo chiến sĩ phòng thủ An Lộc. Ông được hoan nghinh lắm và rất… lắm lắm bởi chiến sĩ Trung đoàn 8, nhất là của Đại tá Trung đoàn trưởng Mạch văn Trường. Đêm đó ai nghe Đài Phát thanh QĐ sẽ được nghe ông MVT nói là hằng ngày vị Tướng Tư lệnh nầy đều bay trên nền trời An Lộc để trực tiếp chỉ huy, khích lệ và khen ngợi, nâng cao tinh thần chiến đấu… của chiến sĩ và còn cho thả dù… thịt heo quay và bánh hỏi cho chiến sĩ phòng thủ…
Ngày 18/6/1972, Trung tướng Nguyễn văn Minh tuyên bố An Lộc đã được hoàn toàn giải toả.
Nhưng cũng ngay đêm đó, Tướng Hưng lại mang thêm mối họa khác, và lần nầy lớn hơn mọi lần khác: Trung tướng Minh gởi công điện lệnh cho Tướng Hưng đưa ngay Đại tá Mạch văn Trường về trình diện BTL/HQ/QĐ III & V3CT để chuẩn bị… mọi thứ –nhất là các tài liệu cho các buối thuyết trình lớn– về trận chiến An Lộc. Đại tá MVT được QĐIII & V3CT chỉ định và đề nghị lên BTTM/QLVNCH làm Trưởng phái đoàn “nhữnh anh hùng An Lộc”, sẽ mang chuông sang đấm xứ người. Hình như không cần suy nghĩ Tướng Hưng… từ chối. Ngày hôm sau chính đích thân Trung tướng Minh gọi điện thoại cho Tướng Hưng. Ông nầy xin Tướng Minh nên đề cử người khác vì Đại tá MVT… không xứng đáng. Đây là lần đầu tiên Tướng Hưng cãi lệnh Tướng Minh. Trong mấy ngày liền cả Thiếu tướng Đào Duy Ân, Tư lệnh phó và Đại tá Phan Huy Lương, Tham mưu trưởng HQ/QĐ III & V3CT đều gọi điến thoại cho Tướng Hưng yêu cầu nên nghe lời Trung tướng… nhưng Tướng Hưng đều từ chối. Đêm sau, Tướng Ân cũng gọi điện thoại cho tôi, vì ông mến tôi khi tôi làm việc ở Phòng 2/ BTL/QĐIII & V3CT và biết tôi thân với ông Hưng, bảo tôi nên khuyên ông Hưng nên tuân theo lệnh của Trung tướng… Tư lệnh đi. Tôi vào gặp Hưng lập lại lời của Tướng Đào Duy Ân. Ông Hưng chỉ cười nói: -“Không, không được! Tại sao Trung tướng không chỉ định Đại tá Vỹ, Đại tá Lưỡng, hay Đại tá Nhựt. Chỉ định Đại tá Nhựt là phải nhất, địa phương nầy của ông ta…” Chỉ một câu này thôi, ông Hưng quay sang hỏi tôi chuyện khác… “Dưỡng, nghĩ xem tụi nó còn quân không?’’ Tôi nói –“Không, tụi nó chỉ còn pháo!”
Mà quả thật, sau khi các đơn vị phòng thủ phản công tái chiếm lại hoàn toàn các khu vực bị chúng chiếm và Liên đoàn 81/BCND cắm ngọn quốc kỳ lên ngọn đồi thấp ở sân bay Đồng Long trưa ngày 12/6 đã không còn trận chạm súng nào nữa, các đơn vị bộ chiến của TWC/MN đã rút ra khỏi mặt trận An Lộc sau khi bị thiệt hại rất nặng… gấp hai hoặc ba lần so với các đơn vị phòng thủ. Theo ước tính của riêng tôi, số quân tổn thất chúng ở các vòng đai phòng thủ An Lộc nhất là vùng ngoại vi tiếp cận thành phố có thể lên đến 8,000 người đa số chết bởi KQVH và KLHK trong hàng nghìn phi vụ không yểm: oanh kích, thả bom, kể cả B-52 của KQ Chiến lược HK. Đó là chưa kể số thương binh có thể lên đến gấp đôi hay gấp ba lần số quân chết tại trận. Tổn thất của tất cả các cánh quân của chúng trong chiến dịch mùa Hè năm đó có thể lên đến hơn 20,000, hằng trăm chiến xa, hàng trăm đại pháo và hàng vài nghìn vũ khí cộng đồng và cá nhân khác trong chiến trận Tỉnh Bình Long.
Lữ đoàn 1 Nhảy Dù rời An Lộc trong hai ngày 16/6 và 17/6 xuống Tân Khai đánh thắng trận cuối cùng ở đó, rồi về Saigòn. Ngày 24/6 Liên đoàn 81/BCND cũng trả về cho BTTM/QLVNCH. Các tuyến phòng thủ giao lại cho SĐ5BB và các đơn vị ĐPQ của Tiểu Khu, đã mỏng ra. Nhưng địch đâu còn quân mà đánh nhau nữa. Các đại đơn vị của chúng, bị thiệt hại nặng, rút sang đất Miên bổ sung, rồi mở các mặt trận khác như nói ở trên. Nhưng… pháo vẫn còn bắn vào thành phố nhiều ngày nữa. Đó là các loại pháo kéo trên các xe, thường xuyên di chuyển sau mỗi đợt bắn, nên khó diệt. Mỗi ngày ít ra thì cũng còn vài chục quả, muốn rớt vào đâu cũng mặc, cũng có người chết. Ai mà… chết vào những giờ phút trận chiến đã chỉ còn là nhúm lửa âm ĩ sắp tàn lụi nầy thì… thật là tận số. Nên ông nào… đã lạnh cẳng sẵn rồi, lúc nầy lại còn… ớn lạnh hơn lúc trước nữa. Ra sớm khỏi An Lộc mà… làm anh hùng sớm, hạng bậc nhất “đình huỳnh”, thì ai mà chẳng muốn ra… Người giỏi tính như ông MVT sau khi được ăn “thịt quay bánh hỏi” dõm xong thì tính chuyện rút ra sớm thiệt thì quả thật là… giỏi. Còn người chân chính như Tướng Hưng, không chịu nỗi chuyện dõm chuyện thật mập mờ bất phân, không biết đáp ứng… chỉ thị của thượng cấp là… bất tuân thượng lệnh. Mà chuyện cãi lệnh nầy có nhiều người biết nên ông Tư lệnh càng giận hơn, giận dữ… Thôi thì không thưởng được lúc nầy thì thưởng lúc khác. Thôi thì chưa làm gì được nhau lần đó thì để lần khác hạ vậy. Chưa vội. Rồi cũng đến mà. Lật bật mấy tuần qua mau.
Ngày 7/7/1972, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, một vài Bộ trưởng, Đại tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH và Trung tướng Nguyễn văn Minh Tư lệnh QĐIII & V3CT vào An Lộc uỷ lạo và thăng thưởng chiến sĩ phòng thủ. Tướng Hưng đã.. ra lệnh cho các đơn vị quanh vòng đai phòng thủ bung ra xa hơn vì sợ bích kích pháo địch bắn gần hơn là đại pháo bắn từ xa. Tổng thống và phái đoàn đến bằng trực thăng và đáp ở bãi tạm nam xa lộ, được Tướng Lê văn Hưng và Đại tá Trần văn Nhựt đón rước và mời vào cái villa phía trên hầm BTL/HQ/SĐ5BB –cái villa và chiếc hầm chưa hề trúng một quả đạn đại pháo nào trong hơn 70,000 quả đạn đại pháo CSBV dội vào thành phố từ đúng ba tháng vừa qua.
Bên trong villa đã chuẫn bị sẵn các bản đồ chờ TT. hỏi để trình nhưng TT. đến không hỏi mà để tuyên dương công trạng cho chiến sĩ “Bình Long Anh Dũng”, tuyên bố chiến thắng An Lộc là chiến thắng vang dội thế giới: “Bình Long là một tiêu biểu của quốc gia và là một tiêu biểu quốc tế”, đại khái Tonton nói như vậy và tuyên bố thêm là sẽ thăng cho mỗi chiến An Lộc một cấp bậc cao hơn… Lúc đó các vị sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, BCND và BĐQ tăng phái đã rời An Lộc rồi nên các vị đó và sĩ quan chiến sĩ thuộc cấp sau đó đều được thăng cấp (Đại tá Lê Quang Lưỡng thăng Chuẩn tướng và được bổ nhậm làm Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù). Vậy nên Tonton Thiệu gắn lon mới tượng trưng cho một số sĩ quan của SĐ5BB và Tiểu Khu Bình Long. Chỉ thưởng một ít huy chương cho mấy vị thôi.
Tướng Hưng đứng đầu hàng được TT. đọc lệnh thăng cấp Chuẩn tướng thực thụ và được gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. Đại tá Trần văn Nhựt thăng Đại tá thực thụ và được gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm ADBT với Nhành Dương Liễu. Đại tá Mạch văn Trường thăng cấp Đại tá thực thụ, vừa đọc quyết định xong… TT. Thiệu định bước sang gắn cấp bậc mới cho Trung tá Lý Đức Quân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7 đứng kế tiếp… bỗng thấy Trung tướng Minh bước tới… vừa thưa trình vừa dúi vào tay TT. một cái huy chương vàng nhạt lẫn màu xanh đọt chuối, có vòng vải quốc kỳ (để đeo vào cổ) tức là Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và một cuống huy chương khác là Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu… “Xin TT. gắn cho Đại tá Trường Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và…” TT. Thiệu ngắt lời: -“Ông Trường có Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương chưa?” Trả lời: -“Dạ có… Tôi đã đề nghị rồi… Sắp được!” TT Thiệu ngần ngừ… nhưng bước tới tròng chiếc huy chương cao quí đó vào cổ cho MVT, rồi gắn thêm cái ADBT với Nhành Dương Liễu lên ngực ông này. Đẹp quá! Đẹp hết chỗ nào chê… Sau đó TT. gắn lon Đại tá cho Trung tá Lý Đức Quân và Trung tá Trịnh Đình Đăng, Trưởng phòng 3 Sư đoàn. Kế tiếp gắn cấp bậc Trung tá cho tôi và Thiếu tá Huỳnh văn Tâm, Trung đoàn phó Trung đoàn 8 -người thực sự chỉ huy trung đoàn nầy suốt trận An Lộc. Thêm vài SQ, HSQ và BS nữa được mang cấp bậc mới.
