Vincent Van Gogh là nhà danh họa người Hòa Lan có danh tiếng đứng sau Rembrandt và là một trong bốn họa sĩ hậu ấn tượng, gồm Paul Gauguin, Georges Seurat và Paul Cézanne. Danh tiếng của Van Gogh được căn cứ vào các họa phẩm mà ông đã sáng tác, phần lớn trong ba năm cuối của cuộc đời hội họa 10 năm. Van Gogh đã vẽ hơn 800 bức sơn dầu và 700 họa phẩm thuộc các thể loại khác, thế nhưng ông đã chỉ bán được một tấm tranh khi còn sống. Tranh của Van Gogh có đặc điểm là màu sắc gây cảm xúc mạnh, nét bút thô, hình ảnh có đường viền lớn, tất cả mang bên trong nỗi đau khổ của một tâm hồn bệnh hoạn khiến cho sau này nhà danh họa phải tự sát.
1. Thời thanh niên
Vincent Willem van Gogh chào đời vào ngày 30 tháng 3 năm 1853 tại làng Groot- Zundert thuộc miền Brabant, nước Hòa Lan và là con trai lớn của một gia đình 6 người con. Cha của Van Gogh là một mục sư Tin Lành. Thuở thiếu niên của Van Gogh rất hạnh phúc, cậu nhỏ này thường lang thang vui chơi nơi miền quê thanh vắng. Vào tuổi 16, Van Gogh học nghề bán họa phẩm cho công ty Goupil tại thành phố The Hague, nơi mà một người chú có phần hùn. Công ty Goupil này có nhiều chi nhánh tại các thành phố khác như Brussels, London rồi tới năm 1874, có cửa hàng chính tại thành phố Paris. Tại Paris, Van Gogh thường đi thăm Viện Bảo Tàng Louvres và các họa phẩm trưng bày tại nơi này đã làm cho tâm hồn Van Gogh say mê, và cuộc sống hàng ngày liên quan tới các tác phẩm nghệ thuật đã làm sống dậy trong tâm hồn chàng niềm cảm xúc nghệ thuật. Chàng Van Gogh dần dần không còn chú tâm vào công việc buôn bán rồi cuối cùng, xin thôi nghề buôn tranh vào tháng 4 năm 1876.
Van Gogh say mê các tác phẩm hội họa của Rambrandt, Frans Hals và các danh họa khác người Hòa Lan cũng như các sáng tác của Jean Francois Millet và Camille Corot. Hai họa sĩ đương thời người Pháp này đã tạo nên các ảnh hưởng trong suốt cuộc đời nghệ sĩ của Van Gogh.
Do nghề bán họa phẩm, Van Gogh đã đi và sống tại nhiều xứ sở và tình yêu ban đầu đã nẩy nở khi chàng thanh niên Hòa Lan này sinh sống tại nước Anh vào năm 1874. Mối tình đầu với một thiếu nữ London đã thất bại, Van Gogh trở nên đau khổ và cô đơn, vì vậy chàng muốn theo học trường đào tạo mục sư, nhưng đã bị rớt vào kỳ thi tuyển. Do quan tâm về tôn giáo, Van Gogh đã theo học một khóa huấn luyện 3 tháng về đạo Tin Lành tại Brussels rồi sau đó, được cử đi rao giảng tại miền Borinage, là nơi hầm mỏ nghèo khó thuộc miền tây nam của nước Bỉ. Tại nơi hầm mỏ này, Van Gogh đã thông cảm với nỗi khổ đau của người nghèo nên đã quá chăm chỉ và xả thân giúp đỡ họ, gây nên nhiều bất đồng với các vị lãnh đạo tôn giáo. Van Gogh vì thế bị sa thải khỏi công việc giảng đạo và phải trở về sống nhờ gia đình vì không còn tiền bạc. Chính vào năm 1880, ở tuổi 27, Van Gogh đã bị dằn vặt, tuyệt vọng và tìm ra cho mình một lối thoát. Trong một bức thư dài viết cho người em trai tên là Theo, Van Gogh đã cho biết quyết định theo ngành hội hoạ.
