Đặng Tiểu Bình & Tổng thống Hoa kỳ Jimmy Carter
Theo tài liệu lịch sử cận đại của Trung hoa cộng sản, có một câu nói của ông Đặng Tiểu Bình liên quan đến Cộng sản Việt nam, tiếng Pháp như sau: Si les petits enfants sont désobéissants, il faut leur donner une bonne fessée, tạm dịch Nếu con cháu không vâng lời thì phải cho chúng một trận đòn vào đít. Ông Đặng Tiểu Bình đã nói như vậy với Tổng thống Hoa kỳ Jimmy Carter trong cuộc viếng thăm vào năm 1979, với ẩn ý là báo trước việc Trung cộng sắp xua quân tràn qua biên giới đánh Việt nam để cho một bài học. Thời đó, Cộng sản Việt nam đang dựa vào đàn anh Liên xô, đã tấn công Kampuchia để lật đổ «Khờ me đỏ» mà «Khờ me đỏ» thì đang được Trung cộng che chở. Đặng Tiểu Bình còn nói lên nhiều câu triết lý « để đời », chẳng hạn như : Phải làm việc nhiều và nói ít (On devrait travailler plus et moins bavarder) – Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý (La pratique est le seul critère de la vérité) – Để cho một số người làm giàu trước tiên, sau đó những người khác sẽ làm theo, rồi sự giàu có sẽ thành sự giàu có cho tất cà mọi người. (Laisser certains s’enrichir d’abord, les autres suivront et la richesse sera générale)…
Nhưng câu nói có tính cách lịch sử đã tạo nên bước tiến nhảy vọt cho nền kinh tế của nước Trung hoa trong hơn ba thập niên qua là: Mèo đen, mèo trắng, con mèo tốt là con mèo bắt được chuột (Chat noir, chat blanc, le bon chat est celui qui attrape les souris ). Đặng Tiểu Bình (ĐTB) nói ra câu nầy từ năm 1962 trong bối cảnh của một nước Trung hoa đang gặp khó khăn và nền kinh tế có nguy cơ sẽ bị khủng hoảng trầm trọng. Một số chiến dịch do Mao Trạch Đông phát động đã gây thiệt hại to lớn và làm cản trở sự phát triển của nước Trung hoa như :
Cải cách ruộng đất năm 1953. đấu tố địa chủ, làm nhiều người làm ăn tử tế bị thiệt mạng.
Đại nhảy vọt (1958-1961) (1) gây nên thảm hoạ kinh tế với 20 triệu người bị chết đói.
Cách mạng văn hoá (1966-1971) (2) giết hại tầng lớp trí thức và huỷ hoại nền khoa học trong nườc.
ĐTB là tướng quân đội và từng là phó Thủ tướng dưới thời Mao nhưng trong thời kỳ Cách mạng văn hoá bị Mao buộc tội là hữu khuynhvà bắt đi lao động cải tạo cho đến năm 1976. Khi Mao chết, Hoa quốc Phong lên thay đã khôi phục lại ĐTB, và sau đó ĐTB đã trở thành nhà lãnh đạo cao nhất.
Vì muốn thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, trong ngành nông nghiệp, một số địa phương đã áp dụng hình thức khoán sản lượng đến từng hộ gia đình. Mặc dầu hình thức nầy giúp phần nào khôi phục sản xuất nhưng trong cơ chế quản lý tập thể xã hội chủ nghiã, hình thức nầy bị coi là bất hợp pháp. ĐTB đã dùng cách so sánh «mèo trắng, mèo đen» để diển tả ý nghĩa là, trong quan hệ sản xuất, không thể hoàn toàn áp dụng một hình thức cố định, bất biến. Hình thức nào, tại địa phương nào, có thể khôi phục sản xuất và phát triển thì áp dụng hình thức đó.