Sau buổi lễ, TT. và đoàn tùy tùng được Tướng Hưng và các ông Đại tá hướng dẫn đi thăm viếng các nơi khác trong thành phố An Lộc. TT. Thiệu và phái đoàn viếng An Lộc chừng hơn 2 tiếng đồng hồ mới ra về. Không nghe tiếng pháo nào nổ quanh đâu đó như mọi ngày trước. Âu là Tonton có chân mạng… đế vương đó thôi. Sướng cũng nhiều mà khổ cũng lắm. Nên sau nầy sang lưu vong ở Hoa Kỳ không nói hay viết hồi ký về bất cứ điều gì. Im lặng là vàng.
Trong lần thăng thưởng đó đã… thấy rõ sự bất công: Đại tá hiện dịch thực thụ Lê Nguyên Vỹ không thấy hiện diện trong lễ tưởng thưởng nầy, không thấy thăng chuẩn tướng, không biết sau đó có được tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc huân Chương hay không? Mãi đến gần hai năm sau khi Trung tướng Phạm Quốc Thuần về làm Tư lệnh QĐ III & V3CT, Đại tá LNV mới đượ̣c đề bạt làm Tư lệnh SĐ5BB thay thế Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch. Một vị nữa, người có công trạng nhiều nhất ở An Lộc là Đại tá thực thụ Bùi Đức Điềm, như tôi đã nói, bị bỏ quên như một gốc cổ thụ già ở đâu đó trong các khu rừng Bình Long: không thăng cấp tướng, không một chiếc huy chương… mãi cho đến khi mất miền Nam.
Một sự kiện buồn đáng nêu lên là chỉ mấy ngày sau khi TT. Thiệu rời An Lộc, ngày 9/7/1972, Tướng Richard J. Tallman, Tư lệnh phó TRAC (Third Region Assistance Command –Bộ Tư lệnh Viện Trợ Vùng 3, Hoa Kỳ) cùng mấy sĩ quan tham mưu và tùy viên của ông, bay trực thăng vào thăm An Lộc, đáp xuống sân bay trực thăng Tiểu khu, bị pháo, trái thứ nhất thoát, nhưng trái thứ hai trúng vào giữa toán của ông đang chạy vào BCH/TK, ba sĩ quan của TRAC chết liền tại chỗ, Tướng Tallman được tản thương về Bệnh viện 3 Dã Chiến HK –3rd Field Hospital Saigòn– mổ vết thương. Thương tích quá nặng ca mỗ không thành công, ông từ trần ngay khi mổ, ngày đó. Trong chiến cuộc Bình Long, từ Lộc Ninh, đến An Lộc và vùng chốt chặn Tàu Ô-Tân Khai, có nhiều sĩ quan cố vấn HK của các đơn vị hi sinh hay mất tích. Tôi không biết rõ là bao nhiêu vị. Chúng tôi, những chiến sĩ của An Lộc-Bình Long xin tri ân và chia buồn cùng gia đình của các vị. Xin cám ơn tất cả các chiến sĩ KLHK và các đơn vị khác đã cứu giúp chúng tôi trong cuộc chiến này.
Ngày 11/7/1972, SĐ18BB do Đại tá Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn chỉ huy, đổ quân bằng trực thăng vào An Lộc thay thế SĐ5BB rút toàn bộ về căn cứ chính Lai Khê. SĐ25BB được lệnh đến Chơn Thành thay thế cho SĐ21BB ngày 15/7/1972 để tiếp tục giải toả QL-13, bứng các chốt chặn từ suối Tàu-Ô lên Tân Khai. Tính ra thì sự tổn thất của SĐ21BB của Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi còn nặng hơn của SĐ5BB nhưng công trạng rất lớn vì suốt ba tháng đã kềm chế được SĐ-7/CSBV không để cho sư đoàn nầy tiến lên An Lộc hợp lực với các đại đơn vị CSBV dứt điểm thành phố đó. Chúng chắc chắn bị thiệt hại nặng hơn, số cán binh của chúng bị hạ không dưới 7,000 người. Sau khi về miền Tây, Tướng Nghi thăng thêm một sao và được bổ nhậm Tư lệnh QĐ IV & V4CT.
Tôi về Lai Khê với nỗi buồn ray rức. Tôi thăng cấp trung tá nhiệm chức đặc cách mặt trận ngày7/7/1972 sau hơn 5 năm mang cấp bậc thiếu tá từ 19/6/1967 –ba năm nhiệm chức, hai năm thực thụ– đó là phần thưởng cuối cùng trong binh nghiệp của tôi. Một năm sau mới được điểu chỉnh trung tá thực thụ. Nỗi buồn không rõ nguồn cơn. Có thể vì tôi đã nhìn thấy lửa bỏng chiến trường lần nầy mới thực sự là chiến tranh, chết chóc, máu thịt đầm đìa bừa bãi ở trận địa và những nấm mồ tập thể của người dân thường vô tội. Tôi đã nhìn thấy sự chịu đựng của chiến sĩ với những hình ảnh hi sinh cao cả và cả… những hình ảnh bẫn thiểu nhất trong quân ngũ.
Vâng, QLVNCH bất khuất, tôi thương yêu quân đội này như yêu chính bản thân tôi, hơn tất cả mọi thứ khác trên đời. Và vì tình yêu đó, sau này khi định cư tại Hoa Kỳ, tôi bỏ tất cả mọi thứ, vào trường đi học hỏi lại, và mong mỏi làm cho được cái công việc mà tôi gọi là “lật đất”, thực ra là tìm tòi tài liệu đề tìm hiểu sự thực, để binh vực cho màu cờ sắc áo của chúng tôi; tôi đã thực hiện sở nguyện viết lại cuộc chiến đó bằng Anh ngữ –một quyển sách chỉ vài trăm trang nhưng tạm gọi là đầy đũ– để trả lời những người đã bôi biếm chúng tôi (xin xem mạng Google để đọc một vài Chương của quyển sách ‘The Tragedy of the Vietnam War”, McFarland, 2008 Van Nguyen Duong và bài thơ “Lật Đất” đính kèm). Nhưng, những “sự thực” thì một người muốn “lật đất”, không thể giấu giếm mãi, đến ngày nay tôi phải nói ra để mong đem lại sự phán đoán công bằng cho cố nhân.
Hình như Tướng Hưng cũng mang vẻ trầm tư hơn trong nét mặt của ông sau khi từ chiến trường An Lộc trở về. Có lẽ ông đã thấm thía hơn và suy nghĩ nhiều về câu nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Ông có muốn như thế đâu. Phận làm tướng, là cấp chỉ huy chiến sĩ đánh nhau ở chiến trường, cái lẽ sống chết, thành bại, cũng là… đương nhiên thôi. Đâu có cấp chỉ huy nào muốn cho binh sĩ dưới quyền mình bị hi sinh quá nhiều đâu! Tôi biết trường hợp mất quân… quá lớn ở Lộc Ninh làm cho ông suy nghĩ nhiều nhất. Có lẽ ông cũng mang thứ mặc cảm “đã phụ lòng thầy”. Quả thực ông có phụ lòng Tướng Minh đâu! Tướng Minh đã nâng đỡ ông từ cấp trung úy lên cấp tướng, như ông từng nói với tôi. Ông rất muốn lấy sự “sống chết” ở chiến trường để tạ ơn người thầy đã đỡ đầu cho ông. Nhưng tôi cũng biết ông Hưng đã từng tạo chiến công hãn mã… đem đến sự thăng tiến binh nghiệp của chính ông và cả… cho Tướng Minh nữa trong bao nhiêu năm trời. Còn quyết định của ông ở chiến trường An Lộc, dù không hợp với Tướng Minh, nhưng cũng cứu nguy được An Lộc trong những giờ phút nguy ngập nhứt. Tướng Minh cũng đã đem hết tài năng của mình điều binh khiển tướng mà cứu Tướng Hưng. Có lần, sau Trận An Lộc, ông và tôi ăn cơm với nhau… trên một nhà hàng khá thanh tịnh ở Saigòn, ông hỏi tôi: -“Dưỡng có thích đọc sách triết hay không? Có theo một tôn giáo nào hay hành xữ theo một đạo lý nào không?” Tôi trả lời: -“Không, tôi ghét triết học, tôi không thích được thuyết giảng, tôi không thích ai nói cho tôi nghe về ‘morale’. Tôi dốt.” Hưng nói: -“Tôi cũng vậy. Nhưng có lắm điều làm cho mình suy nghĩ về đạo lý ở đời… và về sự sống chết…”
Tôi suy nghĩ và hiểu rằng ông Hưng không hẳn chỉ là một tướng lãnh chỉ biết đánh nhau. Ông ta có suy tư hơn là những kẻ có uy quyền chỉ biết hưởng thụ, coi thường sinh mạng chiến sĩ thuộc cấp. Ông hành xữ theo lẽ phải, tôn trọng lẽ phải… Ông có một khối óc mẫn đạt, sáng suốt với những ý nghĩ chính chắn trong sạch và một trái tim đỏ thắm tình yêu chiến sĩ, yêu mầu cờ sắc áo, và yêu nước cao cả. Chính những người như ông mới dám cầm súng mà bắn vào óc hay vào tim mình để tự hủy diệt những gì tốt đẹp ở trong các thứ quí báu của con người đó trước khi những kẻ khác muốn hủy diệt nó. Tôi biết rõ ở An Lộc ông đã từng câm nín… để nhận chịu sự bất công của bậc mà ông vẫn tôn kính là thầy mà ông từng muốn đem sinh mạng để đền đáp nghĩa ân. Sao người ta nở huỷ diệt hay tạo ảnh hưởng huỷ diệt uy tín của một người cao thượng và trung chính như vậy… hở? Mãi đến ngày nay ông đã tuẩn tiết hơn ba mươi năm rồi mà chiến dịch ngầm phá hoại uy tín ông vẫn còn ảnh hưởng ở một số người, hiện sống ở hải ngoại, kể cả những chiến hữu ngày xưa của ông. Trời ơi, tôi hiểu ông và thương ông lắm! Tôi không tin rằng có một người nào hiểu Hưng hơn tôi, kể cả những người ông yêu thương nhất. Tôi thành thực xin lỗi khi viết những dòng chữ nầy.
