Nhân Văn – Giai Phẩm là tên của hai đặc san xuất bản vào đầu năm 1956 tại Hà Nội, đã đăng những bài báo bị chế độ cộng sản kết án là đối kháng và không chấp nhận sự “lãnh đạo văn nghệ” của đảng. Chẳng những hai đặc san nầy bị đóng cửa mà các tác giả bị đấu tố, kết án và có người không chịu khuất phục nên bị trù giập suốt đời. Để hiểu rõ câu chuyện, hãy thử bắt đầu từ tổng quan hoàn cảnh nẩy sinh ra vụ án văn chương đối kháng nầy.
III.- NHỮNG BIẾN CỐ VĂN HỌC
1.- GIẢI THƯỞNG VĂN CHƯƠNG
Trong khi đó, tại Hà Nội, sau Giai Phẩm Mùa Xuân, và sau việc Trần Dần bị cầm tù, một sự kiện văn học nổi bật khác xảy ra, gây xôn xao dư luận, là việc công bố kết quả các giải thưởng văn học năm 1954-1955 trên báo Văn Nghệ Hà Nội, số 112 ra ngày 15-3-1956, và trên báo Nhân Dân số ra ngày 17-3-1956. Kết quả các giải đó như sau:
Thơ: giải nhất: Tố Hữu (tập Việt Bắc); giải nhì: Trần Hữu Thung (tập Đồng tháng tám và Dặn con), Xuân Diệu (tập Ngôi sao), Tú Mỡ (tập Nụ cười chính nghĩa); giải ba: Hồ Khải Đạt (tập Thơ chiến sĩ ).
Tiểu thuyết: giải nhất: Nguyễn Ngọc (Đất nước đứng lên), Tô Hoài (Truyện Tây bắc); giải nhì: Nguyễn Huy Tưởng (Truyện anh Lục), Nguyễn Văn Bổng (Con trâu), giải ba: Phùng Quán (Vượt Côn Đảo), Trần Kim Trắc (Cái Lu); giải khuyến khích: Hoàng Trung Nho (Đồng quê hoa nở), Bùi Hiển (Gặp gỡ), Đoàn Giỏi (Cá bống mú). (GB sđd. tt. 233-234.)
Kết quả giải thưởng gây nhiều tranh cãi sôi nổi vì đa số các nhà thơ, nhà văn trúng giải đều là người thân cận của đảng LĐ, trong đó dư luận bàn tán nhiều về các tác phẩm của Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng. Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã từng bị Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Yến, Lê Đạt phê bình một năm về trước; tập Ngôi sao của Xuân Diệu đã bị ba bài liên tiếp công kích trên báo Trăm Hoa ở Hà Nội của Nguyễn Bính, mà vẫn được giải thưởng.
Đặc biệt hơn nữa, các tác giả Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng và Hoài Thanh vừa có tác phẩm dự giải, vừa được sung vào ban chấm giải, và sau đó lại vừa trúng giải. (Nhà văn Phan Khôi nêu ra đầy đủ những bê bối của các giải thưởng nầy trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” đăng trong Giai phẩm Mùa Thu tập 1, xuất bản ngày 29-8-1956.)
Ba sự kiện, Giai Phẩm Mùa Xuân, việc bắt giam Trần Dần và giải thưởng văn học, tạo nên những làn sóng bàn luận âm ỷ liên tục trên các báo và trong các giới văn nghệ sĩ. Ngày 5-5-1956, Trần Dần ra khỏi tù. Lúc đó cũng là thời gian đảng LĐ sửa soạn tổ chức đại hội Văn học nghệ thuật toàn quốc lần thứ hai, nhắm đưa các văn nghệ sĩ đi theo đúng quỹ đạo của đảng. Hội Văn nghệ liền cho thành lập ban Trù bị đại hội ngày 16-5-1956. Thành phần ban Trù bị không được bầu từ dưới lên mà do từ trung ương chỉ định xuống (GB, sđd. 238-239).
