Lời mở đầu
Hôm nay, ngày 23 tháng 6, điện thoại qua New York City, Mỹ quốc để chúc mừng Sinh Nhật của con gái đang làm việc tại Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Và hôm nay cũng là ngày đánh dấu 28 năm (1980-2008) tôi và gia đình bỏ nước ra đi tìm Tự Do. Thật là một sự ngẫu nhiên! Con gái tôi được sinh ra tại Tây Đức (23.06) năm mà tôi làm luận án tốt nghiệp Đại học. Sau những năm cháu theo học Trung học tại Đức và tại Mỹ, bây giờ cháu tốt nghiệp đại học New York University – Stern School of Business, ngành Tài Chánh (Finance) lúc 20 tuổi. Văn bằng tốt nghiệp đại học được ghi hạng tối ưu (cum laude) và cháu cũng nhận được bằng ban khen với tên của Đại học. 9 tháng trước khi tốt nghiệp, cháu được Ngân Hàng “Investment Bank Goldman Sachs” toạ lạc tại West Street in Lower Manhattan, New York City nhận vào làm việc. Đó là niềm vui cho gia đình và là động lực khuyến khích tôi ghi lại đôi giòng về cuộc hành trình vượt biển mà tôi và gia đình đã trải qua trên biển Đông vào mùa hè năm 1980.
***
Khởi hành:
Mặc dù thời gian trôi qua thật nhanh, nhưng nhiều hình ảnh ra đi vượt biên vẫn còn đọng lại tiềm tàng trong trí ức. Làm sao tôi quên được những sự ra đi quá hải hùng của những đứa con của Mẹ Việt Nam, những đứa con bất hạnh, những người đi tìm tự do, tìm cái sống trong cái chết của mình, mà thế giới gọi là thuyền nhân „Boat People“ mà tôi cũng là người trong cuộc.
… Đêm nay đêm tối trời, tôi bỏ quê hương
Ra đi trên chiếc thuyền hy vọng vượt trùng dương
Em đâu đâu có ngờ đêm buồn
Bỏ lại em cay đắng thật thương
Hò ơi, hò ơi, tạm biệt nước non…
(Trích Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Vào một đêm mùa hè trăng sao, ban ngày trời nóng chan chan, nắng cháy da người. Tôi cùng vợ và 2 con từ Sài Gòn đi xe đò về Tây Đô thân yêu. Tối hôm đó, tôi cùng gia đình vợ và 2 con được hướng dẫn lên một chiếc ghe rất nhỏ. Chiếc ghe nhỏ nầy đã được cất dấu nhiều ngày trong 1 con lạch, được che bởi những khóm cây dừa nước tại vùng Cần Thơ, chuẩn bị di chuyển người ra một chiếc ghe lớn để đưa chúng tôi vượt biên. Chiếc ghe lớn đang đậu núp ở một ven bờ Tiền Giang, hướng ra biển. Ghe lớn có chiều dài khoảng 12,5m và chiều ngang khoảng 2,5m.
Trong lúc chiếc ghe nhỏ luồn lướt qua những con lạch, băng qua những khóm dừa nước, lao nhao đôi chú ếch nhái, ểnh ương đang đi tìm mồi và đùa giởn réo gọi nhau bỗng dưng yên lặng, trả lại cho màn đêm tịch mịch. Nhưng rồi, xa xa vọng lại những tiếng rên rĩ của côn trùng, tiếng kêu của những lũ ếch nhái khác hoà với làn gió nhè nhẹ thổi vào đêm trăng mùa hè cùng với bóng dáng của cành lá cây, rào rạc ở hai bên bờ rạch, lúc ẩn lúc hiện tạo nên một âm thanh khó hiểu, huyền dịu. Loài côn trùng, động vật có thấu hiểu chuyện gì đang xảy ra bên cuộc sống thanh bình của chúng? Chúng tôi không phải là kẻ săn bắt chúng hay phá rầy sự sống của chúng. Chúng tôi là những người đang tìm đường vượt biển với tâm lý vừa vui buồn lẫn sợ hải. Đôi khi tôi nghĩ ngợi, mình cũng thầm cảm ơn những chú ếch nhái và côn trùng, cây, gió. Nhờ có chúng mà chúng tôi không bị lộ tông tích vì tiếng ồn do chúng tôi có thể tạo ra trong lúc di chuyển.