Nhờ sự khuyến khích và nguồn trợ cấp tài chính của người em trai đang làm việc cho công ty bán tranh Goupil tại Paris, Van Gogh trở lại khu hầm mỏ Borinage và bắt đầu vẽ, bắt chước vẽ theo các bức tranh của Jean Francois Millet (1814-1875), vẽ về đời sống và chân dung của những người thợ mỏ đen đủi. Van Gogh thấy rằng cách tự học và làm việc chăm chỉ không đủ, còn cần tới sự hướng dẫn của các họa sĩ nhiều kinh nghiệm nên vào năm 1882, ông trở lại thành phố The Hague, Hòa Lan, để theo học hội họa với một người bà con là họa sĩ Anton Mauve (1814-1875), một họa sĩ chuyên vẽ phong cảnh, nhưng Van Gogh đã coi đường lối vẽ của ông Mauve là ngột ngạt và khô khan.
chân dung của Van Gogh
2. Thời kỳ sáng tác
Cuộc đời sáng tác của Van Gogh rất ngắn ngủi, chỉ kéo dài 10 năm, từ 1880 tới 1890. Trong 4 năm đầu, Van Gogh học hỏi các kỹ thuật hội họa và chuyên vẽ đường nét (drawing) và màu nước (watercolors) nhưng sau khi đã học tập với Anton Mauve và đã gặp gỡ nhiều họa sĩ khác, kể từ mùa hè năm 1882, Van Gogh bắt đầu bước sang phạm vi tranh sơn dầu (oil paint). Do nội tâm thúc đẩy “phải sống một mình với thiên nhiên”, năm 1883 Van Gogh đã tới Drenthe, một miền hoang vắng thuộc phía bắc xứ Hòa Lan và đã lưu lại nơi này trong ba tháng trước khi trở về Nuenen, một ngôi làng thuộc vùng Brabant mà gia đình mới dọn tới. Van Gogh đã cư ngụ tại Nuenen trong các năm 1884 và 1885, và vào thời gian này, nghệ thuật của Van Gogh táo bạo hơn, chín chắn hơn. Van Gogh đã vẽ ba loại đề tài: tĩnh vật, phong cảnh và con người, tất cả đều liên quan tới miền đất canh tác của nông dân, đời sống của họ, những gian khổ mà họ phải chịu đựng. Cuốn truyện Germinal (1885) của Emile Zola, một văn sĩ ngưới Pháp, mô tả một miền hầm mỏ của nước Pháp, đã ảnh hưởng tới Van Gogh rất nhiều, nên trong các tấm tranh của Van Gogh vẽ về các người thợ mỏ, đã bộc lộ những chỉ trích mang tính xã hội của họa sĩ.
Năm 1885, Van Gogh đã vẽ ra họa phẩm danh tiếng có tên là “Những người ăn khoai” (The Potato Eaters) sau hai năm chuẩn bị. Đây là một tấm tranh lớn, kích thước gần 3 x 4 feet, tượng trưng cho sắc độ và đề tài mà Van Gogh ưa thích vào giai đoạn này. Họa phẩm này mang các màu đất u tối, gợi lại cách diễn đạt của Frans Hals và Rembrandt, với nét bút nặng nề, mô tả cảnh gia đình gồm 5 nông dân đen đủi, ngồi nơi bàn ăn nghèo nàn. Toàn thể bức họa đã diễn tả đầy đủ mức sống thấp hèn của đề tài và hoàn cảnh tàn nhẫn của người dân thợ mỏ. Trong thời kỳ này, Van Gogh cũng vẽ một số tranh tĩnh vật như một giỏ khoai, một ấm đồng đun nước, vài tổ chim và ngay cả một đôi giầy cũ rách. Một trong các họa phẩm tĩnh vật nổi danh nhất của thời kỳ ban đầu này là bức họa “Sách Thánh Kinh mở với ngọn nến” (Open Bible with Candle, 1885), trong tranh còn bao gồm cuốn truyện “Vui Sống” (Joie de Vivre) của Emile Zola.