Trong thời gian ĐTB lãnh đạo Cộng hoà nhân dân Trung hoa (CĐNDTH), sau đây là một số biểu hiện cụ thể của triết lý kinh tế «Mèo trắng mèo đen»:
Từ năm 1978, CHNDTH bắt đầu đợt cải cách triệt để về kinh tế. Kinh tế thị trường, là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, không bị coi là xấu nữa.. Cho phép kinh tế tư nhân, miễn sao phát triển được kinh tế. Các hợp tác xã nông nghiệp, là mô hình của nông nghiệp XHCN, được xoá đi, phân lại đất cho nông dân tư hữu, nhằm tăng sản lượng nông nghiệp.
Về mặt đối ngoại, CHNDTH giao dịch với bất cứ chế độ chính trị nào, bất cứ thế lực cầm quyền nào, miễn sao có lợi về kinh tế. Không còn phân biệt « địch, ta » về ý thức hệ nữa. Chẵng hạn như khi Taliban nắm quyền ở Afghanistan thì TH chơi với Taliban, nhưng khi Taliban bị lật đỗ thì TH lại chơi ngay với Chính phủ mới lên thay, nhằm chiếm giữ quyền khai thác khoáng sản.
Theo triết lý «mèo trắng, mèo đen» thì tên gọi tư bản hay cộng sản không quan trọng, miễn sao có lợi về kinh tế.
Một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện đường lối kinh tế cởi mở của ĐTB là mô hình các đặc khu kinh tế (ĐKKT) được thành lập từ năm 1980.
Đầu tiên, có 4 ĐKKT ở gần biên giới Hongkong, đặc biệt là Thâm quyến. Các doanh nhân từ Hong kong sang, thành lập các xí nghiệp ngành may mặc, sản xuất đồ chơi, giày dép.. Chẵng bao lâu sau đó, Thâm quyến có sân golf, nhà chọc trời, những con đường mới…Đến cuối năm 1980, có thêm ĐKKT thứ năm là Hải Nam. Theo tài liệu của Ngân Hàng Thế Giới, đến năm 1993, đã có tới 3000 ĐKKT (thường được xây dựng dọc theo duyên hải, dài hơn 14 000 km).
Các ĐKKT được thành lập phỏng theo mô hình của Hongkong, dành rất nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư về thuế khoá, cơ sở vật chất…với mục đích thu hút đầu tư từ nước ngoài, kích thích thương mại quốc nội, tiếp thêm sức lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Thể chế ưu tiên của các ĐKKT, khác hẵn với thể chế áp dụng trong nước tới mức « một quốc gia trong một quốc gia », có sức hấp dẫn để thu hút đầu tư về vốn, về kỹ thuật, phương pháp quản lý…
Kết quả 30 năm áp dụng chủ nghĩa thực dụng của ĐTB, từ năm 1978, tổng sản lượng mỗi năm tăng khoảng 9, 10 % . CHNDTH trở thành nước xuất cảng nhiều nhất thế giới. Theo kết quả khảo sát của Trung tâm nghiên cứu kinh tế và kinh doanh (CEBR : Center for Economic & Business Research), Anh quốc, đưa ra ngày 16/12/2012, dự báo danh sách 10 nền kinh tế mạnh nhất thế giới năm 2012 và trong 10 năm tới, CHNDTH đứng hàng thứ hai, chỉ sau Hoa kỳ :
Hoa kỳ :
GDP năm 2012 là 15.643 tỷ USD
GDP năm 2022 là (dư báo) là 23.496 tỷ USD
CHNDTH :
GDP năm 2012 là 8.249 tỷ USD
GDP năm 2022 (dự báo) là 19.516 tỷ USD
(1) Đại Nhảy Vọt là kế hoạch xã hội và kinh tế của CHND Trung hoa thực hiện từ 1958 đến 1960 nhằm mục tiêu sử dụng nhân số khổng lồ để chuyển tiếp nhanh chóng Trung hoa từ môt nền kinh tế nông nghiệp dựa vào nông dân là chính sang một xã hội công nghiệp cộng sản hiện đại. ĐNV là môt đại thảm họạ kinh tế , số người chết lên đến trên 20 triệu.