Sau một thời gian lặng lẽ âm thầm ra đi trong đêm tối, chúng tôi vượt ra khỏi rạch nhỏ thì vào sông Tiền Giang, rồi đến ghe lớn. Lúc đó vào khoảng 1 giờ sáng. Trên ghe lớn cũng đã có một số người từ những ghe nhỏ khác đã được đưa đến. Rồi dần dần có thêm nhiều ghe nhỏ nữa chở thêm người tới.
Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị, sau khi người chủ mua ghe và trang bị máy móc ở vùng Hà Tiên, Rạch Giá, tôi đã có nhiều lần xuống vùng đó để kiểm soát lườn ghe cũng như xem xét máy móc được trang bị như thế nào. Khi thử chạy máy và kiểm soát kỷ lườn ghe thì thấy tất cả đều tốt. Chủ ghe cũng cho tôi biết rằng ghe sẽ chở khoảng 80 người mà thôi. Nghe vậy, tôi nghĩ rằng với chiếc ghe nhỏ như thế nầy cũng có thể vượt biển được mặc dù trên đường đi nếu biển động nhẹ. Nhưng khi tôi lên ghe lớn thì thấy quá nhiều người trên ghe rồi. Chiếc ghe quá tải, tưởng chừng sắp bị chìm. Với số lượng người đông như thế này, tôi đoán có khoảng trên 170 người. Chiếc ghe đang còn ở trên sông, nước phẳng lặng mà đã xem như sắp chìm rồi thì làm sao ra biển đi được. Thấy vậy, tôi đã kêu gọi những người đang chuẩn bị lên ghe lớn sau cùng nên hảy ở lại quê hương và trở về nhà thì tốt hơn. Nếu không, khi ra biển, gặp sóng gió lớn, ghe sẽ bị chìm ngay và sẽ chết hết. Sau khi nghe tôi nói như vậy họ đã hiểu, cho nên một số người còn đang ở trên ghe nhỏ họ không bước lên ghe lớn nữa, cũng như một số người đã lên được ghe lớn họ cũng bước xuống ghe nhỏ mà trở về.
Mặc dù vậy, chiếc ghe vẫn còn quá tải. Lườn ghe đã chìm sâu, chỉ còn khoảng 10 cm nổi trên mặt nước mà thôi. Riêng cá nhân tôi, với nhiều năm đi tàu biển, có nhiều kinh nghiệm về sóng gió, biết rằng với chiếc ghe nhỏ như thế nầy mà chở gần 150 người thì rất lo lắng. Nhưng tôi đang ở vào vị thế tiến thoái lưỡng nan. Đây là lần vượt biên thứ ba sau khi tôi bị đi „tù cải tạo“ về. Hai lần vượt biên trước, ghe tôi cũng đã ra tới ngoài biển được rồi nhưng vì bị trở ngại kỹ thuật, ghe không chạy tiếp được, cuối cùng phải bị bắt và vào tù trở lại. Lần nầy nếu tôi và gia đình không đi, khi lên bờ trở lại có thể tôi sẽ bị bắt. Nếu tôi bị bắt mà còn bị lộ ra tông tích rằng mình là một cựu Sĩ Quan Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà và đã nhiều lần vượt biên bị bắt thì có thể lần nầy tôi sẽ bị nhốt vào tù và khó có ngày về đoàn tụ gia đình. Do đó, tôi quyết định ở lại trên ghe để hướng dẫn ghe đi vượt biên. Tôi thừa hiểu rằng trên đường vượt biển có thể có nhiều nguy hiểm xảy ra, nhưng tôi không có con đường lựa chọn nào khác. Tôi chỉ hy vọng rằng vào mùa hè, sóng gió sẽ êm dịu hơn và biển có thể yên lặng.