2. TRĂM HOA ĐUA NỞ Ở TRUNG HOA
Có một điều ít ai chú ý là sau vụ Giai Phẩm Mùa Xuân ở Bắc Việt ba tháng, mới xảy ra biến cố “Trăm hoa đua nở, trăm nhà tranh tiếng” ở CHNDTH. Nguyên sau Đại hội 20 của đảng CSLX, quan điểm chính trị mới của đảng CSLX chẳng những được truyền sang Bắc Việt mà cả CHNDTH. Đảng Cộng sản Trung Hoa (CSTH) cầm quyền trên toàn thể lục địa Trung Hoa từ cuối năm 1949. Cộng sản TH ổn định tình hình nội bộ khá lâu, và quyết tâm tiêu diệt các thành phần trí thức, văn nghệ sĩ đối kháng sau vụ Hồ Phong vào tháng 7-1954. Do đó, khi Liên Xô tuyên bố chính sách mới, thì CSTH liền hưởng ứng chính sách nầy theo cách của CSTH.
Lục Định Nhất (Lu Dingyi), cục trưởng cục Tuyên huấn đảng CSTH, triệu tập cuộc họp ngày 25-5-1956 tại Bắc Kinh, gồm những nhà trí thức, nghiên cứu, văn nghệ sĩ, nhân sĩ, đại diện hội đoàn. Trong cuộc họp nầy, Lục Định Nhất đọc bài diễn văn nhan đề: “Bách hoa tề khai, bách gia tranh minh” [Trăm hoa đua nở, trăm nhà tranh tiếng]. Họ Lục cho biết chủ tịch Mao Trạch Đông trích hai câu nầy từ cổ văn, và giao cho ông giải thích với hội nghị. Họ Lục trình bày:
“… Nếu không có nhiều môn phái, nhiều chủ trương thì văn nghệ không thể trở nên phong phú được… Hai nghìn năm trước, trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, Trung Quốc có nhiều học phái khác nhau… Hồi đó, các học phái đều tự ý phát triển, không phục tòng một hệ thống tư tưởng nào cả, nhưng ngày nay, chính quyền của nhân dân đã thành lập và vững mạnh thì sự tranh đua của bách gia ngày nay phải nằm trong khuôn khổ của một chương trình chung… Cần phải đề cao sự tự do tranh luận và bênh vực ý kiến trong mọi ngành học thuật nhưng đồng thời cũng không nên lẫn lộn những cuộc tranh luận xây dựng trong nội bộ Đảng với những cuộc tranh đấu để tiêu diệt những phần tử phản động… Có hai lối phê bình: Phê bình kẻ thù và phê bình những đồng chí phạm sai lầm. Phê bình kẻ thù là đập cho nó một trùy vỡ sọ chết tươi, còn phê bình một đồng chí phạm sai lầm là lấy khoan hồng đưa dần họ về với chính nghĩa…”(HVC, sđd. tt. 7-8).
Ngày hôm sau, 26-5-1956, Mao Trạch Đông chính thức công bố phát động chiến dịch “Trăm hoa đua nở”. (HVC sđd. tr. 26) Như thế, CHNDTH mở ra chiến dịch “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, nhưng để sẵn quả “trùy” [chùy] trước mặt mọi người, cảnh cáo những ai đi sai “khuôn khổ của một chương trình chung” sẽ bị “vỡ sọ chết tươi”, nghĩa là vừa mở vừa hù dọa.