(2) Đại Cách mạng văn hoá giai cấp vô sản là một giai đoạn hỗn loạn xã hội diễn ra trong 10 năm (1966 – 1976), gây tác động lớn lên mọi mặt của cuộc sống, làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị và đạo đức. Mục tiêu chính thức của cuộc cách mạng nầy là loại bỏ những phần tử « tư sản tự do ». Nhưng mục đích chính của Mao là lấy lại quyền lực sau sự thất bại của Đại Nhảy Vọt và loại bỏ những người bất đồng ý kiến như Lưu thiếu Kỳ, Đặng tiểu Bình, Bành đức Hoài…
Sai lầm lớn nhất của người cộng sản Việt Nam là đã cho áp dụng ngay mô hình kinh tế của miền Bắc cho cả nước ngay sau khi thôn tính được miền Nam năm 1975, khẳng định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội cho cả nước.. Các biện pháp thi hành tại miền Nam sau ngày 30 tháng tư đã xoá bỏ những yếu tố tích cực của nền kinh tế tư nhân và của thị trường tự do tại miền Nam : cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các ngành sản xuất canh nông, kỹ nghệ và thương mại, xoá bỏ tư sản « mại bản », đưa người ở thành phố Sài gòn về các « vùng kinh tế mới », thống nhất tiền tệ (đổi tiền).
Về ngành nông nghiệp
Theo kế hoạch hợp tác hoá, ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy móc của người nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của Nhà nước theo giá kế hoạch, thấp hơn nhiều so với giá thị trường. Bù lại, Nhà nước cung cấp vật tư và hàng hoá tiêu dùng. Tuy nhiên, tình hình kinh tế miền Nam không thích hợp với mô hình hợp tác hoá vì chương trình « Người cày có ruộng » của Việt nam Cộng Hoà vào đầu thập niên 1970 đã phân phối ruộng đất khiến đa số nông dân miền Nam thuộc hạng trung nông với năng suất khá cao. Do đó, nông dân không hưởng ứng, các tổ chức (1286 hợp tác xã và hơn 15.000 tổ sản xuất) tan rã vào cuối năm 1979. Hậu quả là sản xuất nông nghiệp sút giảm trong khi dân số tăng, gây ra cảnh thiếu thực phẩm, dân chúng miền Nam lần đầu tiên phải « ăn độn » bo bo, khoai,sắn.. đồng thời Việt Nam phải nhập cảng 5,6 triệu tấn thực phẩm từ năm 1976 đến năm 1980. Nạn đói kém đã xảy ra tại nhiều nơi.
Về các ngành công thương nghiệp
Vào năm 1975, thành phố Sài gòn của VNCH đã có một cơ sỏ vật chất, kinh tế, kỹ thuật lớn nhất miền Nam, là nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất, với 38.000 cơ sở kỹ nghệ, tiểu công nghê lớn nhỏ, 766 công ty. Sau hai đợt cải tạo công thương nghiệp, nhà cầm quyền cộng sản đã quốc hữu hoá tài sản của 171 tư sản mại bản. 59 tư sản thương mại cở lớn, cho thành lập 400 xí nghiệp quốc doanh, 14.000 cơ sở tiểu công nghệ.
Chiến dịch đánh vào tư sản mại bản bắt đầu từ tháng 9 năm 1975. Nhiều nhà tư bản lớn của miền Nam đã bị bắt, tài sản của họ bị tịch thâu.
Nhà cầm quyền Việt Nam còn gián tiếp cho phép (có thâu tiền) người Việt gốc Hoa tổ chức vượt biển hàng loạt, trốn sang nước ngoài, gọi là « vượt biên bán chính thức ».