Ra khơi
Thế là cuộc hành trình vượt biển đang diễn ra theo kế hoạch. Trên ghe có già trẻ, trai gái và gồm đủ thành phần trong xã hội đều cùng chung ước mơ ra khơi tìm Tự Do.
…Đêm nay trên bản đồ có một thuyền ra đi
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào
Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng
Nhìn lại bên bờ nước non mình mỗi mặt
Khóc nghẹn ngào
Hò ơi! Hò ơi! tạm biệt nước non…
(Trích Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Trong 2 ngày đầu vượt biển dường như tôi thức trắng đêm. Ngày đầu tiên, vào chiều tối, ghe chúng tôi ra khỏi cửa biển và ra khơi khá xa. Tối khuya hôm đó tôi đổi hướng chếch Nam, nhắm bên phải của chòm sao Nam Tào ở phía Nam gần hướng Tây Nam làm chuẩn mà chạy. Vùng biển ngoài khơi Vũng Tàu trải dài đến vùng đảo Côn Sơn tôi cũng đã có 2 tháng đi thực tập trên Hoả Vận Hạm HQ 471 và 7 tháng trên Hộ Tống Hạm HQ10 trước khi được thụ huấn tại Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang vào tháng 9 năm 1971. Trong thời gian nầy chiến hạm HQ10 phải đi tuần liên tục ngoài khơi thuộc vùng 3 duyên hải. Nhờ vậy tôi có phần nào hiểu biết và kinh nghiệm ở vùng biển khơi từ Vũng Tàu đến Côn Sơn.
Để kiểm soát hướng đi, vào ban đêm, nhìn ngược lại hướng Bắc thì có chùm sao Bắc Đẩu nằm chếch ở phía sau ghe vì ghe đã đổi hướng. Ban ngày thì nhìn mặt trời để đoán hướng. Là sĩ quan hải quân QLVNCH, ngành chỉ huy, nhiều năm đi biển phải có kinh nghiệm nhìn các sao, các chùm sao, nhìn sóng nước, nhìn sóng gió, nhìn mặt trời, mặt trăng trên biển để đoán được vị trí tương đối và hướng đi của ghe..
Khi mệt quá tôi giao lại cho vài tài công là những thanh niên và là thân nhân của chủ ghe. Chủ ghe không đi theo. Thật sự mấy bạn tài công nầy chỉ mới tập lái ghe khi ghe được sửa chữa trên sông trước khi đi vượt biên mà thôi. Họ không có nhiều kinh nghiệm về biển cả. Tôi phải chỉ dẫn cho họ. Họ tin tưởng ở tôi.
Trang bị cho chuyến vượt biên, trên ghe chúng tôi chỉ có 1 bản copy của tấm hải đồ biển Đông từ vùng đảo Côn Sơn đến Tân Gia Ba để vẻ tuyến đường đi đến hải cảng Singapore. Tôi đã xác định từng đoạn đường với góc độ. Tôi chọn tuyến đường đi Singapore mặc dù xa hơn đi đến Thái Lan hay Mã Lai Á là vì tôi muốn tránh xa vùng biển mà hải tặc Thái Lan đang hoành hành trên vịnh Thái Lan. Trước khi đi, chúng tôi đã mua 1 la bàn từ với đường kính khoảng 10 cm. Loại la bàn từ mà lớn như vậy chỉ có ở các chiến đỉnh của các Lực Lượng Hải Quân VNCH, làm gì mà có bán ra ngoài như vậy?. Khi mua nó tôi đã nghi ngờ là giả mạo nhưng không tìm được cái la bàn từ nào khác là thật và original nên đành phải mua.