Qua nghệ thuật hội họa, Van Gogh cố gắng tìm kiếm sự cứu rỗi cho chính mình và cho các người khác bằng tinh thần tông đồ khi trước, và Hội Họa đã là ngõ ra của nội tâm sâu kín cũng như cách diễn tả sự quan tâm về xã hội của họa sĩ. Van Gogh đã cố công diễn tả sức cần lao và sức sản xuất của người lao động, nhất là mô tả các kẻ khốn cùng. Kiến thức về hội họa của Van Gogh cũng thay đổi sau khi nghiên cứu các tranh của Frans Hals. Van Gogh thấy rằng lối học thuần lý thuyết đã phá hủy sự tươi mới của các ấn tượng nhãn quan, trong khi các họa phẩm của Paolo Veronese và Eugene Delacroix khiến cho Van Gogh hiểu rằng chính màu sắc cũng đã nói lên một điều gì. Trong lần đi Antwerp và được ngắm nhìn các tranh vẽ của Peter Paul Rubens, Van Gogh đã thấu hiểu các phương tiện đơn giản của Rubens và khả năng của nhà danh họa này trong việc mô tả bản sắc (mood) của đề tài bằng cách phối hợp các màu sắc. Cũng vào thời kỳ này, Van Gogh đã khám phá ra hai đường lối nghệ thuật trong nền Hội Họa Nhật Bản và trong các tranh thuộc trường phái Ấn Tượng (Impressionist).
Do không chấp nhận các nguyên tắc cổ điển về hội họa thuộc trường phái hàn lâm của thành phố Antwerp, Van Gogh bỏ về, sống với người em trai là Theo tại Paris năm 1886. Trong 4 tháng, Van Gogh theo học với họa sĩ Fernand Cormon và nhờ thời gian cư ngụ tại Paris mà Van Gogh gặp gỡ các nghệ sĩ như Henri de Toulouse-Lautrec (1864-1901), Emile Bernard (1868-1941). Và nhờ Theo, Van Gogh được giới thiệu với các nghệ sĩ danh tiếng, là những người đang giữ các vai trò lịch sử trong nền nghệ thuật mới, họ là các họa sĩ ấn tượng và hậu ấn tượng (Post Impressionists) như Edgar Degas, Paul Signac, Georges Seurat, Paul Gauguin. Camille Pissaro (1830-1890) đã khuyên Van Gogh nên dùng các màu sắc tươi sáng hơn và áp dụng các kỹ thuật mới mà trường phái ấn tượng bắt đầu xử dụng.
Trong thời gian giữa mùa xuân năm 1886 tới tháng 2 năm 1888, đường lối diễn tả nghệ thuật của Van Gogh đã thay đổi hẳn, với một họa pháp riêng, một khuynh hướng đặc biệt về bút pháp. Các tấm tranh của Van Gogh trở nên nhiều màu sắc hơn, cách nhìn sự vật không còn cổ điển như trước, với sắc độ của họa phẩm nhẹ nhàng hơn. Van Gogh không còn vẽ các nông dân đen đủi nữa mà bắt đầu mô tả những đề tài đặc trưng của trường phái ấn tượng, chẳng hạn nhiều phong cảnh của các vùng phụ cận Paris, cảnh trí bên bờ sông Seine, và hai họa phẩm tiêu biểu là “Montmartre” (1886) và “Sàn quay Galette” (Moulin de la Galette, 1886).
Van Gogh cũng bị ảnh hưởng bởi họa phẩm của Seurat, đó là bức tranh “Buổi chiều chủ nhật trên đảo La Grande Jatte” (A Sunday Afternoon on the Island of La Grande Jatte) được triển lãm năm 1886. Kể từ mùa hè năm 1887, Van Gogh đã dùng tới bút pháp với các nét kế cận mang các màu sắc của quang phổ thuần chất (spectrum-pure). Ngoài ra, Van Gogh còn sưu tập một số họa phẩm khắc gỗ (woodcuts) của Nhật Bản, nhất là loại tranh Ukiyo-e của họa sĩ Hiroshige (1797-1858) và ảnh hưởng của đường lối thí nghiệm mới là cách dùng hai hay nhiều điểm viễn khuất (vanishing points). Kỹ thuật phối cảnh mới này được thể hiện qua họa phẩm “Dạ Hội tại Montmartre” (Festival in Montmartre, 1886/87) và họa phẩm “Các cây mận đang nở hoa” (Plum Trees in Blossom, 1888) là thí dụ về ảnh hưởng của lối khắc gỗ Nhật Bản.
Tới mùa hè năm 1887, Van Gogh đã vẽ các phong cảnh bằng các màu thuần chất (pure colors) với nét họa đứt khúc, đôi khi theo lối chấm điểm (pointillistic). Đường lối hậu ấn tượng (postimpressionist style) của Van Gogh bắt đầu được thực hiện kể từ năm 1888 qua các họa phẩm “Chân dung của Cha Tanguy” (Portrait of Père Tanguy) và “Chân dung tự họa” (Self-Portrait in Front of an Easel) cũng như một số tranh vẽ các vùng ngoại ô của thành phố Paris.