Một số đông gia đình người Việt Nam đã lo lót với Việt cộng để có giấy tờ giả là người Hoa và nộp tiền để vượt biên trong dịp nầy
Song song với việc cải tạo công thương nghiệp, còn có chiến dịch di dân thành phố về nông thôn, đưa những người buôn bán về các vùng kinh tế mới . Thừa dịp nầy, Cộng sản Việt Nam đã buộc những gia đình có hợp tác với chế độ VNCH đi ra khõi thành phố. Phương pháp cưỡng bức dân thành thị đi vùng kinh tế mới gồm có thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học.. Chỉ tiêu là 1.200.000 dân trong thành phố Sài gòn phải bỏ nhà cửa đi ra vùng kinh tế mới để sinh sống. Các vùng kinh tế mới là một sự thất bại lớn về kinh tế, đã gây ra sự đau thưong cho bao nhiêu gia đình và cũng là môt cách trả thù thâm độc của Cộng sản đối với những người quốc gia.
Đổi tiền
Nhà cầm quyền Cộng sản đã dùng phương thức đổi tiền nhiều lần từ ngày 30 tháng tư năm 1975, mục đích là « tước đoạt lại phần thu nhập của bọn đầu cơ tích trử, bọn ăn cắp và những nguồn thu nhập không chính đáng khác, gópphần đấu tranh nhằm xoá bỏ bóc lột, xoá bỏ lối làm ăn phi pháp, phá rối thị trường của tư thương, phục vụ và thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất ở miền Bắc, đưa cả nước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ».
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, tiền VNCH phải đổi thành tiền Giải phóng vớí giá 500 đồng VNCH cho mỗi đồng Giải Phóng.
Vào năm 1976, say sưa trong chiến thắng, đảng Lao động đổi tên là đảng Cộng sản, giải tán Chánh phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam và cho ra đời Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Đồng tiền được thống nhất bằng cuộc đổi tiền vào tháng 5 năm 1978. Tỷ giá đổi tiền là, ở miền Bắc, 1 đồng cũ thành 1 đồng Thống Nhất, ở miền Nam, 1 đồng Giải Phóng thành 0,80 đồng tiền Thống Nhất. mỗi hộ đôc thân được đổi đến mức tối đa, ở thành thị là 100 đồng, ở nông thôn là 50 đồng.
Cải cách giá-lương-tiền năm 1985 với nội dung chính như sau :
– Tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất
– Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá cả
– Đảm bảo tiền lương thực tế
– Xác lập quyền tự chủ về tài chánh của các ngành và các cơ sở kinh tế
Cuộc cải cách nầy đã làm cho nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trọng.
Chi ngân sách Nhà nước cho tiền lương tăng vọt nhưng thu ngân sách lại không tăng bao nhiêu. Lạm phát bùng nổ. Những vòng xoáy điều chỉnh giá-lương-tiền càng làm cho lạm phát leo thang nhanh chóng trong năm 1986. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Vật tư , hàng hoá khan hiếm. Giá bán lương thực dầu tăng 10 lần vẫn không đủ bù đắp chi phí.. Sản xuất nông nghiệp sa sút. Đầu tư trong ngành kỷ nghệ giảm. Tháng 12 năm 1986, giá bán lẻ hàng hoá tăng 845,3% (587% so với năm 1985). Do đồng tiền mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả sự gia tăng của giá hàng hoá. Khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Việt Nam không thực hiện được mục tiêu cơ bản là ổn định tình hình kinh tế, xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Theo đảng cộng sản Việt nam, các nguyên nhân chính của sự khủng hoảng là :
– Chủ quan, nóng vội trong con đường đi lên xã hội chủ nghĩa
– Áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội bao cấp
– Công nghiệp hoá giản đơn, tập trung vào công nghiệp nặng
Sai lầm về kinh tế của Chính phủ : Bệnh chủ quan, duy ý chí – Lối suy nghĩ về hành động đơn giản – Nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan – Khuynh hướng buông lỏng quản lý kinh tế xã hội – Không chấp hành nghiêm chĩnh đường lối nguyên tắc của đảng, vừa tả khuynh, vừa hữu khuynh.