Tôi suy nghĩ… hay chỉ vì một quyết định vô cùng ngay thẳng, theo lẽ phải, từ chối không cho Đại tá MVT về Lai Khê làm trưởng phái đoàn “Bình Long Anh Dũng” mà Tướng Minh cho Hưng bị người ta cho là người “phản thầy” hay sao? Hay đó chỉ là giọt nước làm tràn miệng bát vì uy danh “tử thủ” của Tướng Hưng trong trận An Lộc đã lan xa trong nước? Tiếng “phản bội” cũng do chính Tướng Minh nói với tôi trước mặt Đại tá MVT. Hiện nay ông MVT đang sống ở California. Hai vị tướng đã thành người thiên cổ. Tôi xin lập lại sự thực vì người sống vẫn còn đó, như trách nhiệm của một người muốn “lật đất”…
Chỉ chừng một tuần, sau khi từ An Lộc về Lai Khê, được Tướng Minh cho người điện thoại bảo tôi về Biên Hòa dùng cơm trưa với ông. Tôi ngạc nhiên nhưng tuân lời, tôi không nhớ rõ ngày, chỉ nhớ buổi trưa đó tôi đến tư dinh Tướng Minh ở bờ sông Biên Hòa và được hướng dẫn lên chiếc trailer của tư lệnh. Vào trailer thì thấy Trung tướng đã có ở đó, bên cạnh chỉ có Đại tá MVT. Tôi chào Trung tướng và được ngồi vào bàn cơm. Suốt buổi cơm Tướng Minh nói cười vui vẻ với ông MVT và tôi. Nhưng khi ông tướng ăn cơm xong, uống cà phê, hút thuốc và nghiêm nghị hỏi tôi có biết vì sao gọi tôi về ăn cơm trưa buổi đó: -“Dưỡng từng làm việc với tôi, chắc biết tánh tôi. Tôi rất ghét những người phản bội. Về nói với Hưng, đừng phản thầy. Tôi đã từng cứu Hưng không chỉ lần nầy ở An Lộc mà rất nhiều lần trước ở SĐ21BB. Tôi đã từng tin tưởng Hưng và nâng Hưng từ một đại úy lên cấp tướng. Sao lại trở mặt với tôi!” Tôi nghe xong, chết điếng trong lòng. Chỉ ngồi im lặng. Ông MVT cũng không thốt một lời nào… Buổi cơm tàn, tôi lên trưc thăng trở về Lai Khê. Suy nghĩ mãi, mấy ngày sau, tôi gặp Tướng Hưng ở văn phòng của ông. Tôi lập lại từng lời của Trung tướng cho ông Hưng nghe. Tướng Hưng chỉ cười nhẹ. Một nụ cười gượng, buồn bã, nhưng không nói gì. Từ đó về sau, trong ánh mắt, Tướng Hưng nhìn tôi như nói lên sự thương mến tôi nhiều hơn thời gian trước. Ông đã rõ lòng dạ tôi từ ngày ở An Lộc, tôi từ chối không về Lai Khê, mà ở lại cùng ông giúp ông đánh nhau với quân CSBV. Ông có cho tôi một đặc ân nào đâu. Chỉ có tấm lòng… chân thật với nhau. Không lâu sau đó, Tướng Hưng được lệnh bàn giao SĐ5BB cho Đại tá Nhảy Dù Trần Quốc Lịch, về Biên Hoà làm Phụ tá Hành quân cho Tướng Minh. Và cũng… không lâu sau đó, tôi nghe nhiều người châm biếm về đôi mắt “hay nheo” của Tướng Hưng và bình luận rằng vì ở An Lộc ông Hưng không hề rời hầm hành quân, ở mãi trong bóng tối nên sợ ánh sáng mà… nheo mắt. Tôi đã nói Hưng hay nheo mắt từ khi còn là SVSQ mà… Hơn thế nữa, người ta đem những điều đó mà ngầm trình báo lên các giới chức lãnh đạo cao cấp… Cao cấp nhất của Chính phủ và QLVNCH. Chê ông Hưng thiếu khả năng nên thua lớn ở Lộc Ninh… Khi ông về Quân đoàn III & V3CT, tôi biết ông Hưng sẽ dừng lại ở ngôi sao của ông…
Trước khi Đại tá Trần Quốc Lịch về thay thế Tướng Lê văn Hưng, Đại tá MVT được bổ nhậm chức Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tỉnh Long Khánh. Tôi vẫn ở lại làm việc với Đại tá TQL, ở chức vụ cũ. Còn các Đại tá Lê Nguyên Vỹ và Bùi Đức Điềm thuyên chuyển về đâu, tôi không nhớ. Phụ tá Hành quân QĐIII & V3CT là chức vụ của Đại tá LNV khi ông… bắn xe tank ở An Lộc và mỗi đêm nằm ngủ trên chiếc ghế bố dã chiến trong hầm BTL/HQ cạnh anh Trịnh Đình Đăng và tôi trong hơn ba tháng…
Một ngày khác, sau buổi cơm ở trailer Biên Hòa với Trung tướng Minh và Đại tá MVT, tôi tiếp một sĩ quan báo chí quân đội tại Lai khê. Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh, Trưởng Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH, lên Lai Khê vào Phòng 3 BTL/SĐ5BB hỏi Đại tá Trịnh Đình Đăng xin bản sao Nhật ký Hành quân cuả Sư đoàn ở An Lộc để viết Hồi ký… cho Tướng Minh. Ông Đăng chỉ cho Trung tá NĐT sang gặp tôi, vì Phòng 3/HQ của ông có 6 sĩ quan bị một hoả tiễn 122 ly rơi trúng khi đang ăn cơm, tất cả đểu…hi sinh, nên không ai ghi Nhật ký Hành quân của Sư đoàn và giữ các tài liệu này, mà chỉ có ông Đăng, tôi và hai ông Đại úy Dương Tấn Triệu và Nguyễn Chí Cường của Phòng 2/BTL/HQ của tôi ghi chép khá chi tiết (sau trận An Lộc, đều thăng cấp Thiếu tá, vẫn làm việc với tôi) nên toàn bộ tài liệu đó tôi đã cho đánh máy lại và do tôi cất giữ lúc đó. Sơ sót của tài liệu là không ghi phối trí của các đơn vị bạn ở An Lộc và chi tiết về các phi xuất yểm trợ của KQVN và KLHK vì hai ông này chỉ là nhân viên tình báo tác chiến. Khi ông NĐT nói rõ mục đích xin bản sao tài liệu nói trên, tôi từ chối và nóí vớí Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh một câu mà đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ ràng: -“Nếu anh Thịnh xin các tài liệu này cho Phòng Báo Chí, Cục TLC, tôi xin đưa ngay, nhưng nếu để viết Hổi ký… riêng cho Trung tướng Tư lệnh… xin miễn chấp, tôi từ chối.” Trung tá NĐT ra về không nói gì. Tôi biết làm như vậy đường hoạn lộ của tôi sẽ bị tắt nghẽn, không thăng tiến được nữa.
Sau đó vài ngày tôi mang một bản sao tài liện Nhật ký Hành quân nầy về Khối Quân sử /BTTM định trao cho Đại tá Phạm văn Sơn làm tài liệu nhưng hình như Đại tá PVS đã không còn giữ chức vụ Trưởng Khối Quân sử nữa hoặc đi đâu vắng. Tôi trao tài liệu cho một sĩ quan cấp tá ở đó. Sau nầy tôi được biết phần sử viết về trận chiến Bình Long–An Lộc là do Trung tá Lê văn Dương, tân Trưởng Khối Quân Sử/P.5/BTTM chủ biên với các vị phụ tá, Thiếu tá Lê văn Bân và Đại úy Tạ Chí Đại Trường. Thỉnh thoảng có trích một đoạn trong bản Nhật ký Hành quân của SĐ5BB do các Đại úy Triệu và Cường của Phòng 2/HQ ghi trong thời gian đang hành quân ở An Lộc.
Thời gian thấm thoát qua mau. Sau nầy, Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh và tôi cùng định cư ở thành phố Honolulu, thỉnh thoảng gặp nhau chỉ cười chào hỏi nhau, ít nói năng thù tạc. Hiện nay, tôi được biết ông ở Texas, làm báo. Không biết ông NĐT có nhớ chuyện cũ không? Không nhớ thì tốt hơn.
PHẦN KẾT: MIỀN TÂY, VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tháng 8 hay 9, năm 1974, tôi không nhớ rõ, Đại tá Lê Nguyên Vỹ được bổ nhậm vào chức vụ Tư lệnh SĐ5BB thay thế Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch thuyên chuyển về làm Chánh Thanh tra Quân đoàn IV & V4CT. Đại tá LNV có cơ hội nầy là vì Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã thay thế Trung tướng Nguyễn văn Minh ở chức vụ Tư lệnh QĐIII & V3CT. Tướng PQT trước là Tư lệnh SĐ5BB, khi đó ông LNV là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8. Tôi biết đã đến lúc nên xin trở lại Phòng 2/BTTM, vì từ đó tôi thuyển chuyển ra SĐ22BB đầu năm 1969, rồi về Phòng 2 BTL/QĐIII &V3CT và SĐ5BB. Đã hơn 5 năm rồi. Gian truân cũng lắm, hứng đạn pháo cũng nhiều. Tôi xin trở về Phòng 2/BTTM và được chấp thuận.