Bài phát biểu của Lục Định Nhất đăng trên Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh ngày 13-6, tức thì được sinh viên Hà Nội, do giáo sư Trần Đức Thảo bảo trợ, đã dịch đăng lên bích báo nhà trường. Trong khi đó, bản tin điện về bài của Lục Định Nhất do Lê Phú Hào, đặc phái viên báo Nhân Dân (Hà Nội) tại Bắc Kinh, gởi về vào tháng 7, nhưng mãi đến ngày 5-8, Nhân Dân (Hà Nội) mới đưa lên mặt báo. Bài viết đã làm xôn xao các giới cầm quyền và dư luận Hà Nội. Một biên tập viên báo Nhân Dân (Hà Nội) đã nói với Lê Phú Hào vài tuần sau đó, khi ông về Hà Nội công tác: “Bản tin của anh có hiệu quả của một trái bom”.(GB, sđd.239-242)
Ngày 15-9-1956, đảng CSTH họp Đại hội lần thứ 8, đại hội đầu tiên kể từ 1945, khẳng định lập trường “sống chung hòa bình” mà Liên Xô đã đưa ra trong Đại hội 20 của đảng CSLX (CĐ, I-C, sđd.103). Sau đó, đến ngày 30-9, báo Nhân Dân (Hà Nội) mới chịu đăng toàn văn bài phát biểu của Lục Định Nhất. Ở đây xin mở ngoặc thêm một chi tiết: sau khi nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm đứng ra đòi hỏi cởi trói văn nghệ ở Bắc Việt vào năm 1956, thì năm sau, 1957, bên Trung Hoa cũng xảy ra sự phản kháng của nhóm văn thi sĩ do bà Đinh Linh [Ding Ling] dẫn đầu. Bà Đinh Linh cũng đã bị nhà cầm quyền Bắc Kinh bắt giam. Như vậy phong trào đòi hỏi tự do báo chí ở Bắc Việt đi trước phong trào ở CHNDTH).(28)
3.- CUỘC HỌC TẬP 18 NGÀY
Để nắm chắc tình hình trước khi vào Đại hội Văn học Nghệ thuật toàn quốc kỳ 2, ban Tuyên huấn Trung ương đảng LĐ do Tố Hữu đứng đầu, tổ chức lớp “Bồi dưỡng về lý luận văn nghệ” từ ngày 1 đến ngày 18-8-1956, thường được gọi là “Cuộc học tập 18 ngày”, với khoảng 300 trí thức, văn nghệ sĩ tham dự. Có thể nói cuộc học tập nầy bao gồm hầu hết những tinh hoa trí tuệ Bắc Việt, trừ những nhà nghiên cứu khoa học chuyên môn.
Có lẽ kết quả không được như ý theo nhà cầm quyền. Báo chí chỉ tường thuật rất sơ lược cuộc học tập nầy, không phải vì nội dung thiếu hấp dẫn, nhưng vì quá nhiều “thắc mắc” được đưa ra mà không có câu trả lời. Những ngày đầu khá buồn tẻ vì những diễn văn khai mạc có tính cách công thức, và những người tham dự có vẻ thụ động. Càng về sau, cuộc học tập càng sôi nổi khi những vấn đề thực tiễn đời sống được nêu ra thảo luận, như cuộc Cải cách ruộng đất, việc kiểm soát dân số, hoạt động các cửa hàng quốc doanh… Những thắc mắc cụ thể được nêu lên xoay quanh mối tương quan giữa chính trị và tự do sáng tác; vấn đề lãnh đạo văn nghệ; những sai lầm trong việc bình chọn giải văn học vừa qua, và cả nội dung của Giai Phẩm Mùa Xuân. Cuộc học tập nầy không đưa ra một thông báo chính thức nào (GB, sđd.238-242). Lý do thật dễ hiểu vì:
“… Đợt học tập của giới văn nghệ tháng Tám vừa qua đã là một cuộc tranh đấu sôi nổi của trên 300 người công tác văn nghệ. Phát triển sự việc như thế nào, chỉ trích bè phái như thế nào, xây dựng Trung ương đảng như thế nào, Nguyễn Đình Thi tổng kết quanh co như thế nào, Nguyễn Hữu Đang tham luận mạnh bạo như thế nào, Tố Hữu nhận lỗi qua loa như thế nào, anh chị em đã nghĩ những gì … báo Nhân Dân biết rõ. Thế rồi bè phái lãnh đạo văn nghệ vẫn cứ ngoan cố làm thinh… tuyệt nhiên không giải quyết một nguyện vọng nào của anh chị em…”(HCV, sđd. tr. 26.)