Trong bối cảnh đó, đảng cộng sản Việt nam, vào tháng 12 năm 1986 đã quyết định chủ trương « Đổi mới ». Mô hình « kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa» ra đời. Theo đảng cộng sản Việt nam, đổi mới không có nghĩa là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà được hiểu là thay đổi cách thức để đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Đổi mới về kinh tế sẽ chuyển động từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường trong đó cải cách giá cả là vấn đề then chốt, kế đến là việc giải toả tình trạng ngăn sông cấm chợ. Lâu nay tình trạng nầy làm cản trở sự lưu thông hàng hoá tự do trên thị trường. Đồng thời phải để quy luật cung cầu được vận hành, đưa hàng hoà từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đổi mới sẽ xoá bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện kinh tế nhiều thành phần, đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế kế hoạch hoá, theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Về phương diện chính trị, đổi mới quan hệ hợp tác quốc tế theo chiều hướng mở cửa, kêu gọi và hợp tác đầu tư với nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung cảnh pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt nam. Phải đợi đến năm 1991, luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty mới ra đời. Sau đó là luật đất đai, luật thuế, luật phá sản, luật môi trường…và các cải cách hành chánh giai đoạn 2001-2010 về các thủ tục hành chánh, về cơ chế quản lý kinh tế cần thiết cho nền kinh tế thị trường.
Cho đến nay, chính đảng Cộng sản Việt nam cũng thừa nhận rằng chưa nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là « nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. » Người cộng sàn Việt nam cho rằng hệ thống kinh tế nầy hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thật ra, đó là một lối lập luận để chối bỏ sự « theo đuôi » chủ thuyết kinh tế tư bản của họ. Ông Adam Smith là người có công lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận về chủ thuyết kinh tế tư bản tự do (3) đã nói rõ về khái niệm kinh tế thị trường (market economy) và về danh từ thị trường. Thị trưòng (market) là một bàn tay vô hình hướng dẫn quyền lợi cá nhân của mỗi người, là một cơ chế vận hành tốt nhất cho nền kinh tế. Trong một nền kinh tế thị trường, các quyết định của các cá nhân về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm cho ai đều được thực hiện dưới sự tác động của giá cả thị trường . Khác hẵn với kinh tế thị trường là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung (command-economy hay centrally-planned economy) theo chủ thuyết Cộng sản, là nền kinh tế mà trong đó chính phủ đưa ra mọi quyết định về sản xuất và phân phối. Cơ quan kế hoạch của chính phủ quyết định sẽ sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối cho ai. Theo Marx, lập luận về ưu thế của nền kinh tế kế hoạch tập trung là như sau :
– Không lãng phí các nguồn lực vì không tạo ra sản phẩm thừa.
– Hưóng nguồn lực khan hiếm vào những ngành sản xuất có ích cho quá trình phát triển.
– Triệt tiêu sự bất công vì thặng dư của quá trình sản xuất sẽ được đưa vào ngân sách rồi tái phân phối cho người lao động.
Mô hình đó đã thất bại vì nó dựa trên quá nhiều giả định không tưởng về bản chất con người va đi ngược lại các quy luật cơ bản của cơ chế thị trường theo chủ nghĩa tư bản với những nguyên tắc là :
– Tam quyền phân lập
– Có sự phân chia và kiểm soát giữa các nhánh quyền lực
– Công khai và minh bạch trong các lãnh vực hoạch định, thi hành chính sách.
Vì chủ trương kinh tế nhà nưóc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên Công sản Việt nam cho thành lập hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như các tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty. Từ đó, có thể nói kinh tế Việt nam đã trở thành kinh tế tư bản nhà nước. Tuy nhiên, hiện không ít doanh nghiệp nhà nước lớn nầy hoạt động không hiệu quả hoặc thua lỗ triền miên ( như trường hợp Tổng công ty Vinashin, đã thua lỗ hơn 4 tỷ USD), đã dẫn tới yêu cầu tái cấu trúc và cổ phần hoá các doanh nghiệp nầy.