Vào năm 1888, Van Gogh được nghe Toulouse-Lautrec ca ngợi phong cảnh rực rỡ của miền nam nước Pháp và được đọc vài tác phẩm văn chương của Alphonse Daudet mô tả về những người đàn bà đẹp của miền Provence, các sự kiện này đãỉ khiến cho Van Gogh di chuyển về miền đông nam của nước Pháp vì họa sĩ đã quá mệt mỏi, chán cảnh đời sống thành thị và ước ao được “nhìn ngắm thiên nhiên dưới một bầu trời trong sáng”. Kể từ tháng 2 năm 1888 và trong suốt 12 tháng trường, Van Gogh đã thuê một ngôi nhà tại Arles, sơn màu vàng và trang trí ngôi nhà thành một nơi cộng đồng của các “nhà ấn tượng miền nam”. Đây là thời kỳ sáng tạo phong phú nhất của nhà danh họa Van Gogh. Trước phong cảnh thiên nhiên rực rỡ này, Van Gogh đã vẽ mỗi ngày, hầu như luôn luôn ở ngoài trời, dưới ánh nắng chói chan và trong bầu không khí khô ráo, cảnh trời quang đãng.
Van Gogh đã không thể kiềm chế được các cảm xúc của tâm hồn mình trước các đề tài mới lạ, hấp dẫn. Nhà danh họa đã làm việc với tốc độ rất cao, cố công ghi lại các ảnh hưởng của thiên nhiên và tâm trạng của mình trước ngoại cảnh. Các đề tài tại miền Arles này gồm các cây ăn trái đang nở hoa, các toàn cảnh của thành phố và vùng phụ cận, các chân dung của bạn bè và người đưa thư Roulin, cảnh trí trong nhà và bên ngoài nhà, một loạt các hoa hướng dương và “một đêm đầy sao” (a Starry Night). Qua các họa phẩm, Van Gogh đã khai triển sự trong sáng về màu sắc và lối sắc nét về bút pháp, khác hẳn với đường nét mờ ảo của trường phái Ấn Tượng (Impressionism). Trong mỗi họa phẩm của Van Gogh, mỗi hình ảnh được vẽ rõ ràng và táo bạo, khiến cho ánh sáng có vẻ như phát ra trực tiếp từ cảnh vật trong tranh.
Cũng giống như các họa sĩ ấn tượng, Van Gogh vẽ từ cách quan sát trực tiếp, không vẽ theo trí nhớ và bao gồm trong họa phẩm cách mô tả các cảm giác nội tâm của mình. Đặc điểm của Van Gogh là cách dùng màu sắc. Nhà danh họa đã xử dụng màu sắc một cách rất hàm xúc, không những coi màu sắc là một phương tiện để thiết lập nên các tác dụng của ánh sáng và không khí, tạo nên chiều sâu của thể tích và không gian, mà còn coi màu sắc là cách chuyển đạt sự đam mê sâu thẳm mà họa sĩ rung cảm trước cảnh vật, kỷ vật và con người.
Về các chân dung, Van Gogh không chỉ vẽ lại các nét đặc biệt của nhân vật mà còn muốn ghi lại bản chất chính yếu của người mẫu và trong kỹ thuật này, màu sắc đã đóng một vai trò chính, như tại hai chân dung vẽ năm 1888: “Họa sĩ người Bỉ Eugene Boch” và “Người nông dân miền Provence” (The Provencal Peasant). Và đối với Van Gogh, các màu sắc khác nhau mang các hàm ý khác nhau: màu mặt trời tượng trưng cho sự ấm áp, yêu thương, màu xanh mát mang ý nghĩa của ban đêm và vô tận, màu đỏ biểu hiện sự đam mê và điều xấu xa. Cùng với cách diễn tả bằng màu sắc, Van Gogh còn mô tả nhân vật bằng nét vẽ hoặc thô, nặng, hoặc thanh, nhẹ và chân dung của họa sĩ Boch có nét bút tế nhị, tượng trưng cho một con người tinh tế.