IV.- GIAI PHẨM RỒI NHÂN VĂN
1.- GIAI PHẨM MÙA THU
Đảng Lao Động tưởng rằng đợt học tập 18 ngày có thể uốn nắn tư tưởng của các giới trí thức và văn nghệ sĩ, không ngờ lại tạo hiệu ứng ngược lại, bất lợi cho chính sách của đảng. Hiệu ứng bất lợi rõ nét nhất là sự xuất hiện của Giai Phẩm Mùa Thu ngày 29-8, nghĩa là cùng tháng với đợt học tập 18 ngày. Về sau Giai Phẩm Mùa Thu được gọi là Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 vì giai phẩm nầy được hoan nghênh quá, nên các nhà chủ trương cho ra thêm Giai Phẩm Mùa Thu tập 2 và Giai Phẩm Mùa Thu tập 3.
Cái đinh của Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 là bài viết của nhà văn lão thành Phan Khôi, tựa đề là “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, dài 14 trang (sách) , cở chữ nhỏ. Trong bài nầy, phần dẫn nhập, Phan Khôi viết rằng trong thời gian chiến tranh, các văn thi sĩ chỉ nghĩ đến kháng chiến, nên sẵn sàng hy sinh, chín bỏ làm mười, không ai thắc mắc gì cả, nhưng sau năm 1954, trở về Hà Nội, “lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc với lãnh đạo”. Phan Khôi đưa ra ba vấn đề chính để phê bình: đó là tự do của văn nghệ sĩ, vụ Giai Phẩm Mùa Xuân, và Giải thưởng văn học 1954-1955.
Theo Phan Khôi, lúc đó tại Bắc Việt văn nghệ sĩ bị kềm kẹp một cách nghiệt ngã, khiến một ngày nào đó, “nhược bằng bắt mọi người phải viết theo lối của mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết.” Phan Khôi chỉ còn biết than với Nguyễn Đình Chiểu: “Cụ Đồ Chiểu ơi! Cụ Đồ Chiểu ơi! Ở thời cụ, cụ đã kêu: Ở đây nào phải trường thi,/ Ra đề hạn vận một khi buộc ràng! Thế mà ngày nay, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn ra đề dàn bài, lại hạn chữ cho tôi nữa đó cụ ơi! Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi đâu còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!”
Từ lãnh đạo như thế nên đưa đến phản ứng qua Giai Phẩm Mùa Xuân. Rồi lại xảy ra những vụ chụp mũ phản động mà theo Phan Khôi “thật là cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá.” Cũng vì lãnh đạo như thế mới đưa đến kết quả giải văn học 1954-1955, mà “ở Hà Nội, dư luận bàn tán xôn xao, nhiều người không phục, cho rằng có mấy tác phẩm trong đó không xứng đáng được giải.” Chẳng những nêu danh những tác phẩm không xứng đáng, Phan Khôi còn đưa ra lối làm việc theo mệnh lệnh của Hội đồng chấm giải, lấy đa số hội viên trong hội đồng để chèn ép “thiểu số tuyệt đối” là chính Phan Khôi. Điều khôi hài nhất được ông nêu ra là có tác giả vừa được sung vào ban chấm giải, vừa có tác phẩm dự giải, và sau đó lại vừa trúng giải.
Khi phê bình lãnh đạo văn nghệ, Phan Khôi đã phê bình luôn sự lãnh đạo của đảng LĐ, bởi vì tổ chức thực sự lãnh đạo nền văn nghệ Bắc Việt là chi bộ đảng LĐ trong Hội nhà văn trực thuộc hệ thống đảng, và ông cũng phê bình luôn chế độ ông ta đang sống. Phan Khôi viết: “Dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường: nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường. Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt.” (HVC sđd. tt. 59-72.)
Bài báo của Phan Khôi đã làm xôn xao dư luận Hà Nội. Báo Thời Mới (báo tư nhân do Hiền Nhân chủ trương) đã gọi bài viết của Phan Khôi là một “quả bom tạ” thả ngay tại thủ đô Hà Nội. “Có người lại thốt lên rằng chín mười năm nay mới được nghe tiếng nói sang sảng của cụ Phan Khôi.” (HVC, sđd. 26).