Vì nhà nước (thông qua các doanh nghiệp nhà nước) nắm quyền chi phối phần lớn tài nguyên của nền kinh tế bao gồm đất đai, khoáng sản, tín dụng, vv.. nên có sư lạm dụng tiêu cực, cán bộ tham nhũng, có sự thất thoát lãng phí. Do đó, nền kinh tế đạt hiệu quả thấp.. Kém hiệu quả nhất là khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguyên nhân là do các báo cáo lỗ, do việc chuyễn giá giữa công ty mẹ với các công ty con. Ví dụ, để có giá trị tăng thêm tương đương với 1 đồng, thì Việt nam phải đầu tư 5,1 đồng (năm 2008) so vói 4,1 đồng của Thái lan. Muốn trở thành một nưóc công nghiệp hoá như Đại hàn, Singapore, Đài loan, Hongkong, Việt nam phải tốn kém gấp 1,5 lần. Như vậy, mục tiêu công nghiệp hoá sẽ khó đạt được.
Có người cho ràng vì khái niệm kinh tế thị trưòng định hưóng xã hội chủ nghĩa (KTTTĐHXHCN) còn rất mập mờ nên cần đưọc xác định lại, để tránh trường hợp áp dụng kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đúng lý ra thì nhà nước XHCN phải bảo đảm sự công bình tương đối về xã hội và có chế độ an sinh xã hội cho người dân. Nhưng trên thực tế, hiện nay không có sự bảo đảm nầy. Người dân vẫn phải đóng bệnh viện phí, vẫn phải đóng học phí. Mới đây, nhà nước cộng sản còn quyết định tăng bệnh viện phí và học phí, làm tăng thêm gánh nặng cho người dân nghèo.
Tại sao, sau hơn 20 năm chuyển sang kinh tế thị trường mà doanh nghiệp vẫn còn èo uột, và chủ yếu lấy cơ chế « xin-cho » làm tôn chỉ hành động, không tăng được năng lực cạnh tranh?
Theo tin báo chí truyền thông, mới đây, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt nam Nguyễn phú Trọng đã nói « …xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ nầy, không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt nam hay chưa ». Ngày nào đảng Cộng sản Việt nam còn tồn tại thì vận mệnh của đất nước Việt nam vẫn còn đen tối !. Ông Tràn Phương nguyên là phó Thủ tướng và hiện là Chủ tịch Hội khoa học kinh tế Việt nam đã khuyến cáo đảng CS VN là đừng tiếp tục lừa bịp dân và cần đoạn tuyệt với CNXH Mác-Lê nin để theo con đường kinh tế thị trường của các nước thuộc thế giới tự do theo đúng nghĩa của nó.
CNXH chỉ là một ảo tưởng. còn nói chi đến chủ nghĩa cộng sản, là ý thức hệ của người cộng sản, với các thuyết tam vô (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) và « làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu » !. Cũng chỉ là ảo tưởng, không bao giờ thành tựu được! Thực tế đã chứng minh nó sai. Sau 70 năm xây dựng tại Liên xô, người dân đã dứt khoát từ bỏ nó và Liên xô đã tan rã, kéo theo sự từ bỏ CNXH của các nước chư hầu XHCN tại Đông Âu.
Nguyễn Thanh Bạch
Tham khảo
1. Oded Shenkar, “The Chinese Century-The rising Chinese economy and its impact on the global economy…” Wharton School Publishing, New Jersey USA, 2006.
2. “The evolving role of China in the global economy”, edited by Yin-Wong Cheung and Jakob de Haan, MIT Press, Cambridge , Massachusetts, 2013.
3.“ The Vietnamese economy and its transformation to an open market system”, William T. Alpert, editor, M.E.Sharpe Armonk, Neww York, 2005.
4. “Ombres et lumières sur le Vietnam actuel”, AAFV, L’ Harmattan, Paris, 2003.
5. Wikipedia.