Đến cuối năm 1974, Phòng 2/BTTM nhận thấy tình hình bất ổn càng ngày càng trầm trọng từ sau ngày “Hiệp ước Đình Chiến Paris tháng Giêng-1973”, được thi hành mà hầu hết các điều khoản đều cho thấy rõ rệt thực chất của một bản hiệp… đầu hàng này của Nixon và Kissinger trước CSBV mà hầu hết các nhà chính trị hiểu biết thế giới đều gọi như vậy… nên QLVNCH đã đánh giặc một mình theo lối nhà nghèo như TT. Nguyễn văn Thiệu nói. Tình trạng càng ngày càng nguy cấp thêm và người chiến sĩ miền Nam đã xả thân đánh giặc với vũ khí, chiến cụ, trang bị cũ kỹ và số đạn dược quá ít oi còn lại… ở tất cả các binh chủng Hải, Lục, Không quân trong các Vùng Chiến Thuật. Đại lược, với hiệp ước đầu hàng này, HK không phải “rút ra khỏi Nam VN trong danh dự” mà mà ngược lại vì… khi ký hiệp ước trên Kissinger biết mình đã chịu thua Lê Đức Thọ của BV rồi. Theo đó thì Hoa Kỳ phải rút toàn bộ quân tác chiến ra khỏi Nam Việt Nam trong những ngày giờ ấn định, kể cả toàn bộ cố vấn trong mọi cơ quan và đơn vị của QLVNCH, chỉ để lại một số chuyên viên kỹ thuật và nhân viên tòa Đại sứ và các Lãnh sự quán. Bộ Tư lệnh Viên trợ MACV to lớn giải thể, gom lại thành một tổ chức nhỏ gọi là D.A.O., hay DAO (Defense Attaché Office hay là Phòng Tùy Biên Quốc Phòng, do một tướng hai sao HK chỉ huy phụ trách liên lạc và yểm trợ BTTM/QLVNCH).
Ở các Vùng Chiến Thuật các tổ chức viện trợ và yểm trợ quân sự lớn trong hệ thống của MACV như FRAC, SRAC, TRAC và DRAC (First Regional Assistance Commmand, Second Regional Assistance Command, Third Regional Assistance Command & Delta Regional Assistance Command; HK gọi Vùng 4 CT là Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long) cũng giải thể. Mọi hoạt động yểm trợ cũng gom về tòa Lãnh sự ở thủ phủ của các Vùng Chiến Thuật.
Toàn thể đạo quân rất lớn của CS Bắc Việt từ trước đánh phá trong lãnh thổ miền Nam vẫn được Nixon –Kissinger chịu để cho trú đóng các vùng chúng chiếm được ở miền Nam; dĩ nhiên kể cả lãnh thổ Lào và Kampuchia… Chính thức, HK ước tính –cố ý hạn chế đến mức thấp vừa phải để ép buộc TT. Nguyễn văn Thiệu của Nam VN chấp nhận ký hiệp ước– là chừng 150,000 quân tác chiến CSBV ở lại miền Nam. Nhưng trên thực tế phải trên 250,000 người vì những đơn vị tác chiến, hậu cần và công binh ở Lào, Miên đang hoạt đông ráo riết trên đường mòn Hồ Chí Minh, lúc đó đã trở thành Đại Lộ Sullivan (xin xem “The Tragedy of the Vietnam War” để biết rõ chi tiết về về các việc đề cập trên và chi tiết về Chiến Tranh VN trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội trước, trong và sau khi chiến tranh kết thúc). Với hiệp ước đó, KLHK đã chấm dứt mọi hoạt động trên hệ thống tiếp vận khổng lồ nầy, kể cả không thám, không kích bằng các loại bom CBU hay B-52. Do đó, chẳng những CSBV tu bổ rộng lớn Đường Trường Sơn Tây bên kia đãy dãy Trường Sơn trong lãnh thổ Lào và Miên, mà chúng còn mở thêm con đường mới bằng cách mở rộng QL-14 từ phía tây Cam Lộ, Quảng Trị vào tận Đôn Luân, Tỉnh Phước Long… sau khi chúng đã đánh chiếm xong tỉnh nầy trong tháng 1/1974. Chúng gọi con đường mới kiến thiết nầy là Đường Trường Sơn Đông. Trong khi chúng sử dụng hàng nghìn chuyến xe Molotova đêm ngày vận chuyển tự do trên Đường Trường Sơn Tây đưa hàng nghìn tấn vũ khí, quân dụng và đạn dược vào miền Nam để chuẩn bị một chiến dịch lớn nhất “giải phóng” toàn bộ miền Nam thì Đường Trường Sơn Đông sau này dẫn đến trận chiến Ban Mê Thuột, từ đó… TT. Thiệu quyết định bỏ Cao Nguyên miền Trung mà gây thảm họa cho miền Nam sớm hơn là Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản VN dự phóng. Nhưng thảm họa sẽ không thể có nếu HK không thực sự muốn bỏ rơi Nam Việt Nam mà với các điều khoản khác trong Hiệp ước Paris tháng Giêng, 1973 cũng nói rõ ràng. Đó là các điều khoản HK phải thu vét lại hệ thống mìn phong tỏa Cảng Hải Phòng mà Hải Quân Hoa Kỳ đã thiết lập phong tỏa Cảng nầy trong cuối năm 1972, theo lệnh TT. Nixon… cùng một lúc với lệnh không tập dữ dội… Bắc Việt, bất kể Hànội, Hải Phòng và các tuyến đường xe lửa vận chuyển vũ khí, thiết bị chiến tranh nặng, của Trung Cộng tiếp tế cho quân CSBV từ biên giới Trung Quốc vào Yên Bái và Việt Trì… để trả đũa chiến dịch mùa Hè năm 1972 của CSBV tấn công miển Nam.
Điều khoản giải tỏa Vịnh Bắc Việt và Cảng Hải Phòng có nghĩa là chấp thuận để cho CSBV tái tiếp nhận hàng trăm tấn trang thiết bị chiến tranh… tank, đại bác, các loại vũ khí tối tân nhất và đạn dược Liên xô, do hai hạm đội gồm 150 chiếc tàu vận tải loại lớn từ hai quân cảng Odessy và Vladivostok thay phiên nhau cập bến cảng Hải Phòng hàng ngày… cũng như điều khoản “không được tái tấn công quân sự vào Bắc Việt, Lào và Kampuchia bằng bộ binh, không quân hay hải quân”… nên hai tuyến xe lửa từ Trung Quốc sang Hànội càng hoạt động liên tục hơn, không còn hạn chế tiếp vận thiết bị chiến tranh của Cộng Sản Trung Quốc cho Bắc Việt. CSBV tái tiếp nhận hàng trăm tấn vũ khí đạn dược tiếp viện từ kẻ thù phương Bắc. Cùng với việc tổng động viên thanh niên từ 16 tuổi trở lên và với khối thiết bị chiến tranh khổng lồ nhận được liên tục, Quân đội Nhân Dân CSBV trở thành một quân đội mạnh vào hàng thứ tư thế giới, chỉ sau hai nước Công Sản quan-thầy nói trên và Hoa Kỳ. Trong khi đó thì QLVNCH chỉ… được một điều khoản khác của Hiệp ước đó cho phép thay thế “một đổi một”, nghĩa là HK sẽ thay thế một một chiến xa, một khẩu đại bác hay các loại súng khác hư không xài được… bằng một chiếc hay một khẩu khác. Cho nên tại chiến trường chiến sĩ QLVNCH đã chịu đựng trăm bề… bất lợi, thua thiệt. Đạn đại bác lúc trước bắn không hạn chế, sau Hiệp ước Paris-1973, một khẩu đại bác 155 ly hay 105 ly chỉ được phép bắn 3 quả đạn mỗi ngày và sau cùng chỉ 1 quả mỗi ngày…Còn quân CSBV thì sao? Chúng xài thả ga…vì các quan-thầy của chúng cho phép mà. Thêm nữa, và quan trọng hơn là Viện trợ Quân sự cho QLVNCH đã bị HK cắt giảm quá mức so với các năm trước. Chiến tranh sau hiệp ước đầu hàng của Hoa Kỳ nầy càng gia tăng dữ dội hơn ở Nam VN. Chúng sử dụng vũ khí tối tân hơn, đại dược nhiều hơn và chiến sĩ của chúng ta đã hi sinh nhiều hơn… nhất là ở vùng hỏa tuyến và dọc theo biên giới VN với Lào, Miên.
Trước hoàn cành đó, nhất là sau khi quân CSBV chiếm được Tỉnh Phước Long trong tháng 1/1/1974, vi phạm trầm trọng Hiệp ước Paris-1/1973 và Hoa Kỳ làm ngơ, mặc dù Chính phu Ford đề nghị Quốc Hội HK cấp cho QLVNCH ngân khoản viện trợ đặc biệt 300 triệu Mỹ Kim cũng bị… từ chối sau cả năm bàn cãi. Các tháng cuối của năm 1974 CSBV định cắt đôi Nam VN ở phía nam Đà Nẳng với việc đánh chiếm các Quận Nông Sơn, Đức Dục và Thường Đức, Tỉnh Quảng Nam, và định tiến ra đánh chiếm Hội An thì bị chận đứng ở phía tây Quận Đại Lộc. Sư đoàn Nhảy Dù của Tướng Lê Quang Lưỡng được Tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh QĐI & V1CT rút từ Quảng Trị vào đã đánh nhau dữ dội với các Sư đoàn 304 và 308 CSBV ở vùng núi phía bắc Thường Đức, nhất là ở vùng đồi 1062, từ tháng 8 đến tháng 12, năm 1974, mà Washington tiếp tục làm ngơ. TT. Nguyễn văn Thiệu và Chính phủ của ông biết rõ hơn HK đã bỏ rơi miền Nam. Phòng 2/BTTM/QLVNCH cũng đã nhiều lần báo cáo những âm mưu chiến lược của CSBV là sẽ có trận Tổng Công Kích của quân CSVN trong mùa Xuân năm 1975… Hai sĩ quan cấp bậc đại tá được Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng Phòng 2/ BTTM đưa đến QĐ I & V1CT và QĐ II & V2CT đặt cạnh Phòng 2 BTL của các vùng chiến thuật nầy, để làm sĩ quan liên lạc. Riêng tôi, lúc ấy đang biệt phái cho một đoàn tình báo thuộc Đơn vị 101, được đưa làm sĩ quan liên lạc của Phòng 2 BTTM cạnh Phòng 2 BTL/QĐ IV & V4CT. Nhiệm vụ của các sĩ quan liên lạc Phòng 2/BTTM là giúp theo dõi và chuyển tin tức chiến sự, địch tình, từ vùng nầy sang vùng khác, từ địa phương về trung ương và ngược lại.