Khi sử dụng la bàn giả mạo trên biển là 1 khuyết điểm lớn vì các tài công trên sông không có kinh nghiệm về sóng gió và phương hướng rõ ràng ngoài đại dương. Khi sóng mạnh ập đến ghe thì la bàn từ giả mạo kia bị lắc và không lay chuyển được nữa, góc độ của hướng đi sai ngay. Nếu tài công không để ý và không biết hướng gió, sóng và các chòm sao thì lái ghe sẽ sai hướng. Vì thế mỗi lần tôi tỉnh giấc và xem lại thì đôi khi thấy ghe đi lạc hướng, tôi phải điều chỉnh ghe để có hướng đi đúng trở lại. Ngoài ra tôi còn nghĩ đến, vào một thời điểm nào đó các tài công cũng mệt nhừ người, thì họ vừa lái ghe và sẽ vừa buồn ngũ là chuyện khó có thể tránh. Tôi nghi ngờ như vậy. Nói chung, lái ghe trên biển cũng khá phức tạp. Những đêm bị mưa gió, trời mù, thì không thấy chòm sao Nam Tào. Do đó tôi phải thường nắm tay lái. Vùng biển Côn Sơn và Phú quốc tôi cũng đã quen thuộc phần nào. Khi đi thực tập trên Hoả Vận Hạm HQ471 đầu năm 1971, cũng như khi tôi phục vụ dưới Dương Vận Hạm HQ503 cũng đã có mấy lần chiến hạm đi công tác đến đảo Phú Quốc và đảo Côn Sơn. Nhờ vậy tôi cũng biết được hướng sóng gió ở vùng Côn Sơn.
Suốt mấy ngày vượt biển tôi không lo lắng được gì cho 2 con tôi. Tất cả đều để cho vợ tôi lo cho 2 cháu. Bà xã tôi hiểu được sự lo lắng lái ghe của tôi nên không có một lời than thở. Thật tội nghiệp!
Có 1 lần vào ban ngày vì biển động, sóng hơi lớn nên 1 thùng dầu Diesel dự trữ đặt phía sau lái khoảng 200 lít rơi xuống biển. Tôi phải ngưng ghe lại và nhờ anh Thọ (hiện đang cư ngụ tại Nam California) nhảy xuống biển để cùng chúng tôi vớt thùng dầu lên. Đến hôm nay tôi vẫn còn thầm phục tinh thần của anh ấy. Lúc đó không mấy ai dám nhảy xuống biển mênh mông như vậy. Tôi quyết định là phải vớt thùng dầu lên cho bằng được. Tôi nói với các bạn thanh niên cùng đi rằng con đường chúng ta đi còn xa lắm. Nếu chúng ta thiếu dầu, chết máy thì khi biển động ghe sẽ bị lật chìm ngay vì chúng ta không thể điều khiển được chiếc ghe để lái chếch sóng. Họ nghe lời tôi và quyết tâm phải vớt thùng dầu. Tôi phải tận dụng những phương pháp cứu người trên biển cũng như những cách thắt mũi dây mà tôi đã học được ở những chiến hạm và khi tôi còn là một Huynh trưởng Đoàn trưởng Gia Đình Phật Tử ngoài miền Trung để ứng dụng lúc nầy. Chúng tôi dùng 1 sợi dây và 2 cây cọc trên ghe để kéo thùng dầu lên. Rất khó khăn vì thùng dầu quá nặng nhưng chúng tôi đã vớt được. Xin cảm ơn Trời Phật!