Sống đơn độc tại miền Provence, Van Gogh cho rằng cách đạt tới nghệ thuật hội họa của mình mang nhiều tính cá nhân nên ông đã muốn tập hợp một số họa sĩ để lập ra nhóm các họa sĩ ấn tượng miền nam, trong đó gồm cả Toulouse-Lautrec, Paul Gauguin và một số người khác. Theo lời mời của Van Gogh, Paul Gauguin đã về miền Arles vào tháng 8 năm 1888, sống trong căn nhà màu vàng, nơi mà trên tường Van Gogh đã trang hoàng bằng một loạt các bức họa vẽ “Hoa Hướng Dương” (Sunflowers). Cả hai họa sĩ này đã vẽ cùng với nhau và vì Gauguin cao tuổi hơn nên đã hầu như đóng vai trò một bậc đàn anh, một bậc thầy chỉ bảo để Van Gogh cải tiến đường lối hội họa. Gauguin cho rằng Van Gogh nên vẽ bằng trí nhớ, nên làm cho các nét vẽ bớt thô kệch và không nên dùng các màu phụ đối chọi, chẳng hạn như màu lục và màu đỏ, màu vàng và màu tím, nên tránh các màu gắt và chói mắt.
Lúc đầu, Van Gogh nghe theo lời khuyên của Gauguin và đã vẽ ra họa phẩm “Người đọc chuyện” (The Novel Reader, 1888) và một vài bức họa khác, nhưng rồi Van Gogh cho rằng cách vẽ như vậy thiếu hẳn đi chiều sâu tâm lý nên đã không thỏa mãn về phương pháp hội họa đó. Van Gogh trở về với lối làm việc cũ, điều này đã khiến cho Paul Gauguin coi người em là một họa sĩ kiêu căng, thường chối bỏ các lời đề nghị xây dựng. Thực ra, hai nhà danh họa này đều là những con người có cá tính không ổn định, dễ bùng nổ. Các xung khắc về bản chất chắc chắn sẽ không tránh khỏi. Vào đêm Giáng Sinh năm 1888, một trận cãi cọ đã xẩy ra giữa hai họa sĩ và trong cơn nóng giận, Van Gogh đã dùng một con dao cạo sắc, cắt đứt một vành tai. Sau khi Van Gogh được chở đi bệnh viện băng bó thì Paul Gauguin cũng bỏ về Paris. Cả hai không bao giờ gặp lại nhau nữa.
Hai tuần lễ sau, Van Gogh trở về căn nhà màu vàng và bắt đầu cầm cọ trở lại, và kết quả là các họa phẩm như “Chân dung tự họa với ống điếu và tai bị băng bó” (Self- Portrait with Pipe and Bandaged Ear), một số tranh tĩnh vật và họa phẩm “Ru Em” (La Berceuse). Sau đó vài tuần lễ, người ta lại thấy ở Van Gogh các dấu hiệu của bệnh tâm thần khá nặng, khiến cho họa sĩ phải quay về điều trị tại bệnh viện.
Vào cuối tháng 4 năm 1889, Van Gogh yêu cầu được nghỉ ngơi tạm và chữa bệnh tại Saint-Rémy de Provence. Trong 12 tháng lưu ngụ tại nơi này, Van Gogh đã vẽ ra các họa phẩm như “Căn vườn của người ẩn náu” (Garden of the assylum), “Các cây trắc bá” (Cypresses), “Các cây ô-liu” (Olive Trees), các bức chân dung của một số bác sĩ. Trong thời gian sáng tạo này, 1889-1890, Van Gogh đã bộc lộ qua tác phẩm nỗi buồn và nỗi e sợ bị mất đi cách tiếp xúc với thực tại. Vì bị giới hạn trong phòng hay trong vườn của khu điều trị, nhà danh họa bị thiếu tự do trong việc lựa chọn đề tài, thiếu hẳn đi cảm hứng từ cách quan sát trực tiếp, và luôn luôn Van Gogh không đồng ý với cách vẽ từ trí nhớ. Chính tại Saint Rémy, các họa phẩm của Van Gogh không còn chứa đựng các màu sắc mãnh liệt như trước, các đường viền bao quanh đề tài không còn thô đậm và các hình thể mang hàm ý chạy vội tới người ngắm tranh hay lùi xa về phía chân trời. Trong thời gian này, 150 khung vải đã phủ đầy các nét đan thanh xuất sắc.