Lúc đó, Tướng Lê văn Hưng đã được Tướng Nguyễn Khoa Nam đưa về làm Tư lệnh phó QĐIV & V4CT. Trước đó, Tướng Hưng khi đang làm Phụ tá Hành quân cho Tướng Nguyễn văn Minh ở QĐ III & V3CT khoảng tháng 7 hay 8/1972, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được bổ nhậm làm Tư lệnh QĐ IV & V4CT (thay thế Trung tướng Ngô Quang Trưởng ra Đà Nẳng nắm quyền Tư lệnh QĐ I & V1CT thế Trung tướng Hoàng Xuân Lãm để mở cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị sau trận Mùa Hè năm đó) đã đề nghị đưa ông về làm Tư lệnh SĐ21BB. Khi Tướng Nguyễn Khoa Nam về thế Tướng Nghi, đưa Tướng Hưng lên Cần Thơ làm Tư lệnh phó, trở thành nhân vật quân sự thứ nhì ở miền Tây, tức là cả vùng Đồng bằng Sông Cữu Long. Trong âm thầm tôi biết rằng Tướng Hưng được hai Tướng Nghi và Nam hiểu tài, quí trọng, nhưng chiến dịch bôi biếm ông ta trước đó, đã được đưa trình đến những cấp lãnh đạo cao hơn cấp tư lệnh quân đoàn và vùng chiến thuật từ lâu rồi…
Khi đến Cần Thơ sau khi gặp Trưởng Phòng 2 BTL/QĐIV & V4CT tôi đến văn phòng Tư lệnh phó, trình diện Tướng Hưng. Ông bắt tay mừng rỡ và hỏi tôi xuống Cần Thơ làm gì… Tôi nói nhiệm vụ mới của tôi. Ông hỏi tôi… ở đâu? Tôi trả lời: -“Xin nhờ anh lo cho…” Ông nói: -“Đến ở nhà tôi.” Tôi chỉ có cái rương sắt màu xanh từ thuở học trò, đựng mấy bộ quân phục, thường phục và mấy quyển sách, thêm một cặp vợt tennis. Từ cuối năm 1974, tôi ở trong tư dinh của Tướng Hưng, Chị Hoàng phu nhân của Hưng lại… đãi cơm cho tôi hằng ngày. Trên bàn cơm chỉ có hai vợ chồng ông và tôi. Việc làm không có gì, sáng chiều vào Phòng 2 gọi hotline về Phòng 2/BTTM/QLVNCH hỏi tin tức quan trọng ở các vùng chiến thuật khác trình Tướng Hưng. Chiến sự có gia tăng ở khắp nơi, nhưng nhiệm vụ của tôi chỉ có vậy. Khi nào cần thiết lắm và nếu Tướng Hưng muốn biết những tin tức quan trọng ban đêm, tôi dùng hotline trong phòng hành quân ở tư dinh Tướng Hưng hỏi Saigon. Miền Tây tình hình yên ả hơn, nên tôi vẫn có thì giờ đánh tennis đôi ba buổi chiều trong tuần. Ngày Chúa Nhật thường xoa mạt chược ở nhà ông chánh án Đổ Nam Kỳ, mà tôi quen biết được ở sân Tennis Ngọc Lợi. Ông chánh án Cần Thơ người Bắc nhưng tên… Nam. Những ngày như vậy, không ăn cơm, thì nhờ Trung uý Tùng hoặc Trung úy Anh, các sĩ quan tùy viên của Tướng Hưng, thưa lại với chị Hoàng. Ông bà Hưng có hai con, một trai chừng 6 tuổi và một gái 2 tuổi, bà ngoại các bé lo chăm sóc, phụ với Chị Hoàng.
Ông Hưng để tôi hoàn toàn tự do. Ăn, ở, hay đi chơi đâu đó mặc ý, không bao giờ hỏi. Khi nào buổi chiều ăn cơm ở… nhà, trời sập tối sau khi cơm nước xong, ông và tôi thường ra trước nhà, ngồi nhìn qua bên kia đường là một công viên trống trơn hình tam giác khá dài, mũi nhọn hướng về “bến bắc” Cần Thơ. Những buổi đó thường nói chuyện chiến sự… lẫn tình người. Những câu hỏi và câu trả lời đểu ngắn gọn như lối đối thoại giữa ông và tôi. Nhưng mỗi câu đều có ý nghĩa nào đó, mang nhiều suy tư vì thường không có những giải đáp rõ ràng. Thí dụ như, hỏi: -“Sao tụi nó đánh Thường Đức, Đại Lộc? Định cắt đôi miền Nam, cô lập Đà Nẳng hả?” Trả lời: -“Không! Không hẳn! Nếu nó chiếm Hội An, mình sẽ mất Đà Nẳng, Huế, Quảng Trị. Nếu Mỹ nín… tụi nó đánh bứt luôn QL-19.” Hỏi: -“Rồi sao?..” Trả lời: -“Đánh hết phía bắc Nha Trang, đưa CPLTMNVN vào lãnh thổ chiếm được, lập… nước… trái độn trung lập.” Tiếp: -“Nhưng Tướng Lưỡng đánh tụi nó lui rồi…” Trả lời: -“Thì thôi. Mai mốt đánh nữa! Nhưng không có ông Trưởng, ông Lưỡng đánh giỏi, mình mất miền Trung thì… đỡ cho miền Nam hơn!” Câu hỏi cuối: -“Sao vậy?… Không có câu trả lời… Than: -“Mình không thiếu người tài, anh hùng!..”
Tướng Hưng nói câu này tất nhiên là ông thừa nhận tài dùng binh của Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI & V1CT và Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, đã cứu nguy cho ông và giúp ông giữ An Lộc. Nhưng ông có biết ông cũng là một trong những người tài, anh hùng đó không?
Cũng tại tư dinh Tướng Hưng, một buổi tối tôi gặp lại Đại tá Mạch văn Trường. Tướng Hưng mời ông MVT ăn cơm tối, mừng ông này vừa được bổ nhậm chức vụ Tư lệnh SĐ21BB. Từ khi xuống Cần Thơ, tôi được biết nhiều hơn về ông nầy vì… “tiếng tốt đồn xa… tiếng xấu… đồn xa.” Người ta nói rẳ̀ng Đại tá MVT, khi làm Tỉnh trưởng Long Khánh, bị Giám Sát Viện điều tra về tội tham nhũng và hối mại quyền thế, với đề nghị ngưng chức, phạt trọng cấm, cấm chỉ huy trong 5 năm và giáng cấp. Trong khi chờ đợi ra Tòa án Quân sự ông thuyền chuyển về làm Trưởng phòng Thanh tra SĐ21BB. Bỗng nhiên, cả tướng tá vùng Đồng bằng Sông Cửu Long kinh ngạc vì… lệnh từ Saigòn xuống phong cho ông MVT làm Tư lệnh SĐ21BB, qua mặt hàng chục đại tá kỳ cựu, kể cả Đại tá Nguyễn văn Kiểm đang là quyền Tư lệnh Sư đoàn này và Đại tá Lâm Chánh Ngôn, Tham mưu trưởng, từng là cấp chỉ huy trực tiếp của MVT. Người ta cũng nói là ông MVT đã có… vấn đề với quan thầy cũ, Tướng Nguyễn văn Minh, lúc đó đã về làm Tư lệnh Quân Khu Thủ Đô thế cho Phó Đô đốc Chung Tấn Cang trở lại làm Tư lệnh Hải Quân. Ông MVT đang có các quan thầy mới nắm quyền hạn và vận mệnh quốc gia và quân đội… nên đề nghị của Giám Sát Viện đã bị vất vào sọt rác.
Đêm đó, ở tư dinh Tướng Hưng, sau buổi cơm Ông Hưng đi nghỉ, ông MVT ở lại cùng tôi chuyện trò ở cái băng ngồi trước dinh ngó ra công viên mũi tàu, tôi chưa hỏi thì ông MVT đã nói: -“Tôi biết khi ở trường học anh là học trò giỏi nhưng vào quân đội anh trung thực quá nên không tiến xa được. Phải có ông thầy, bà cô.” Và ông tự động nói vì sao ông… chinh phục được Tướng Minh lúc trước và các ông… tướng cầm quyền lúc đó. Ông nói trong tử vi, thân và mệnh của ông “không có sao chính, nhưng ba vì sao mang chữ “không” đều đắc địa, sách nói là “thân mệnh đồng cung vô chính diện” nhưng được cách “đắc tam không” và vì vậy nên ông sẽ lên tướng không bao lâu nữa. Quả thực chỉ mấy tuần sau ông được phong tướng. Tôi khen ngợi ông là người có chí lớn và thực hiện được mộng làm tướng mà lúc trước, khi còn ở SĐ5BB, lúc nào ông cũng cầm quyển sách “Học Làm Tướng” –không rõ tác giả– trong tay mỗi khi tôi gặp ông. Tôi tin tưởng rằng nếu chế độ Công Hòa miền Nam còn tồn tại, chỉ vài năm sau ông MVT sẽ thăng đến cấp tướng hai ba sao hay giữ chức vụ cao trong chính phủ và quân đội –tổng trưởng hay tư lệnh quân đoàn, vùng chiến thuật. Còn Tướng Hưng và cả Tướng Lưỡng đã bị các sao lớn Tử Vi, Tham Lang và Phá Quân án mất bóng rồi. Các ông đã bị “triệt” rồi… Tướng Hưng không biết có biết hay không… nhưng Tướng Lưỡng đã biết. Sau nầy định cư ở HK, khi ông còn sinh tiền, tôi hân hạnh được điện đàm nhiều lần với ông, một lần ông nói rõ vì sao lúc đó ông bị bạc đãi và nghi ngờ… tuy vẫn được sử dụng vì chưa… có người thay thế. Các tướng trẻ lúc đó đang được tín cẩn là các ông Lân, Đảo, Nhựt, Vỹ và Trường.