Sau những ngày đêm ghe vượt trùng dương bát ngát, lướt sóng gió, đi trong mưa, hướng Tân Gia Ba, vào một ngày nọ chúng tôi thấy 3 ghe khá lớn (Thái Lan hoặc Mã Lai Á) đang đánh cá. Chúng tôi quyết định chạy đến gần chúng để hỏi biết vị trí ghe đang ở đâu trên biển. Có lẽ vì bận đánh cá nên chúng cứ thản nhiên chạy đi hướng khác. Họ không màn đến chúng tôi muốn tới gần họ. Chúng tôi dùng hoả châu phóng lên tia hồng ngoại tím thì họ mới dừng lại. Khi đến gần họ, tôi đứng trên mui ghe và hỏi chúng bằng tiếng Anh để biết vị trí ghe đang ở đâu và hướng Singapore. Họ chỉ cần nghe và hiểu chữ Singapore nên họ chỉ tay về hướng Nam như chúng tôi đang đi. Đồng thời, tôi dùng sợi dây nhỏ cột tấm hải đồ chuyển qua ghe họ để nhờ họ xác định trên bản đồ vị trí chiếc ghe của chúng tôi đang đi vì ghe họ có gắn Radar. Ngoài ra chúng tôi còn xin được thêm 2 thùng nước uống, khoảng 50 lít. Tôi cảm ơn lòng tốt của họ. Khi cầm tấm hải đồ với địa điểm ghe đánh cá vừa xác định bằng bút chì, tôi tin rằng có thể những ghe đó không phải là hải tặc Thái Lan vì những ghe đó đang đánh cá ở vùng biển nằm ngoài khơi của bờ biển Mã Lai Á. Tuy vậy, trong lòng tôi vẫn lo ngại.
Sau đó ghe chúng tôi tiếp tục nhắm hướng Tân Gia Ba mà chạy. Đi được một ngày thì bổng nhiên tôi nhìn thấy từ xa xa ở hướng Nam hiện ra một đốm đen. Dùng ống dòm để quan sát, tôi mới rõ đó là chiếc máy bay trực thăng đang bay về hướng chúng tôi. Trực thăng càng lúc càng hiện rõ hơn. Chúng tôi, tất cả mọi người trên ghe rất vui mừng khi thấy máy bay trực thăng. Khi đến gần, một người trên máy bay chỉ tay vào chúng tôi và ra dấutiếp tục đi về hướng Nam. Nhìn về hướng Nam chúng tôi thấy một con tàu cở lớn từ từ hiện ra. Sau nầy tôi được nghe kể lại rằng khi tàu Cap Anamur được trực thăng cho biết đã phát hiện ghe tỵ nạn chúng tôi thì thuyền trưởng cho 2 máy tiến full (với tốc độ tối đa) hầu kịp thời ngăn chận mọi bất trắc có thể xảy ra cho ghe chúng tôi. Và sau khoảng 2 tiếng đồng hồ thì tàu đã đến gần chúng tôi. Trên tàu, thuỷ thủ đoàn phóng loa kêu gọi chúng tôi đừng sợ hải, hảy bình tỉnh. „Đây là tàu CAP ANAMUR của Tây Đức đang cứu vớt các bạn“. Thế là mọi người trên ghe đều lộ vẻ vui mừng khôn tả nhưng tôi vẫn yêu cầu họ hãy bình tỉnh, giữ trật tự, ở đâu ngồi đó. Nếu di động không trật tự thì ghe có thể bị lật úp hoặc ghe sẽ bị nghiêng, bị vô nước và chìm, nhất là lúc ghe đang cập vào tàu. Lần nữa, mọi người nghe lời yêu cầu của tôi và ở đâu ngồi đó. Họ cũng đã thấy vợ và 2 con của tôi cũng ngồi yên tại chổ. Tôi thầm cảm ơn họ. Bây giờ tôi cảm thấy khả năng hàng hải rất hửu dụng của mình sau 2 năm được đào tạo ở trường Sĩ quan Hải quân Nha trang và gần 9 tháng thực tập trên các chiến hạm HQ471, HQ10 cũng như những năm phục vụ trên Dương Vận Hạm HQ503.
Sau khi ghe tôi đã được cập vào tàu Cap Anamur, những thuỷ thủ của tàu cũng bắt đầu xuống ghe tôi. Họ dùng cần cẩu trên boong tàu để giúp chúng tôi lần lượt đưa tất cả 148 người trên ghe lên tàu của họ. Tôi rời khỏi ghe sau cùng. Sau khi mọi người trên ghe đã được di chuyển lên tàu Cap Anamur thì thuỷ thủ đoàn đã phá huỷ ghe chúng tôi để nhận chìm xuống đáy biển. Chiếc ghe thật mỏng manh đối với biển cả mênh mông, giờ đây từ từ đi vào lòng biển. Tôi hướng mắt nhìn ghe lần cuối, hiện lên một vẻ buồn không tưởng, nhưng với tâm niệm “có sinh thì có diệt“ theo giáo lý nhà Phật, tôi cũng cố quên đi. Tôi thầm cảm ơn chiếc ghe đã cưu mang 148 đồng bào thân yêu bỏ nước ra đi, trong đó có tôi cùng gia đình. Ghe đã đưa chúng tôi đến bờ tự do.
