Ba Tổng thống Clinton, Yeltsin và Kravchuk xiết tay hồ hởi đầu năm 1994 tại Moscow
Ukraine Tự Phế
Quân tử động mồm, không động thủ, nên Ukraine bị điểm huyệt
Sau mấy tháng nhức đầu về chuyện Ukraine, người viết xin tìm một chút thư giãn trong tinh thần lãng mạn của Kim Dung.
Khi Liên bang Xô viết tan rã năm 1991, có ba cường quốc đứng đầu thế giới về võ khí hạch tâm là, theo thứ tự, Hoa Kỳ, Liên bang Nga và Cộng hòa Ukraine. Sau đó mới đến các nước khác. Ngày nay, trước đà bành trướng ngang ngược của Vladimir Putin, tại bán đảo Crimea rồi nơi khác trên lãnh thổ Ukraine, dân Ukraine có thể nghĩ đến… Kim Dung:
Họ đã lỡ dại tự phế bỏ võ công trong khi các nước danh môn chính phái của người quân tử đã thành những anh tư quẩn.
Đôi dòng lịch sử đã!
Từ 1946 đến 1991, vào thời Chiến tranh lạnh – một khái niệm dại dột nhuốm mùi gian trá của các nước dân chủ Tây phương, vì thời đó là chiến tranh nóng ở rất nhiều nơi khác – Liên Xô đã yểm võ khí nguyên tử (rồi hạch tâm, atomic rồi nuclear) trên khắp lãnh thổ, trong nhiều nước Cộng hoà Xô viết.
Khi Liên Xô tan rã nhiều nước của Liên bang này đã giành lại độc lập.
Trong số đó, Ukraine là nước Cộng hoà Xô viết lớn nhất và giàu nhất, chỉ đứng sau Liên bang Nga, với kho ám khí đáng nể là 1.800 đầu đạn hạch tâm, kể cả võ khí chiến thuật có tầm ngắn, oanh tạc cơ và phi đạn thiềm du (cruise missiles). Nhờ tư thế đó, Ukraine có sức gián chỉ, can ngăn – deterrence – bất cứ cường quốc nào muốn nhảy vào làm thịt. Thí dụ như đòi lại bán đảo Crimea mà Stalin giật mất của dân Thát Đát Tatars.
Nhưng Chiến tranh lạnh đã nguội và nếu kho ám khí lớn lao đó của Ukraine mà rơi vào tay bọn hung đồ thì thiên hạ sẽ mất ngủ.
Vì thế, vui hưởng “cổ tức hoà bình” khi nguy cơ chinh chiến đã tàn, Chính quyền Hoa Kỳ thời Bill Clinton vẫn ưu lo về kho đạn Ukraine. Ưu tiên của nước Mỹ khi ấy là phải giải giới Ukraine. Bằng cách hợp tác với Liên bang Nga và mời Ukraine một bánh vẽ là Hiệp ước Không-Phổ biến Võ khí Hạch tâm (Treaty of Non-Proliferation of Nuclear Weapons, viết tắt là NPT, Non-Proliferation Treaty). Kết quả là một Giác thư (Memorandum), chứ không là một hiệp định. Đấy là một văn kiện gọi là Budapest Memorandum on Security Assurance. Ngày nay và mấy tuần qua cứ được gọi tắt là “Budapest Memorandum”.
Chỉ vì, Tháng 12 năm 1994, ba cường quốc hạch tâm là Hoa Kỳ, Nga và Anh quốc cùng ký giác thư tại thủ đô Budapest của xứ Hung Gia Lợi, với thỏa thuận là ba nước cam kết bảo đảm an ninh cho Ukraine (cùng Belarus và Kazakhstan). Đổi lại thì Ukraine giao nộp kho võ khí hạch tâm của mình cho Liên bang Nga.
Không, viết như thế vẫn là thiếu xót theo kiểu nhà báo nông cạn của Mỹ – hai chữ này thường là đồng nghĩa. Những cam kết đó còn sâu rộng hơn vậy, xin đọc từng chữ mà nghĩ đến ngày nay:
1) Ba nước cùng tôn trọng độc lập và chủ quyền của Ukraine trong ranh giới lãnh thổ hiện hành; 2) Không hăm dọa hay sử dụng võ lực với Ukraine; 3) Không gây áp lực kinh tế để chi phối chính trị Ukraine; 4) Yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc hành động nếu võ khí hạch tâm được sử dụng chống Ukraine; 5) Không sử dụng võ khí hạch tâm chống Ukraine; 6) Cùng tham khảo ý kiến với nhau nếu có vấn đề về những cam kết nói trên.