Thời điểm đó là sau khi quân CSBV vừa đánh chiếm Ban Mê Thuột, Tướng Hưng và tôi mấy đêm liền bàn về việc tại sao chúng tấn công Ban Mê Thuột và nghĩ rằng CSBV thực hiện chủ trương mà tôi đã trình bày cùng ông lần trước là chúng tấn công suốt dọc QL-19 từ Ban Mê Thuột xuống tận Ninh Hòa ra bờ duyên hải và lập CPLTMNVN thành một quốc gia trái độn từ phía bắc Nha Trang trở ra đến Bến Hải. Nhưng… không phải. Có thể là chúng làm chưa xong con đường Trường Sơn Đông vì bị nghẽn ở Quận Đức Lập, Tỉnh Quảng Đức, làm trở ngại cho việc việc chuyển quân từ Khe Sanh vào Phước Long và Lộc Ninh là vùng tập trung gần nhất để đánh thẳng vào Sàigòn… vì vậy chúng tấn công Ban Mê Thuột, chiếm Tỉnh Quảng Đức như đã chiếm Tỉnh Phước Long đầu năm 1974 –theo như ước tính của Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 BTL/QĐII & V2CT. Tình hình tiến triển quá nhanh làm cho tất cả mọi người ngạc nhiên và bỡ ngỡ, vì những quyết định của TT. Nguyễn văn Thiệu, kể cả CSBV… vì chúng dự trù sẽ giải phóng… được miền Nam ít nhất là đến năm 1977, kể cả Hoa Kỳ… vì hình như chưa đủ thời điểm… Kissinger dự trù mất miền Nam mà Hoa Kỳ không mang tiến phản bội bỏ rơi miền Nam mà sau này một sĩ quan CIA từng làm việc ở Saigòn, Frank Snepp, gọi là “decent interval”, khoảng cách thích nghi. Gom lại là chuyện TT. Thiệu ra lệnh bỏ Vùng 2 Chiến Thuật và Vùng 1 Chiến Thuật. Thôi thì về các quyết định nầy và hậu quả ra sao ai cũng biết rồi, tưởng không nên nhắc lại ở đây.
Từ ngày 20 tháng 4, 1975, Tướng Hưng muốn cho tôi về Saigòn tìm hiểu thực rõ ràng tình hình chính trị và quân sự sau khi Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh BTL/HQ QĐ III & V3CT và Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 KQVN bị… mất tích ở Sân bay Ninh Thuận và Tướng Lê Minh Đảo đang đánh nhau dữ dội và chận đứng quân CSBV ở Long Khánh. Nhưng đường bộ bị cả mấy sư đoàn của CSBV thuộc cánh quân 232 cuả Lê Đức Anh mới thành lập cắt đứt ở vùng Tân Trụ, Tỉnh Long An, từ mấy tuần trước, nên không về được. SĐ7BB không thể giải tỏa được. Chờ cả tuần liền. Cuối cùng, đêm 27/4/1975, sau buổi cơm tối, Tướng Hưng cùng tôi ngồi trước nhà nói chuyện… Saigòn đã thay chủ, từ tay TT. Thiệu sang Phó TT. Trần văn Hương và nghe đâu sẽ chuyển sang tay Đại tướng Dương văn Minh… Ông nói ngày hôm sau, sau khi đi thăm mấy đơn vị trở về, ông sẽ cho trực thăng chỉ huy của ông đưa tôi về Saigòn. Ngay lúc đó ông chỉ thị Trung úy Tùng, Sĩ quan Tùy viên, mang ra hai khẩu tiểu liên Tiệp khắc do một đơn vị trưởng biếu ông ở chiến trường An Lộc. Loại súng nầy khi xếp lại nhỏ như khẩu súng lục, băng đạn 79 viên, bắn từng loạt hay từng phát cũng được. Ông chỉ vào một trong hai cây tiểu liên đó và nói: “Tặng Dưỡng một cây, nếu tụi VC hôm nào xuất hiện ở công viên trước nhà, tràn vào, nhớ bắn cho đến viên đạn cuối cùng. Còn tôi, tôi sẽ chừa lại… bốn viên…” Tôi hiểu ngay và cướp lời ông: -“Không! Anh chỉ… có quyền chừa lại… một viên thôi…” Im lặng. Không biết ông Trung úy Tùng có nghe hay không…
Hôm sau, 28/4/1975 trực thăng của ông chở tôi về Saigòn, đáp xuống sân cờ BTTM. Khi đó hình như Đại tướng Dương văn Minh đang được bàn giao vai trò lãnh đạo… lịch sử về sự sụp đổ miền Nam.
Chỉ mấy ngày sau ngày 30/4/1975, tôi nghe tin Tướng Lê văn Hưng đã tuẫn tiết. Hình như không phải bằng cây tiểu liên Tiệp khắc… Nhưng bằng súng gì hay bằng cách nào thì cũng đã thành Thần.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Hạ Uy Di, ngày 20/4/2012
BẢN ĐỒ & ẢNH
- Bản đồ # 1: Sơ đồ tổng quát Thị xã An Lộc.
- Bản đồ # 2: Sơ đồ phối trí lực lượng phòng thủ.
- Ảnh # 3: Nghĩa trang Liên đoàn 81 BKD.
- Bản đồ 4: An Lộc sau khi CSBV tấn công đợt 1.
- Ảnh # 5: Phòng 2 BTL/HQ/SĐ5BB bị một chiếc dù tiếp liệu rớt sập nóc.
- Bản đồ # 6: Sau khi CSBV tấn công đợt 3.
- Sơ đồ # 7: Các hướng phản công của lực lượng phòng thủ ngày 8/6/1972.
- Sơ đồ # 8: Toàn diện mặt trận Bình Long.
- Sơ đồ # 9: Vị trí chiến xa CSBV bị hạ trong An Lộc.
- Ảnh số 10: TT. Nguyễn văn Thiệu viếng An Lộc ngày 7/7/1972.
- Hai ảnh các chiếc vòng An Lộc.
GHI CHÚ: Bản đồ và ảnh tìm trong mấy tài liệu cũ lâu rồi. Chụp sao lại đưa vào bài viết. Mong các nơi nhận in ấn dựa vào tài liệu nầy vẽ lại các bản đồ. Về ảnh, xin sưu tầm ở các nguồn tài liệu khác.
*Bài thơ nầy dài, không nhớ tựa, chỉ nhớ đoạn thơ dưới đây:
Ngọn đồi A-1 ấy
Nhìn vào ai chẳng thấ́y
Dáng anh em tôi nằm…
Nền của viện bảo tàng
Móng xây vào máu lửa,
Trong đoàn người tham quan
Bao nhiêu bà góa bụa?
BẾN PHÀ TÂY ĐÔ
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NVD
Ngơ ngác nhìn mây trôi lãng đãng
Xuôi dòng hay ngược sóng trường giang…
Lục bình từng mảng xanh xanh quá,
Trắng mắt ta nhìn xa bến xa.
Ngày về hỏi lại, không ai biết
Bến cũ người xưa nay ở đâu?
Chuyến phà qua lại đôi ba chiếc
Năm bảy dòng xe đợi bến qua,
Những buổi ta về mang áo trận
Chờ phà,
Ăn ở quán ven sông.
Cô hàng mắt đẹp, nhìn như nói,
Má phớt mồ hôi, vén tóc mai,
Mởn mơ thân áo bà ba lụa
Bao nếp cong là bấy nét duyên.
Ta đi nhớ mãi màu xanh ổi,
Màu mận hường,
Hay trái em thơm…
Thoáng qua những tháng năm dài ấy
Thành cố nhân rồi em biết không.
Biến thiên cũng đủ thành dâu biển,
Nay bến phà xưa đã vắng tanh.
Chiếc cầu cao ngạo đôi bờ nối
Không lạ mà sao chẳng thấy quen!
Có người thương phế ôm đàn hát
Trên bến phà xưa như nhớ ai…
“Đồng cỗ miên viễn vọng. Chiến lũy bất nan tầm. Trượng phu hà tất lụy. Danh tướng tuẫn vong thành. Thiên thu giai hữu định. Quố́c sử lưu kỳ danh. Nam, Hưng, thiên cổ sự. Minh, Minh, xú xú vinh!..”
Tiếng hát như từ tim trổi đi,
Nhìn anh để thấy anh lần cuối
Thấy rõ trong anh nỗi đoạn trường.
Ôi Tây đô!
Ôi Cửu Long ơi!
Những người năm cũ không còn nữa
Còn một tấm lòng chung thủy xưa. *
Để nhớ ngày tủi hận 30/4/1975
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NVD
LẬT ĐẤT
LẬT ĐẤT LÊN TÌM SÔNG NÚI XƯA
HỠI HỒN ĐẤT NƯỚC CHẾT HAY CHƯA
MÀ SAO UẤT HẬN CHÔN TA SỐNG
MÁU BẬT LÊN BẦM MẤY TÚI THƠ
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NVD
1.
Bỗng chợt khóc chợt cười như người điên vỡ mộng
Vì hình như trong máu có cơn đau,
Nên Thượng đế quay đi không muốn gọi,
Và Nát bàn không có chỗ để nương thân
Nên thẩn thơ lỡ bước lạc vào trần
Như bào ảnh
dễ quên
hay vẫn nhớ….
Vả bạc bẽo vẫn từ muôn thuở
Của thần tiên,
và của cả nhân gian.
Nên,
Em có đến, có đi, và có bận
cuộc tình nào
xin hãy cứ dong chơi…
Anh cũng khóc, cũng cười,
Cũng vật vã như mặt trời ngủ muộn,
Cũng lửng lơ như vầng trăng mất bóng…
Sẽ cưỡi cao trên vô lường ngọn sóng,
Sẽ hát cuồng trong vô tận ảo mê.