Ngoài bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi, Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 còn có các bài “Ông bình vôi” cũng của Phan Khôi, kể chuyện những chiếc bình vôi ở quê ông và khai triển thêm ý tưởng bài thơ của Lê Đạt trong Giai Phẩm Mùa Xuân; bài “Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ” của Trương Tửu, đả kích những hiện tượng tôn sùng các “quan văn nghệ”; bài “Bức thư gởi một người bạn cũ” của Trần Lê Văn, diễn tả hình ảnh của một cán bộ cộng sản được mệnh danh là “Ông Khẩu Hiệu”.
2.- NHÂN VĂN
Hai mươi ngày sau Giai phẩm Mùa Thu tập 1, tờ Nhân Văn số 1 được phát hành ngày 20-9-1956, do chính Phan Khôi giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút, Trần Duy (tên thật là Trần Quang Tăng) làm thư ký.(GB sđd. tr. 23) Trong phần mở đầu, báo nầy tuyên bố: “Báo Nhân Văn đứng dưới sự lãnh đạo của đảng Lao Động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà, để đi đến thực hiện xã hội chủ nghĩa, theo như ý muốn của Đảng cũng như của nhân dân cả nước.” (29)
Nhân Văn số 1 được dư luận chú ý ngay vì một số bài nổi bật như: “Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề Mở rộng tự do dân chủ” với phần trả lời của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, giáo sư đại học, theo đó ông cho rằng “sự thực hiện dân chủ trong hai năm vừa qua còn thiếu sót nhiều”; bài “Chống bè phái trong văn nghệ” của Trần Công, trình bày nạn độc đoán của nhóm lãnh đạo văn nghệ; bài thơ “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” của Lê Đạt, và đặc biệt nhất là bài “Con người Trần Dần” của Hoàng Cầm. Trong bài báo nầy, qua câu chuyện về việc Trần Dần hai lần bị bắt, Hoàng Cầm lên án việc thiếu tự do sáng tác và tự do tư tưởng dưới chế độ Hà Nội. (Những bài trong Nhân Văn số 1, 20-9-1956, trên đây đã được điện báo Thông Điệp Xanh đưa lên Internet.)
Báo Nhân Văn vừa ra mắt liền được độc giả hoan hô, chuyền tay nhau đọc, và bàn tán sôi nổi, đồng thời cũng được các giới cầm quyền nghiên cứu tỷ mỷ và bị giới nầy lên án gắt gao. Đầu tiên, ngày 25-9-1956, báo Nhân Dân đăng bài của Nguyễn Chương, phó trưởng ban Tuyên huấn trung ương đảng. Nguyễn Chương cho rằng báo Nhân Văn là tay sai của “địch”, vì công kích địch thì ít mà công kích “ta” thì nhiều (HVC, sđd.28). Theo Nguyễn Chương, báo Nhân Văn đã “muốn nhân việc phê bình lãnh đạo văn nghệ hẹp hòi, mệnh lệnh mà làm cho người ta tưởng rằng toàn bộ sự lãnh đạo của đảng Lao Động Việt Nam và toàn bộ chế độ chính trị ở miền Bắc là độc đoán, độc tài, chà đạp con người, không có nhân văn” (NMC, sđd.23-24).
Tiếp tục trả lời cuộc phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, trên Nhân Văn số 2 ra ngày 5-10-1956, học giả Đào Duy Anh cho rằng: ” Trong quá trình xây dựng chế độ, chúng ta gặp trong chính nội bộ của chúng ta, những cái hạn chế và ngăn cản tự do. Tên tuổi của những kẻ thù nội bộ của tự do ấy, người ta đều biết cả: tức là tệ quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái …những bệnh giáo điều chủ nghĩa, công thức chủ nghĩa, sùng bái cá nhân còn ngự trị trong công tác lãnh đạo văn nghệ và học thuật…” (30)
Đáp lại đả kích của Nguyễn Chương, cũng trên báo Nhân Văn số 2, ba tác giả Hoàng Cầm, Hữu Loan, và Trần Duy viết bài “Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị”, trả lời từng lý luận một. Sau mỗi đoạn bẻ gãy lý luận của Nguyễn Chương, các tác giả nầy giễu cợt bằng một điệp khúc: “Bạn cố tình đến thế, chúng tôi còn biết làm sao?” (HVC, sđd. 28).