Dù chỉ học năm thứ nhất về bang giao quốc tế thì các sinh viên cũng hiểu là trong ba nước Nga, Mỹ, Anh, chỉ Liên bang Nga mới là cường quốc có thể vi phạm những cam kết hoặc gây khó cho Ukraine. Mà giác thư này chỉ là cam kết chính trị, không là một hiệp định được Quốc hội phê chuẩn. Xin ghi thêm rằng cùng Anh, Mỹ, Nga, có Pháp và Trung Quốc cũng ký một văn kiện đính kèm, với những cam kết còn mơ hồ và yếu ớt hơn thế.
Khi ấy, Chính quyền Ukraine có do dự và muốn một thời hạn tự giải giới lâu hơn. Nhưng, Chính quyền Clinton đòi là càng sớm càng hay, kỳ hạn cuối là năm 1996. Bố khỉ, năm đó, nước Mỹ có bầu cử Tổng thống.
Khúc khải hoàn của Hoa Kỳ khi ấy là thế giới có thêm một quốc gia tham dự Hiệp ước NPT! Yếu tố then chốt là vì Hoa Kỳ đã có lời cam kết bảo vệ an ninh, sự vẹn toàn lãnh thổ và vân vân cho Ukraine. Đấy là thành tích 20 năm trước của chàng Xuân Tóc Đỏ Bill Clinton, người hay liếm mép và hút mà không hít.
Ngày nay, đến Cậu Bé Quàng Khăn Đỏ Barack Obama, cũng với giấc mơ giải trừ võ khí hạch tâm cho một thế giới thái hòa.
Đúng năm năm trước, Tháng Tư 2009, tại thủ đô Praha của Cộng hoà Tiệp, Tổng thống Obama hứa hẹn một nỗ lực toàn cầu, một cuộc “thập tự chinh” để kêu gọi các nước cùng noi gương Hoa Kỳ mà tài giảm võ khí hạch tâm. Vì nếu có chuyện gì thì đã có sự bảo vệ của nước Mỹ.
Trong thâm tâm, có thể Tổng thống Hoa Kỳ muốn nhắn gửi với hai quốc gia hung đồ đang đòi luyện công, là Bắc Hàn và Iran. Hoặc để trấn an các nước khác, như Nam Hàn, Nhật Bản, hay Saudi Arabia, rằng khỏi cần những võ khí sát thương đó. Vì?
“Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.”
Tại sao lại chỉ một ta? Vì nếu có vin vào điều bốn của Giác thư Budapest – sự can thiệp của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc – thì ai cũng yên tâm rằng định chế quốc tế này sẽ thủ vai bà già trầu cầm súng nước, nhờ lá phiếu phủ quyết của Nga trong Hội đồng Bảo an.
Ngẫm lại thì không ai chứng minh được rằng Putin có ý sử dụng võ khí hạch tâm với Ukraine, nhưng đều thấy là quân đội Ukraine hiện không có khả năng chống đỡ khi Putin mắt lạnh sử dụng võ lực. Cũng không ai có thể chứng minh rằng nếu Ukraine vẫn là một cường quốc hạch tâm thì chưa chắc Putin đã dám chơi bạo như vậy.
Nhưng mọi người đều thấy là Anh và Mỹ đều đánh vần “ơ như quả mơ” – làm ngơ về những cam kết năm xưa với Ukraine. Tuần tới, tại Thượng đỉnh ở The Hague, ta sẽ xem Obama nói năng xoay trở ra sao về lý tưởng “An ninh Hạch tâm”!
Kết luận ở đây là gì?
Nhiều lắm, chỉ xin lơ thơ vài lẽ mà buồn!
Các chế độ hiền nhân quân tử mà tự phế bỏ võ công, như Ukraine, thì có thể mời giặc vào nhà. Các chế độ hung đồ có thể yên tâm luyện võ hạch tâm mà bất chấp thiên hạ. Các đồng minh của Mỹ mà tin vào lá chắn bảo vệ của Hoa Kỳ thì đều xét lại vì sau vụ Ukraine. Lời khuyên giải giới của nước Mỹ bất lực lại mở ra một cuộc thi đua võ trang toàn cầu.