Từ những tháng năm đi, về, lạc lõng
Linh hồn anh không chỗ đứng
Tựa vào anh cho thể xác anh đau,
Như nghìn xưa con biển lớn không đầu
Tựa vào đất cho bãi chao thành sóng…
Anh thương con dã tràng
Bỏ công mình cho ngày tháng vô biên…
Vả,
Cuộc đời đầy trắc diện,
Xin chỉ dừng chân
nghe anh kể
về những chuyện không quên…
2.
Khi mùa xuân đi vào vạn vật,
Khi các loài chim bắt đầu ca hót,
Ai không muốn nghe con người kể chuyện
Tình yêu
Hơn những điều không có thực
Ở những cõi thiên đường,
Hay nơi ở của thần tiên.
Những nơi
không có chỗ để làm tình
dù cho họ khoả thân…
Ở đó
Chỉ có mùa xuân và hồn nhiên
Thiếu những mùa thương khó khác..
Hay, anh xin chỉ kể cho em nghe về
VỀ ĐẤT NƯỚC TA
VÀ TỰ TÌNH TỔ QUỐC
Nơi có nước đổ theo trăm sông
trên những cánh đồng lúa mạ.
Nơi có núi cao, biển cả,
Có phù sa đất chìm với nội cỏ thảo nguyên,
Có ngày, có đêm,
với những mùa mưa, nắng…
Khi rừng già còn kín tiếng
Trên những cánh đồng câu hò đối ngẫu đã vang vang;
Trẻ mục đồng kéo cờ lau đánh giặc,
Đàn trâu đen lặng lẽ nhìn bầy cò trắng bay xa…
Con gái cắt lá trầu xẻ cau cho mẹ,
Con trai dành dăm đồng mua xị rượu cho cha.
Giấc mơ không cao hơn mái lá
Mà lòng người thì dậy cả núi sông
Qua những mùa kháng chiến…
Từ nghìn xưa đến tận những nghìn sau.
Người ta theo cuộc chiến
Người ta vẫn yêu nhau.
Em hiểu không em,
Nên hiểu
tự ban đầu
Cái vẻ đẹp của đất nước ta là thế đó,
Cái vẻ đẹp của thế nhân là thế đó…
Sao con người còn gạt nhau
Về những chuyện đâu đâu !.. …
3.
Người ta nói với anh rằng
“Không có gì mới lạ
dưới ánh sáng mặt trời.”
Nhưng anh biết có nhiều thay đổi
Trong mùa Thu… máu rơi…*
Buổi sáng khi con ong không còn hút nhụy
trên cành hoa tím
và nhả mật vàng vào tổ trên cây,
Con bướm không còn vẩn vơ
trong ánh nắng thảnh thơi.
Khi lịch sử đứng lên
theo tiếng gọi mị dân
của những người giả danh tổ quốc.
Khi da thịt con người
là mồi ngon
của loài cá tôm dưới nước,
Máu xương con người
là phân mục
cho loài sâu bọ rỉa, bu…
Nên
Nước xanh cũng thay màu
Đồng xanh cũng thay sắc.
Bóng đêm là cõi chết,
Ánh sáng mặt trời mang sợ sệt nơi nơi…
Anh hàng xóm hiền lương trở nên dữ tợn
Mang gậy gộc vào đập chết chị nông dân,
Thằng bé ngu ngơ cũng hát khúc quân hành,
Đến đồng không mông quạnh,
Trường học vắng tanh
Hoa điệp rụi tàn trong sân lạnh.
Cỏ mọc tràn đồng,
Phố thị tiêu sơ…
Dân lành lo sợ
Nồi cơm trên lò cũng biết nói chuyện đói no,
Manh vạt mùng co thành manh áo thay tạm bợ.
Hay con người đã quay về thái cổ
Không biết đến tương lai.
Hay giấc mộng dữ đêm đêm từ đó thực dài
Cũng trường kỳ như chiến tranh thuở ấy.
Và những gì đổi mới
Là cuộc sống thanh bình biến mất trong tầm tay…
MÙA THU NĂM 1945
4.
Từ nhỏ anh đã nghe
Dòng sông nhớm mình trong bóng tối;
Cuộc sống nổi lên ở đó.
Lượng nước mặn của biển Đông với rừng tràm lá đổ
Rừng U-Minh vẫn có lối đi, về,
Mà dân đen không thoát kiếp
“mang gọng cày ví, thá, với con trâu”.
Nên sóng trăm năm vẫn âm thầm cuộn chảy,
Rừng trăm năm vẫn đơm đặc những gai hoang…
Đất nước ấy tự bao giờ đã hỏi:
Ai khơi quá khứ,
Ai mở tương lai?…
Nếu em biết được,
Thôi thì cứ nói
Từ Lạng Sơn núi rừng đến Cà Mau đất mũi
Dù cuộc sống đắm chìm
với nghìn năm xa xôi
với trăm năm u tối,
Khí thiêng vẫn nhuần gội
đất, nước, núi, sông,
khi mưa thuần, khi nắng cháy…
Nếu em biết
Đến thai nhi chín tháng
Tự bẩm sinh từ trời đất sơ khai
Máu, huyết, tạo nên thân thể đủ hình hài
Ngộp hơi thở
vì không gian dồn nén…
Sẽ bung ra từ vòm bụng kín bưng,
Dù Mẹ có đau
với nỗi đau vô lường…
Một dân tộc bị ép mình nhiều năm tháng
Tự thể xác ẩm ê,
Tự linh hồn u uất,
Sẽ vùng lên bức phá không gian
TÌM TƯ DO VÀ HƠI THỞ.
Và an lành hay đau khổ
Ở trong tay thầy hay, cô đỡ giỏi,
Nào phải đâu lệ thuộc giống dân HỒ !..
5.
Có lắm kẻ ngu ngơ bên bờ sông nước xoáy,
Có những người cắm thuyền ngoài bãi,
Mặc những đợt sóng cồn cuốn mãi ra khơi,
Nên lòng người khoắc khoải
Cho vận nước nổi trôi…
dập dồn cơn bão lớn.
Có những người muốn chờ phép lạ,
Có những người muốn dấn thân
Lo việc lớn…
Rồi, có một kẻ xảo ngôn
Muốn làm bậc thánh,
Nhân mùa ly tán đó
dạy dỗ môn đồ
kỹ xảo
đấu tranh…
Gây thành
Máu đổ.
Hắn dấn mãi con người vào cõi vô luân.
KARL MARX hay LENIN?
Không !
HỒ CHÍ MINH…
Phải! HỒ CHÍ MINH, chính hắn
Tên tội đồ dân tộc.
Hắn bảo: “chống xâm lăng và giai cấp…”
Không !
Hắn
Chống núi chống sông,
Chống đồng chống ruộng,
Chống cây cỏ bên đường,
Chống cầm thú muôn xa…
Chống lá chống hoa,
Chống rừng già biển cả;
Chố́ng cha mẹ trong nhà,
Chống mồ mả ngoài hoang…
Ai không là nạn nhân?!. … …
Xin em đừng hỏi.
SỰ THỰC HÔM NÀY CÒN LƯU MÃI VỀ SAU…
Buổi đất nước trở mình
Lũ giặc HỒ ngỡ rằng đã làm lịch sử…
Lịch sử chúng bày
HAY LỊCH SỬ CỦA CUỘC CHIẾN NÀY
ĐẦY XẢO TRÁ, DỐI, GIAN.
6.
Mùa Thu máu ấy
Thây tràn trên biển sóng
Họ gióng trống đồng kể chuyện núi sông -chống xâm lăng-
Của Phù Đổng Thiên Vương,
Của Hai Bà Trưng,
Bà Triệu,
Của Ngô
Đinh
Lê,
Lý
Trần,
(với tiếng reo hò của các bô lão
trong Hội nghị Diên Hồng…)
Với Hưng Đạo,
Với Quang Trung.
Anh cũng lớn lên
Thấy dân đen máu đỏ
Xương trắng trên đồng xanh,
Lúa chen cùng cỏ dại.
Người ta giết người bên này
hay bên kia bờ sông cái…
Có cha, mẹ, của em không,
Hay chị, em, của anh,
Hay những người vô tội …
Bỏ cuộc sống phì nhiêu cho mạch đất hoang sơ.
Người ta tìm đồng đội hay chỉ mặt kẻ nội thù…
Xa xa chốn biên khu,
Gần đây trong thành phố,
Họ mang mặt nạ vào chửi đổng kẻ xa xăm
Mồ cha thằng Tư bản,
Mồm đĩ lũ Mác-Lê
Nói cho nhau nghe, nói hết sự tình
Cho những thế hệ cúi đầu suy gẫm…
LÀM SAO CÓ CHIẾN TRANH?
Ảo ảnh trôi qua như bóng nắng qua thềm
Và sư thực cũng không dừng trong chốc lát,
Người ta kể cho nhau nghe, quá nhiều,
về những truyền kỳ trong chiến cuộc,
Nhưng quá ít về những thương đau mất mát.
VÌ NGƯỜI TA MUỐN GIỮ CHO MÌNH DÒNG BÍ MẬT
MÀ LỊCH SỬ SẼ QUÊN ĐI.
Như em muốn giữ cho em tấm trinh nguyên buổi ấy
mà suốt đời anh nhớ không quên…
ANH SẼ LẬT ĐẤT LÊN
TÌM SỰ THỰC
Để nghìn năm không thể dễ quên đi…
7.
Hay cứ mặc
Mặc tình,
Mặc tội,
Mặc cho con người tráo trở, thẳng ngay…
Đọc Thánh kinh xin em đừng đọc vội,
Hát bản tình ca nào đừng nghĩ có chia ly,
Vì thời gian mang ý nghĩa diệu kỳ
Sẽ trả sự thực cho những gì không thật đúng.
Nếu có người bảo cuộc đời nầy là giấc mộng,
Coi những điều thực kinh khủng
Như lửa cháy thành Sodom,
Hay cơn Hồng Thủy
và con thuyền No-ê chập chùng trên biển sóng
Với thái độ lạnh lùng,
Coi thường cõi sống…
Họ là những kẻ vô ân.