Trên tàu Cap Anamur, chúng tôi được thuyền trưởng cùng thuỷ thủ đoàn chào đón một cách niềm nỡ và họ nấu cháo cho chúng tôi ăn sau nhiều ngày đói khác trên biển. Họ cũng săn sóc thuốc men cho chúng tôi nếu có người bệnh hoạn. Trước những cử chỉ thân thiện của thuỷ thủ đoàn trên tàu, họ đã hỗ trợ tinh thần rất nhiều cho chúng tôi nhằm nhanh chóng phục hồi lại sức khoẻ.
Sau khi họ đã cứu vớt chúng tôi, tàu tiếp tục di chuyển trên biển đông ở gần bờ biển Việt Nam khoảng 10 ngày nữa để tiếp tục cứu vớt thêm 4 chiếc ghe vượt biên khác, tiếp nhận khoảng trên 500 người.
Tại hải cảng Tân Gia Ba
Sau cùng, con tàu ân nhân Cap Anamur chở chúng tôi đến hải cảng Tân Gia Ba vào những ngày đầu tháng 7 năm 1980. Đó là chuyến thứ 8 của tàu Cap Anamur ra khơi cứu vớt người vượt biển tìm Tự Do trở lại cảng. Gọi tắt là Cap Anamur 8. Tàu không cập bến, chỉ neo trong hải cảng. Ở đó chúng tôi được chích thuốc ngừa. Không một ai được lên bờ.
Cao Uỷ Liên hiệp Quốc tại Tân Gia Ba cũng xuống tàu để phỏng vấn chúng tôi. Người nào có thân nhân ở hải ngoại thì được ưu tiên thiết lập danh sách đi đoàn tụ gia đình nhưng họ cũng phải đến trại tỵ nạn tạm trú một thời gian. Riêng vợ chồng tôi thì bấy giờ có người bác phía vợ đang hành nghề luật sư bên Gia Nã Đại. Nhưng khi tôi trình bày nguyện vọng muốn đi Mỹ thì Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc nói rằng: Bạn và gia đình đã được tàu Tây Đức vớt, vậy bạn và gia đình có thể ưu tiên đi Tây Đức. Nếu bạn đồng ý thì trong mấy ngày nữa bạn sẽ đi ngay và không cần lên trại tỵ nạn chờ đợi. Tuy nhiên bạn cũng có thể đi Gia Nã Đại theo diện bảo lãnh, nhưng bạn và gia đình cũng phải qua tạm trú tại trại tỵ nạn ở NamDương một thời gian để chờ bác của bạn bảo lãnh. Người bác vợ của tôi tốt nghiệp Luật sư tại Pháp, làm việc trong Bộ Ngoại Giao VNCH và cũng đã từng tham dự và cố vấn Pháp luật cho phái đoàn VNCH tại Hội Đàm Paris . Tôi hy vọng về sự bảo lãnh của bác tôi. Tuy nhiên khi tôi hỏi về thời gian chờ đợi ở đảo thì cao uỷ LHQ không thể cho biết là bao lâu. Họ chỉ trả lời: Điều đó tuỳ thuộc vào sự bảo lãnh cũng như lệ thuộc vào chính quyền Gia Nã Đại.