Đâm ra, các quốc gia thuộc danh môn chính phái đều ưa nói chuyện đạo ly vu vơ, chứ khi hữu sự thì lại núp sau cụ Khổng mà khuyên răn thiên hạ, rằng “quân tử động mồm chứ không động tay.” Gọi là anh “tư quẩn” thì chẳng hề sai!
Nhưng tại sao người viết lại ỡm ờ nhắc tới Kim Dung?
Vì nghĩ tới đám tà ma Bắc Hàn và Iran đang âm thầm tự luyện thứ võ công thượng thừa theo Cửu Âm Chân Kinh. Nghĩa là vung đao tự thiến để thành đệ nhất anh hùng. Họ có lý phần nào trong sự tật nguyền đó…
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Thế Thượng Phong Của Putin
Trên chuyến bay qua Ðại Tây Dương để cùng các lãnh tụ Âu Châu thảo luận về đối sách với liên bang Nga, Tổng thống Barack Obama sẽ ngẫm lại chuyện mộng và thực…
Khi Vladimir Putin làm sĩ quan mật vụ cấp tá của cơ quan KGB và phục vụ tại Ðông Ðức thì Barack Obama còn là sinh viên. Là sĩ quan tình báo, Putin chứng kiến sự suy sụp và tụt hậu của liên bang Xô viết từ bên trong, còn cậu sinh viên lý tưởng Obama thì bất mãn về nhiều vấn đề xã hội bên trong nước Mỹ.
Khi Liên Xô tan rã, Putin hậm hực ngẫm lại tư thế đại cường của nước Nga. Còn Obama thì mơ chuyện cải tạo xã hội Hoa Kỳ theo quan điểm tiếp nhận được từ nước ngoài, nơi ông sống trong tuổi thiếu niên, và từ các nhà lý luận cực tả, thậm chí cộng sản như chính ông đã viết trong hồi ký.
Ngày nay, sự khác biệt ấy kết tinh vào một mâu thuẫn: khi cả thế giới chấn động về vụ Putin cưỡng đoạt Crimea và uy hiếp Ukraine thì Chính quyền Obama ưu lo chuyện sai biệt lợi tức và bất công xã hội.
Chúng ta sẽ có dịp trở lại chuyện xã hội này vào dịp khác trên cột mục “kinh tế cũng là chính trị.”
Nhớ lại thì sau khi đắc cử rồi nhậm chức vào đầu năm 2009, Tổng Thống Barack Obama đã nói tới nhu cầu cải thiện quan hệ với liên bang Nga, qua khái niệm gọi sai là “reset” – the button. Ông muốn hòa giải với lãnh tụ Putin để cùng cải tạo quan hệ quốc tế và lấy một số quyết định ôn hòa hơn vị tiền nhiệm. Khi tái tranh cử, ông cũng nói thầm với Dimitri Medvedev tại Seoul, rằng nhắn với Putin là đợi ông tái đắc cử thì sẽ “linh động” hơn.
Barack Obama không hề nghĩ đến việc gây mâu thuẫn hoặc thậm chí xung đột hay tấn công nước Nga. Năm ngoái, ông còn thiết tha bán cái cho Putin giải quyết các hồ sơ gai góc của mình là Iran và Syria.
Chí tình đến thế thì thôi!
Nhưng vì ảo giác của mình, ông không hiểu tâm tư của Vladimir Putin.
Tổng Thống Putin đã thấy sự thịnh suy của nước Nga từ thời Liên Xô qua thời liên bang Nga. Ông ý thức được là nước Nga suy yếu từng bị các đại cường tấn công trong lịch sử. Khi Liên Xô tan rã, lãnh thổ Nga đã mất đất mất người. Sau đó, trong 10 năm khủng hoảng của Nga, lý tưởng dân chủ và tự do của các nước Tây phương, và của Chính Quyền Obama sau này, khiến nhiều nước Ðông Âu đi theo Âu Châu, cải tạo kinh tế và chính trị, được Minh Ước NATO bảo vệ.
Nhìn từ quan điểm của Putin, tấm khiên phòng thủ của NATO chính là mũi công về an ninh: vũ khí chiến lược của NATO đã vào sát biên giới Nga, có thể khống chế các biên vực và vùng trái độn để bảo vệ nước Nga. Ðằng sau là trào lưu dân chủ được Tây phương cổ vũ, là lý tưởng tự quyết của các sắc tộc. Nghĩa là hai mối nguy khác 1) cho chế độ tập quyền của Putin tại Moscow và 2) cho sự toàn vẹn của lãnh thổ Liên bang Nga.