Nguyễn Chương giải thích vớt vát bằng một bài báo khác cũng đăng trên Nhân Dân, thì bị Chu Ngọc trả lời qua bài báo nhan đề “Quần chúng đã chán ghét lối chận họng đó rồi” trên Nhân Văn số 3 ra ngày 20-10-1956. Nhân Văn số 3 còn đăng bài “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ” của giáo sư thạc sĩ Trần Đức Thảo. Ông Trần Đức Thảo nhấn mạnh rằng: “Trong nhiệm vụ thực hiện phương châm của Đại hội 20 của đảng Cộng Sản Liên Xô, đặng hưởng ứng lời kêu gọi của đảng Lao Động Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển tự do dân chủ trong những nước dân chủ nhân dân anh em, người trí thức Việt Nam có phần trách nhiệm quan trọng. Người trí thức hoạt động văn hóa, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân…”(HVC, sđd.292)
Trong khi đó, báo Nhân Dân ngày 16 và 17-10-1956 đăng bài “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta” của giáo sư thạc sĩ Hoàng Xuân Nhị. Ông Hoàng Xuân Nhị vận dụng lý thuyết Mác – Lê để chứng minh rằng văn nghệ phải có đảng tính và văn nghệ sĩ phải triệt để phục tòng sự lãnh đạo của đảng. Báo Nhân Văn số 4 ngày 5-11-1956 phản bác lại bằng bài “Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị” của Bùi Quang Đoài. Ông Bùi Quang Đoài vào lúc đó là sinh viên trường Đại học Hà Nội. Tuy trẻ tuổi, lối lý luận của ông Bùi Quang Đoài rất sắc bén. Sau khi chứng minh những sai lầm của giáo sư thạc sĩ Hoàng Xuân Nhị, Bùi Quang Đoài viết: “Xuất phát từ lệch lạc đó, Hoàng Xuân Nhị cho rằng nhờ có Đảng mới có tự do tư tưởng. Như ý kiến tôi vừa trình bày, tôi hỏi lại ông Nhị là có Đảng rồi mới có quần chúng hay có quần chúng rồi mới có Đảng. Như thế thì rõ ràng không phải có Đảng người nghệ sĩ mới có tự do tư tưởng mà ngay cả những thế kỷ trước, cũng như thời kỳ cách mạng, mặc dầu thực dân đàn áp khủng bố, Vũ Trọng Phụng vẫn kiên quyết tự do tư tưởng, tố cáo “cái xã hội đểu” buộc tội giới cầm quyền lúc bấy giờ. Lúc ấy họ có là đảng viên đâu…Như thế thì tự do tư tưởng không phải là một vấn đề Đảng ban ơn cho quần chúng như ông Nhị đã lầm tưởng…”
Bùi Quang Đoài kết luận bài viết của mình như sau: “Trong một bài báo ngắn, tôi đã cố gắng trình bày vài sai lầm hoặc vài thiếu sót của ông Nhị về mặt kiến thức. Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều mà ông Nhị đã từng đề nghị với anh em Nhân Văn và Giai Phẩm: Cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ, để giữ cho bản chất trung thực của người trí thức.”(HVC, sđd.139-140) (31)
Cũng trên Nhân Văn số 4, truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” của Phùng Cung, một văn sĩ trẻ, kể chuyện cuộc đời của một con ngựa chiến được mệnh danh là “Bạch Long Thiên Lý Mã”. Lúc ở với mã phu là lão Nông, thì nó chạy như bay, không con ngựa nào địch lại, nhưng khi về phủ chúa Trịnh, chỉ ăn, tắm, trang điểm lộng lẫy, và kéo xe cho chúa, nên không còn lạnh lẹ như trước, và cuối cùng thất bại trong một cuộc đua sau đó. Phùng Cung muốn dùng hình ảnh của con ngựa nầy để ngụ ý đả kích những văn nghệ sĩ tài hoa trước kia như Xuân Diệu, Huy Cận, Hoài Thanh, đã cam tâm làm tay sai cho chế độ cộng sản, nên tài năng bị thui chột và mai một dần. (HVC, sđd.149-154).