Sau khi được phỏng vấn, tôi đã thảo luận với vợ về vấn đề đi định cư ở nước thứ ba. Vợ chồng chúng tôi cũng ngại ngùng ở đảo vì có 2 con còn quá nhỏ. Cháu lớn nhất lúc bấy giờ được 3 tuổi và cháu thứ hai chỉ được 18 tháng. Hơn nữa chúng tôi cũng không muốn cậy nhờ ông bác vợ ở Gia Nã Đại bảo lãnh. Thế thì tôi quyết định đưa gia đình qua Tây Đức xin tỵ nạn cọng sản. Tôi tâm niệm: „trời sinh voi, sinh cỏ“. Vợ chồng tôi đồng quan điểm rằng ở đâu có Tự Do Dân Chủ là nơi đó chúng tôi có thể định cư và sẽ cố gắng xây dựng lại cuộc đời mới. Chúng tôi đã trải qua nhiều hiểm nguy, nhiều lần vượt biên trước bị bắn, nhiều cay đắng, nhiều gian truân, nhiều lần vô tù. Vợ con tôi cũng chịu cùng cảnh ngộ, cũng chịu đói khác, bịnh hoạn như mọi người tù khác. Giờ đây chúng tôi đã may mắn gặp được tàu cứu vớt thì dù có đi định cư bất cứ ở xứ nào cũng đều tốt cả, miễn sao xứ đó cóTự Do Dân Chủ là được rồi.
Nhớ lại những năm xưa, mỗi lần vợ tôi sinh con là tôi bị ở trong tù. Con đầu lòng được sinh ra khi tôi ở trong “tù cải tạo” được 8 tháng tại Trảng Lớn, Tây Ninh. Con thứ hai được sinh ra khi tôi ở tù vượt biên tại Côn Đảo. Với tâm niệm: “Chỉ có tinh thần là quan trọng”, một bài học rất quý giá, hàm súc nhiều ý nghĩa thâm sâu mà tôi học được từ Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang của thuở nào đã giúp tôi nhiều nghị lực để vượt qua mọi trở ngại và tiến lên. Suy gẫm cuộc đời, bài học đó đã được chứng minh.
Ngày đầu tiên đến Tây Đức
Khi tôi quyết định đưa gia đình đi Tây Đức để định cư, thì Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc lo tiếp thủ tục giấy tờ cho gia đình tôi. Thế là sau vài ngày chờ đợi trên tàu Cap Anamur ở hải cảng Tân Gia Ba, gia đình tôi cùng với một số bà con vượt biên khác được chích thuốc ngừa và được phân phối quần áo mới để đi định cư tại Cọng Hoà Liên Bang Đức (Bundes Republik Deutschland) ở Tây Đức (West Germany).
Một buổi sáng tinh sương, chúng tôi được hướng dẫn lên xe buýt đang đậu ngay bến cảng để được chở ra phi trường Tân Gia Ba. Xe buýt chạy xuyên qua thành phố Tân Gia Ba, có cả thuyền trưởng tàu Cap Anamur là ông Werner Urban cùng đi về Tây Đức. Một thành phố rất khang trang và sạch sẻ. Rất tiếc rằng tôi chưa có dịp để thăm phố thị muôn màu của bán đảo nầy.
Khi qua Tây Đức tôi được biết thêm, vào năm 1979 Liên Hiệp Quốc họp tại Geneve, Thụy sĩ, đã kêu gọi những quốc gia Tây Âu cứu nhận nạn nhân đến từ Đông Dương, nhất là đồng bào chạy tỵ nạn từ Việt Nam. Riêng chính quyền Tây Đức đã đồng ý sẽ nhận khoảng 30.000 người tỵ nạn từ Đông nam Á, đặc biệt là từ Việt Nam .
Sau thời gian ngắn xe buýt đã đến phi trường Tân Gia Ba.
Tôi còn nhớ, khi ông thuyền trưởng Werner Urban cùng đi với chúng tôi đến phi trường Tân Gia Ba, ông ta ứa nước mắt trước khi lên máy bay Lufthansa. Có lẽ ông rất xúc động đã cứu được nhiều thuyền nhân và giờ đây họ sẽ lên đường đến một xứ lạ là quê hương của ông, một quê hương đang có Tự Do Dân Chủ và có những hành động nhân đạo.