Van Gogh rời bệnh viện vào tháng 5 năm 1890 và đi về hướng tây bắc của thành phố Paris, tới ngôi làng Auvers-sur-Oise, nơi mà Daubigny và Pissaro đang sống và làm việc. Theo lời khuyên của Camille Pissaro, Van Gogh đã nhờ bác sĩ Paul Ferdinand Gachet trị bệnh. Bức họa “Bác Sĩ Gachet” của Van Gogh đã là một danh tác mới. Nhà danh họa cũng chọn một số đề tài để vẽ như các cánh đồng bắp và lúa mì, thung lũng có giòng sông, các mái nhà tranh của nông dân. Các họa phẩm trong thời kỳ này có các hình thể tự nhiên, không bị méo lệch như trước kia và ánh sáng của miền bắc nước Pháp đã làm cho sắc độ của họa phẩm tươi mới hơn nhưng vẫn đượm màu sám. Mọi vật trong tranh có vẻ như linh động hơn, sống dậy hơn. Thế nhưng, thời kỳ sáng tác này của Van Gogh đã không kéo dài được lâu. Nhà danh họa đã cãi lại bác sĩ Gachet, tự cảm thấy quá lệ thuộc vào người em trai Theo và không còn khả năng thành công nữa. Thế rồi vào đêm hôm 27 tháng 7 năm 1890, do quá tuyệt vọng, nhà danh họa Van Gogh đã dùng súng, tự sát. Người em Theo vào lúc này đã lập gia đình và có một con trai 6 tháng, cũng cảm thấy quá đau khổ, rồi qua đời 6 tháng sau, vào ngày 25-1-1891 vì bệnh sưng thận kinh niên.
Căn cứ vào các họa phẩm phần lớn sáng tác vào ba năm cuối của thời kỳ10 năm cầm cọ ngắn ngủi, Vincent Van Gogh được giới nghệ thuật coi là họa sĩ tài danh người Hòa Lan xếp hạng sau Rembrandt. Trong thời kỳ sinh sống tại Arles, Van Gogh đã vẽ các loại hoa, các cánh đồng chan hòa nắng ấm, còn tại Saint Rémy, các họa phẩm của ông trở nên dịu hơn, nhưng lại hàm chưá các đường nét táo bạo hơn. Khởi đầu bằng các màu sắc u tối, Van Gogh đã ghi lại các tĩnh vật, phong cảnh và chân dung của miền bắc, tới khi dọn xuống Arles thuộc miền nam, các họa phẩm lại tươi sáng, rực rỡ và khi trở về sống tại Auvers thì các bức họa mô tả miền bắc Aâu lại đượm màu sám và sắc độ tươi mới. Màu sắc và bút pháp trong các tranh của Van Gogh đã biểu hiện được các cảm xúc nội tâm, sâu kín, đã mang đầy đủ ý nghĩa diễn tả và đã gây được ảnh hưởng lớn lao trong việc phát triển ngành Hội Họa mới, đặc biệt đối với các họa sĩ thuộc hai trường phái Dã Thú (Fauve Painters), và Biểu Hiện tại nước Đức (German Expressionists).
Trong lúc sinh thời, Van Gogh không được nhiều người biết đến. Nhà danh họa đã trưng bày tác phẩm nơi Phòng Triển Lãm các Nghệ Sĩ Độc Lập (Salon des Indépendants) tại Paris trong các năm 1888 và 1889, và tại Brussels năm 1890 nhưng đã không gây được sự chú ý nào của quần chúng. Và khi ông còn sống, chỉ có một bài báo đề cập tới nhà danh họa, nhưng qua đầu thế kỷ 20, cách biểu hiện tự tình (lyrical) các cảm xúc nội tâm trước sự vật, trước thiên nhiên của nhà danh họa đã là những đặc điểm, đã nói lên rằng vẻ đẹp và sự thật không chỉ ở trong con mắt mà ở trong tâm hồn và linh hồn, và nhà danh họa Van Gogh đã là người diễn tả ra bằng các màu sắc, các loại bút pháp đặc biệt.
họa phẩm “Hoa Diên Vĩ” (Irises)
Ngày nay các viện bào tàng, các nhà sưu tập tranh đều tìm kiếm mua lại các họa phẩm của Van Gogh vì cách sáng tạo nghệ thuật này hàm chứa các kinh nghiệm cá nhân, các cảm xúc và tâm tư của tác giả. Và đặc biệt vào năm 1987, họa phẩm “Hoa Diên Vĩ” (Irises) của nhà danh họa Van Gogh đã được bán đấu giá với giá biểu cao kỷ lục của thời bấy giờ là 53.9 triệu Mỹ kim.