Ngoài những mục khôi hài biếm họa chỉ trích cán bộ đã xuất hiện ngay từ số đầu, Nhân Văn số 5 ra ngày 20-11-1956 được ghi dấu bằng bài viết “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, mà sau nầy người ta mới biết Châm Văn Biếm là Như Mai hay Hoàng Như Mai. Theo tác giả Châm Văn Biếm, chế độ cộng sản chỉ cần những người làm theo công thức như máy sản xuất, kể cả thơ ca, chứ không quý trọng tình cảm cũng như sáng tạo cá nhân con người. (HVC, sđd.274-282)
3.- CUỘC PHẢN KHÁNG LAN RỘNG
Khi báo Nhân Văn mới xuất hiện, đảng LĐ đang mở ra phong trào sửa sai sau Cải cách ruộng đất, nên cũng có phần mềm mỏng và nới lỏng. Do đó, nhân những bài mào đầu của Nhân Văn, nhiều báo ở Hà Nội đã hưởng ứng sôi nổi, tuy ngắn ngủi nhưng khá hào hứng. Lúc đó, ở Hà Nội truyền khẩu một câu đồng dao:
“Trần Dần, Lê Đạt, Phan Khôi,
Các chú đi trước, thì rồi cháu theo.” (NVT, sđd.187)
Tờ báo trước tiên theo chân Nhân Văn là Đất Mới, tiếng nói của anh em sinh viên Hà Nội, ra mắt tháng 10-1956. Xuất bản được một số thì Đất Mới bị đình bản. Người chủ trương Đất Mới là Bùi Quang Đoài. Trên Đất Mới số 1, Bùi Quang Đoài đăng truyện ngắn “Lịch sử một chuyện tình”, kể lại một câu chuyện thật ở Hà Nội lúc bấy giờ, theo đó một cán bộ giáo dục cộng sản đã lợi dụng chức vụ chiếm đoạt tình yêu của nữ sinh. (HVC, sđd. 125-135).
Những tạp chí khác trước kia bình thường, nay cũng bắt đầu đăng những bài báo công kích những tệ nạn của nhà nước cộng sản và đảng Lao Động như báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính, báo Thời Mới của Hiền Nhân.
Giai Phẩm Mùa Thu tập 2 ra vào tháng 10-1956, có các bài nổi bật là “Những người khổng lồ” của Trần Duy, bài thơ “Những ngày báo hiệu mùa xuân” của Văn Cao, và bài thơ “Chống tham ô lãng phí” của Phùng Quán. Bài của Phùng Quán được truyền bá rộng rãi nhờ những lời thơ thẳng thắn:
“Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!…
Những tên quan liêu đảng đã phê bình trên báo
Và bao nhiêu tên chưa ai biết, ai hay
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy
Khắp mặt đất như bầy ruồi nhặng
Ở đâu cũng có! …”
(HVC, sđd.119)
Giai Phẩm Mùa Thu tập 3 ra đời tháng 11-1956 đánh dấu bằng vở kịch nổi tiếng của Chu Ngọc: “Chúng ta gắng nuôi con”. Giai Phẩm Mùa Đông tháng 12-1956 đăng bài tham luận về vấn đề tự do của giáo sư Trần Đức Thảo nhan đề “Nội dung xã hội và hình thức tự do”. Giáo sư Trần Đức Thảo đã kết luận bài viết của mình như sau: “Trong bản tham luận đọc trước Đại hội 8 của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đồng chí Đặng Tiểu Bình, hiện giờ là Tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc đã nói: “Đảng không có quyền vượt lên trên quần chúng nhân dân, tức là đảng không có quyền ban ơn, cưỡng bách, mệnh lệnh đối với quần chúng nhân dân, đảng không có quyền xưng vương xưng bá trên đầu nhân dân”.” (HVC, sđd.291)