Vào buổi chiều tối, chiếc phi cơ Lufthansa của Tây Đức chở 145 người vượt biên xin tỵ nạn tại Tây Đức, trong đó có gia đình tôi rời phi trường Tân Gia Ba. Sau khoảng 12 giờ bay vào ban đêm, phi cơ hạ cánh tại phi trường Frankfurt am Main, Tây Đức vào buổi sáng sớm ngày 15.7.1980.
Tại đây, một số người tỵ nạn trong nhóm chúng tôi được đổi máy bay tiếp tục đi lên miền Bắc Đức ở Hamburg, hoặc đến tiểu bang Rheinland-Pfalz, hoặc đi Saarbruecken. Một số người đi lên thành phố Bremen. Một số khác đi qua Tây Bá Linh. Tây Bá Linh nằm trong lòng Đông Đức. Lúc bấy giờ thành phố Bá Linh được chia làm hai phần bởi bức tường ô nhục do chính quyền cọng sản Đông Đức dựng lên vào ngày 13.8.1961 để chia thành phố Bá Linh ra làm hai nhằm ngăn chận dân chúng Đông Đức từ bỏ chế độ cọng sản để chạy sang Tây Bá Linh là phần đất tự do để tỵ nạn. Sau đệ Nhị thế chiến, Đức Quốc Xã thua trận nên một nửa thành phố đông Bá Linh thuộc về quân đội Nga quản chế và một nửa thành phố tây Bá Linh thuộc về quân đội đồng minh Mỹ, Anh, Pháp. Chung quanh thành phố Bá Linh thuộc nước Cọng Hoà Dân Chủ Đức (DDR: Deutsche Demokratische Republik). Đó là quốc gia theo chế độ cộng sản.
May mắn thay, gia đình tôi không đi Bá Linh. Chúng tôi cùng một số người tỵ nạn khác, tổng cọng khoảng 100 người ở lại chờ đợi để đổi máy bay đi đến phi trường Duesseldorf thuộc tiểu bang Nordrhein-Westfalen bên Tây Đức.
Trong lúc chờ máy bay để đi tiếp tục, tôi và 2 con đứng bên cửa sổ của phòng chờ đợi, hướng mắt ra xa. Nhìn qua cửa kiếng, hướng về những cao ốc, tôi đoán rằng đó là trung tâm thành phố Frankfurt . Lòng mình xôn xao làm sao!. Suy nghĩ về quá khứ, nhớ về quê hương rồi nhìn về tương lai, tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Nghĩ về cuộc đời binh nghiệp, đã bao nhiêu năm chinh chiến, tôi suy tưởng, ít ra mình cũng đóng góp phần nào cho quê hương, cho Tổ Quốc để bảo vệ tiền đồn Tự Do. Bây giờ có rời xa quê hương mình cũng không ân hận cho lắm.
Rồi tôi thầm nghĩ, nếu không có ngày 30.4.1975 thì hy vọng vào năm 1975 mình cũng sẽ có cơ hội được qua Mỹ du học 153 tuần thuộc chương trình đào tạo Master of Art hoặc Master of Science hoặc cao hơn cho những sĩ quan quân lực VNCH có văn bằng cử nhân nhằm sau nầy góp phần tái thiết đất nước thời hậu chiến sau khi Hiệp định Paris được ký ngày 27.1.1973, chiếu theo Thông Tư của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH năm 1974. Đến tháng 4 năm 1975 tôi đã học xong chương trình Ban Cử nhân thuộc Đại học Luật Khoa Sài Gòn. Niềm mơ ước ngày ấy không trở thành sự thật. Và giờ đây hiện diện nơi quê người tôi thì thầm:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia“…
Nguyễn văn Phảy
vgpgermany@gmx.net
Ghi chú:
Một số hình ảnh trên được trích trong cuốn sách “Thế Kỷ Người Tỵ Nạn”(Das Jahrhundert der Fluechtlinge) do Uỷ Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Đức (Deutsches Komitee NOT-Aerzte) biên soạn năm 1981.
Hình chụp trong dịp Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Tỵ Nạn và Tri Ân Nước Đức