© Phạm Văn Tuấn © www.Vietthuc.org
Great art usually comes with a high price
and sometimes unbelievably so
This is a list of the most expensive paintings sold to date. The prices quoted are inflation adjusted to 2007 US dollars. Prices are in millions of dollars.
10. Portrait of Adele Bloch-Bauer II 89.1m
Artist: Gustav Klimt
Adele Bloch-Bauer II is a 1912 painting by Gustav Klimt. Adele Bloch-Bauer was the wife of Ferdinand Bloch-Bauer, who was a wealthy industrialist who sponsored the arts and supported Gustav Klimt. Adele Bloch-Bauer was the only model to be painted twice by Klimt; she also appeared in the much more famous Portrait of Adele Bloch-Bauer I.
9. Portrait de l’artiste sans barbe 90.1m
Artist: Vincent van Gogh
The Self-portraits of Vincent van Gogh are, together with his sunflowers, some of his most-admired paintings. From 1886 to 1889 he produced over 12 self-portraits.
8. Dora Maar au Chat 97.0m
Artist: Pablo Picasso
Dora Maar au Chat (Dora Maar with Cat) is a 1941 painting by Pablo Picasso. It depicts Dora Maar, the painter’s Croatian mistress, seated on a chair with a small cat perched on her shoulders. This painting is world-famous and is now one of the world’s most expensive paintings.
7. Irises 97.5m
Artist: Vincent van Gogh
Irises is a painting by the Dutch artist Vincent van Gogh. It was one of his first works while he was at the asylum at Saint Paul-de-Mausole in Saint-Rémy-de-Provence, France in the last year before his death in 1890.
6. Garçon à la pipe 113.4m
Artist: Pablo Picasso
Owned by the estate of John Hay Whitney, on May 5, 2004 it sold for $US104.1 million at an auction in Sotheby’s in New York City, after having been given a pre-sale estimate of $70 million by the auction house. Many art critics have stated that the painting’s high sale price has much more to do with the artist’s name than with the merit or historical importance of the painting.
5. Bal au moulin de la Galette, Montmartre 122.8m
Artist: Pierre-Auguste Renoir
At the time of sale, it was one of the top two most expensive artworks ever sold, together with van Gogh’s Portrait of Dr Gachet, which was also purchased by Saito. Saito caused international outrage when he suggested in 1991 that he intended to cremate both paintings with him when he died. However, when Saito and his companies ran into severe financial difficulties, bankers who held the painting as collateral for loans arranged a confidential sale through Sotheby’s to an undisclosed buyer. Although not known for certain, the painting is believed to be in the hands of a Swiss collector.
4. Portrait of Dr. Gachet 129.7m
Artist: Vincent van Gogh
There are two authentic versions of this portrait, both executed in June 1890 during the last months of Van Gogh’s life. Both show Doctor Gachet sitting at a table and leaning his head onto his right arm, but they are easily differentiated.
3. Portrait of Adele Bloch-Bauer I 137.6m
Artist: Gustav Klimt
Portrait of Adele Bloch-Bauer I is a painting by Gustav Klimt completed in 1907. According to press reports it was sold for US$135 million to Ronald Lauder for his Neue Galerie in New York City in June 2006, which would make it at that time the most expensive painting ever sold.
2. Woman III 140.2m
Artist: Willem de Kooning
Woman III is a painting by abstract expressionist painter Willem de Kooning. Woman III is one of 6 paintings by Kooning in which the central theme was a woman. It measures 68 by 48 1/2 inches and was completed in 1953. In November 2006, the painting was sold by David Geffen to billionare Steven A. Cohen for $137.5 million, making it the second most expensive painting ever sold.
1. No. 5, 1948 $142.7m
Artist: Jackson Pollock
No. 5, 1948 is an abstract painting by Jackson Pollock (January 28, 1912 – August 11, 1956), an American painter known for his contributions to the abstract expressionist movement. The painting was done on a 8 x 4 feet sheet of fiberboard, with thick amounts of brown and yellow paint drizzled on top of it, forming a nest-like appearance.