Cũng trong Giai Phẩm Mùa Đông, với bài “Văn nghệ và chính trị”, nhà nghiên cứu Trương Tửu, tuy thừa nhận “Đảng lãnh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử”, nhưng lại đòi hỏi đảng “phải trả quyền điều khiển chuyên môn cho những nhà chuyên môn”. Trương Tửu viết: “Lãnh đạo tốt là tuyệt đối không ngăn cản văn nghệ sĩ phát hiện sự thật một cách hoàn toàn tự do…Họ [văn nghệ sĩ] hoàn toàn độc lập tác chiến, độc lập sáng tạo…họ chỉ tuân theo kỷ luật và chỉ thị của trái tim họ, của khối óc họ, của hiện thực xã hội mà họ phản ánh tùy theo trình độ nhận thức cá nhân của họ…Văn nghệ sĩ chân chính xưa nay đều chống lại chính trị của giai cấp cầm quyền…Văn nghệ sĩ yêu Đảng nhưng họ yêu sự thực hơn Đảng…Vận mạng của văn nghệ sĩ dài hơn vận mạng của Đảng, dài hơn vận mạng của chế độ.” (NHQ, sđd.155)
Phong trào công kích phê bình nhà cầm quyền lan rộng sang cả những tờ báo của đảng như tờ Cứu Quốc do Mặt trận Tổ quốc chủ trương, tờ Nhân Dân và cả tờ Học Tập, cơ quan nghiên cứu lý luận của đảng, cũng nêu lên những trường hợp tham ô lạm quyền của đảng viên. Các tờ báo đảng thì đổ lỗi cho cá nhân các cán bộ đảng viên thoái hóa. Còn các báo khác thì cho rằng đây là sai lầm của lãnh đạo và chính sách của đảng (HVC, sđd.27). (Còn tiếp)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
CHÚ THÍCH
28. Đinh Linh (Ding Ling, 1904-1986): Tên thật là Tưởng Băng Chi (Chiang Ping – chih). Những tác phẩm đầu tay nổi tiếng của bà trong thập niên 20 viết về những vấn đề phụ nữ và cuộc tranh chấp của giới phụ nữ trẻ chống lại xã hội phụ quyền Trung Hoa. Tác phẩm Lũ lụt xuất bản năm 1931 (dịch sang Anh ngữ năm 1937) bắt đầu phản ảnh quan điểm vô sản. Bà gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa năm 1933 (có sách viết là 1931). Tác phẩn nổi tiếng nhất của bà là Mặt trời chiếu trên sông Tang-Càn [Sang-kan], xuất bản năm 1948, mô tả phong trào cải cách ruộng đất vào cuối thập niên 40, được Giải thưởng văn học Stalin năm 1951 (dịch sang Anh ngữ năm 1954). Bà liên tục dự vào những cuộc tranh luận văn học trong nội bộ đảng, bị chụp mũ là hữu phái, nên bị thanh trừng và loại ra khỏi đảng cũng như mọi chức vụ năm 1957. Dầu vậy, bà vẫn nổi tiếng và là nhà văn nữ hàng đầu được ưa chuộng ở Trung Hoa. Sau 20 năm lao động ở nông trại vùng xa, bà được trả tự do năm 1978 và ân xá năm 1979.
29. Nhân Văn số 1, Hà Nội, 20-9-1956.
Tài liệu Internet: http://members.aol.com/canhen/nhvanxl.htm
30. Nhân Văn số 2, Hà Nội 5-10-1956, “Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ”, Ý kiến của ông Đào Duy Anh.
Tài liệu Internet: http://members.aol.com/canhen/nhvan7.htm
31. Sau đợt học tập và kiểm thảo năm 1958, Bùi Quang Đoài không còn được dùng tên thật của mình làm bút hiệu nữa. Từ năm 1975, tác phẩm của Bùi Quang Đoài phải đề tên của người con trai là Thái Vũ, như Ba Đình, Giặc Chày vôi…