Khác với tư duy lạc quan của những người tin tưởng vào sức mạnh của tự do và dân chủ, lãnh đạo nước Nga từ thời xa xưa cho đến Putin ngày nay đều bi quan về an ninh của tổ quốc. Họ đều có phản ứng lấy công làm thủ! Họ không quên rằng vào năm 1916 Tổng Thống Woodrow Wilson của Mỹ có thể là tay phản chiến còn hơn Obama, qua năm sau thì các sư đoàn Mỹ đã có mặt tại Âu Châu trong Thế Chiến II, khi nước Nga đổi chủ. Nước Ðức có thể bị khủng hoảng nặng về kinh tế và kiệt quệ về quân sự năm 1932, chứ qua thời Hitler, chỉ có sáu năm sau, Ðức là đại cường Âu Châu, và mươi năm sau khi tấn công thẳng vào lãnh thổ của Nga.
Vì suy nghĩ như vậy, sau khi khống chế Georgia năm 2008, Putin đã uy hiếp Ukraine nhờ vũ khí năng lượng là khí đốt vào đầu năm 2009, khi Obama đòi cải thiện quan hệ Mỹ-Nga. Qua năm 2010, Putin cải cách về quân sự và tung sáng kiến thực hiện chế độ Liên Hiệp Quan Thuế Âu Á, từ Âu sang Á, để dùng kinh tế và an ninh ràng buộc các nước biên vực. Trong khi đó, Hoa Kỳ vẫn xúc tiến chương trình tài giảm binh bị với liên bang Nga qua hiệp định gọi là New START, và Obama hủy bỏ việc thiết lập lá chắn phòng thủ tại Ba Lan và Cộng Hòa Tiệp do Chính Quyền George W. Bush đề xướng.
Nhìn từ bên ngoài, ta thấy ra sự kiên trì hòa hoãn của tổng thống Mỹ và quyết tâm bành trướng của tổng thống Nga.
Ngẫm lại thì qua vụ Ukraine, Putin có loại quyết định hợp lý với lý luận của ông ta, và chẳng ngại gì khi bị kết án là tái diễn – hay hâm nóng – Chiến Tranh Lạnh. Hoặc trở về động thái của thế kỷ 19! Ðiều ấy có thể cho thấy trước nhiều nước cờ “lấy công làm thủ” của Putin.
Thí dụ như khuynh đảo nội tình hoặc uy hiếp biên giới Ukaine, khống chế các nước khác trong vùng biên vực, từ ba xứ Cộng Hòa Baltic tới Moldova, hoặc gây phân hóa trong nội bộ Liên Hiệp Âu châu nhờ vũ khí kinh tế, và ly gián Tây phương qua lằn nứt Âu-Mỹ, v.v….
Sau nhiều năm mộng du trong cõi viễn mơ, Barack Obama đang trở về với thực tế phũ phàng và sẽ phải quan niệm lại vai trò của nước Mỹ trong một thế giới không ổn định. Thế giới này vốn không ổn định và xưa nay Hoa Kỳ phải thực hiện chính sách quân bình các thế lực đối trọng ở bên ngoài, để các quốc gia cứ phải gườm nhau mà không xâm phạm vào quyền lợi của nước Mỹ.
Khi hữu sự thì để của đi thay người – người đây là sinh mạng của xứ khác.
Sau hai thế chiến đầy tổn thất sinh mạng của dân Mỹ, và sau thất bại thê thảm tại Việt Nam, Hoa Kỳ dưới các triều đại dân chủ hay cộng hòa đều tự điều chỉnh là ào ạt viện trợ về kinh tế và quân sự để khỏi đổ quân vào chiến địa. Sai lầm của Bush trong cuộc chiến đầy hao tốn chống khủng bố Hồi Giáo – hao tốn về kinh tế và chính trị hơn là sinh mạng chiến binh – đã giúp Obama đắc cử. Sai lầm của Obama đã khiến Putin có thể mạnh tay làm đảo lộn tương quan lực lượng tại đại lục địa Âu Á. Người sẽ kế nhiệm ông sau cuộc bầu cử 2016 sẽ lại điều chỉnh nữa, để Hoa Kỳ trở về chủ trương cố hữu của mình. Ðấy là lúc nước Mỹ sẽ gặt hái thành quả thật ra chẳng có gì bất ngờ, là kinh tế liên bang Nga sẽ lại hụt hơi và người dân nói đến thời “hậu Putin”…
Nguyễn-Xuân Nghĩa