Cũng lắm kẻ đã nhân danh những giấc mộng
Gây bão táp bạo hành
giết con người
bằng bạo lực đấu tranh
Mà cho là giải phóng…
Họ là lũ vô nhân.
Nếu người ta tạo cho mình sức mạnh
Để thành kẻ phi nhân…
Thì anh xin em một chút tình
Để sưởi ấm tim anh
mà ấp ủ thương đau,
Khi họ mang bom đạn trùng trùng và ngọn lửa đỏ au au
Vào
Phá tan từng thành phố,
Đốt cháy những cánh đồng
Thiêu xác người già, thui sống trẻ thơ…
Khi từng gốc cây rừng còn hơi thở
Thì từng góc chiến trường rồi sẽ rõ thực hư.
Vì tất cả là sự thực
Diễn ra từng ngày
trên mọi nẻo quê hương
suốt chiều dài cuộc chiến.
Em sẽ nói gì hay em nín lặng
KHI EM LÀ CHỨNG NHÂN,
KHI EM LÀ NẠN NHÂN
CỦA HIỆN HỮU MẤT CÒN,
KHÔNG MỘNG MỊ CHIÊM BAO…
8.
Anh xin kể cho em nghe
Chuyện con người tạo nên tội ác
Bằng hai chữ NHÂN DANH.
Người ta đã nhân danh văn minh để dựng nên những đế quốc,
Nhân danh con trời lập những bậc đế vương,
Nhân danh thánh thần nói những chuyện hoang đường,
Nhân danh giống nòi gây ra thế chiến.
Hitler đã nổ tung trời Âu,
Thiên hoàng ̣đã xé tan biển Á,
Đến vật đổi sao dời, trời sầu, đất thảm…
Giặc Pháp nhân danh sự thịnh vượng
để trở lại Việt Nam.
Những tên cộng sản đã nhân danh
Độc lập
Tự do
Hạnh phúc…
Hay nhân danh lòng yêu nước của giống nòi,
Để đánh đổ nhân luân,
bóp nát cang thường,
xóa tan phong hóa;
Khích động,
Tuyền truyền,
Thủ tiêu,
Tước đoạt…
Một chiến trường dài cày tung mặt đất,
Một chiến trường sâu xoáy mất tâm linh
của hàng triệu triệu dân lành.
Chúng giết người dã man:
sống có tên, chết không còn xác…
Đến núi cao cũng rùng mình vì sợ,
Đến biển rộng cũng rúng mặt vì kinh.
Giấc ngủ đêm đêm từ đó bỗng giật mình,
Tiếng súng ở đâu mà dòn dã đêm, đêm…
Chị em anh run rẩy,
Cha mẹ anh lặng thinh,
Những giọt nước mắt rơi thầm trong gọng kính,
Những nỗi đau lớn dần,
Những linh hồn sụp đổ.
ANH XIN MỘT CHÚT TÌNH,
ANH XIN MỘT CHÚT TÌNH…
XIN ĐỪNG NHÂN DANH.
XIN ĐỪNG NHÂN DANH !
9.
Người ta nói với anh rằng,
“Nước của sông Hoàng Hà đổ đến từ không trung”
Còn có gì để tin.
Nhưng cuộc chiến này bắt đầu bằng những điều phi lý
Bởi những kẻ lưu manh
với chủ nghĩa phỉnh phờ,
tự cho là “cách mạng”,
Lường gạt người trí thức,
Dối lừa cả dân tộc…
Trang bị cho dân đen
những cây gậy tầm vong
và lòng hận thù giai cấp;
Áp dụng những kỹ xảo đấu tranh bạo lực:
Hợp tác,
Phản bội,
Giết chóc.
Khi hiểu ra rồi chiến cuộc đã lan nhanh…
Vòng lịch sử bắt đầu quay bánh
Với sức mạnh bạo tàn
Hơn tiếng súng khai phóng của cuộc đổ bộ Normandie,
Hơn sự tàn phá của trái bom hình nấm
ở Trường Kỳ, Quảng Đảo,
Hơn những gì không tưởng của những lãnh tụ ngoại bang.
Cả dân tộc Việt Nam bắt đầu đau đớn
Khi một triệu người vượt vĩ tuyến vào Nam !..
Xin đừng hỏi anh những điều gì về lý tưởng
Trong cuộc chiến thảm thương,
Khi Cộng Sản Việt Nam
Giết người không thương tiếc
ở Huế Tết Mậu Thân; ở Đại lộ Kinh hoàng;
ở An Lộc Bình Long trong “mùa hè đỏ lửa”;
ở Đường 7 Kontum trong “mùa xuân đại thắng”;
Cho đến ngày miền tự do sụp đổ,
Chúng đày đọa con người vào muôn cõi trầm luân…
Khi những triệu con người đi tìm tự do và lẽ sống,
vượt rừng ngàn, biển lớn,
Khi những tên đồ tể
ngạo nghễ đùa
trên tính mạng của nhân dân !..
Làm sao anh có thể kể hết cho em nghe
nỗi đau của đất nước trong chế độ côn đồ…
dưới ánh sáng nhập nhằngvà bóng tối nhiêu khê ?!.
Thôi,
Anh xin chỉ kể cho em nghe về
Sự chiết trung của nhân thế
Vì một lần … đã lỡ đến nơi đây !..
10.
Nếu người ta bảo nơi nầy là
thiên đường, địa ngục, hay trần gian.
Xin em cứ hỏi…
Khi kể xong rồi em có thể bảo anh điên.
Anh thấy nơi nầy
HỘI ĐỦ CẢ TRĂM MIỀN,
TRONG VÔ TẬN NGƯỜI TA CHƯA TÌM THẤY
NƠI NÀO NHƯ Ở ĐÂY…
Có: cực lạc và bi thương
khổ đau và hạnh phúc
Vì: nơi nầy là vô thường
trong muôn cõi vô chung.
Nếu chưa rõ xin em cứ hỏi,
Có phải con người làm tình tạo nên xã hội,
Vũ trụ làm tình nên nổi gió nổi mưa,
Có phải em đến làm tình với anh nên anh mê dại…
HAY CHÍNH CUỘC TƯƠNG TÀN NẦY
ĐÃ GIẾT CHẾT LINH HỒN ANH…
Nên anh nào biết thiên đường, địa ngục, ở đâu !
Nếu thuở ban đầu
Thể xác chưa gặp linh hồn,
Khi đất nước chưa dựng nên,
Chiến tranh chưa tàn phá,
Khác nào
Khi đôi chân Eva chưa kịp mở giữa địa đàng
Và Adam còn ngủ mê bên trái cấm…
Thì cuộc sống này có ý nghĩa gì đâu !
Em đến cho anh những gì vô giá
Đôi mắt,
Bờ vai
Đôi vú mọng
căng tròn sức sống
Nên tình yêu anh lớn…
Cám ơn MẸ đã cho amh hơi thở.
Cám ơn EM đã cho anh nụ hôn.
Thi nhân sẽ còn làm thơ
Kể chuyện
Chiến tranh và Ái ân
Không là dung tục.
Vì cuộc đời vốn dĩ là TÌNH YÊU.
DÙ CÓ Ở ĐÂU XIN EM GIỮ LẤY.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NVD
Xuân, năm 2010
2 Comments
CONG DAO
Cám ơn tác giả thật nhiều , tuy nhiên cũng là một bài viết ” từ trong hầm ” nên có nhiều điều xảy ra bên ngoài ” cái hầm “.
1- Tướng Nguyễn vĩnh Nghi không làm tư lệnh SĐ21BB hành quân giải tỏa An Lộc mà là Chuẩn-tướng Hồ trung Hậu khi đó là tư lệnh phó SDND do ông có mặt tại chổ (BTL Tiền phương SDND) còn Tướng Nghi quay về làm Tư Lệnh QD IV & QK 4
( lý do thì chỉ có trời biết )
2- TD6ND sau khi ” bể ” tại đồi gió , được bổ sung bằng 250 quân phạm nghĩa là lính trời ơi đất hởi để tiểu đoàn ” đứng dậy , chiến đấu nữa , bắt tay thằng tám ” .
3- Ngoài nhiệm vụ ” bắt tay thằng tám ” TD6ND dẩn theo DD15 Trinh sát để giao lại cho cha mẹ nó ( TrD 15BB ) chứ không phải 300 quân bổ sung.
4- Từ đâu có cái gọi là ” hành quân tử thủ ” . Giặc tập trung quân đến 3SD gồm cả xe tăng , đại pháo mà không hay không biết, cứ nằm chờ nó đánh rồi kêu cứu , tướng tá thì phải cùng phe mới được. Có ai biết tội nghiệp cho những thằng lính chúng tôi. Bây giờ các vị lại ngồi viết bài ca tụng nhau.
Xin ra khỏi cái tháp ngà để biết nắng gió mưa bảo là thế nào.
5- Xin được hỏi tướng Hưng có phải là một ông tướng ” SẠCH ” không ? Cho dù phải hay không , hay gì gì đi nữa , hành động tự sát của Ông cũng cứu gở cho danh dự của QLVNCH ( một quân đội của một quốc gia chỉ có 5 ông tướng mà thôi). Xin để Ông yên nghĩ.
Tichdoan
Thưa ông Dưỡng,
Thời gian An-Lộc thì tôi ở Thừa Thiên. Tôi có một người bạn thật thân là Trung Úy PHAN TRỌNG DŨNG, cùng từ Sư-Đoàn 21 về Sư Đoàn 5 theo Tướng Hưng và đã hy-sinh nghe nói tại hầm chỉ-huy của Tướng Hưng.
Ông là người sát cánh cùng Tướng Hưng, và nếu như ông có biết ít nhiều về Dũng xin ông cho chúng tôi được biết Dũng đã nằm xuống thế nào và xác được chôn ở đâu, vì đây là điều mà chúng tôi, một số chiến-hữu thật thân với Dũng vẫn canh cánh bên lòng.
Chân thành cảm ơn ông
Đoàn Tích