Ðài phát thanh Ðáp Lời Sông Núi (ÐLSN) đã phát sóng bài phỏng vấn Luật Sư Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền ở Paris, về việc thiết lập một chế độ chính trị hậu-cộng-sản trong tương lai cho Việt Nam. Dưới đây là bản ghi âm có đọc lại của cuộc trao đổi giữa LS Hiệp và phóng viên Hải Nguyễn của đài ÐLSN.
Hải Nguyên (ÐLSN): Kính chào quý vị thính giả, Những Vấn Ðề Của Chúng Ta tuần này xin được thảo luận về “Một quan niệm chính trị mới cho một nước Việt Nam hậu Cộng Sản.” Diễn giả là Luật Sư Trần Thanh Hiệp, cựu luật sư các tòa thượng thẩm ở Sài Gòn và Paris, Pháp. LS Trần Thanh Hiệp năm nay 85 tuổi, tham gia chính trường Việt Nam liên tục 60 năm qua, và hiện là chủ tịch Trung Tâm Việt Nam Về Nhân Quyền. Ông cư ngụ tại Paris thủ đô nước Pháp nhưng thường xuyên bôn ba khắp nơi và hiện đang có mặt tại California, Hoa Kỳ. Trước hết, xin LS cho biết, theo quan điểm của Ông thì chúng ta nên hiểu nhóm chữ “hậu cộng sản” như thế nào?
Trần Thanh Hiệp (TTH): Trước khi trả lời các câu hỏi của quý Ðài, tôi thấy cần nói cho rõ hai điều sau đây: Thứ nhất, khi trả lời các câu hỏi mà Ðài ÐLSN sẽ đặt cho tôi hôm nay, tôi chỉ muốn trình bày một số ý kiến của riêng tôi mà tôi cho là có thể góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề thời sự nóng hổi của đất nước. Thứ hai, tôi không thiếu thận trọng đến mức coi đó là những chân lý hay hô hào mọi người hãy chấp nhận ý kiến của tôi như là những chân lý. Tôi rất mong sẽ không có những sự hiểu lầm, vô tình hay cố ý, về sự phát biểu của tôi.
Bây giờ tôi xin đi vào cuộc trao đổi với Ðài ÐLSN. Theo tôi, bàn về một chế độ chính trị hậu-cộng-sản ở Việt Nam là bàn về tương lai chính trị của Việt Nam. Vì thế, thành ngữ hậu-cộng-sản cần phải được hiểu theo cả về nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng. Hẹp là có ý nói về thứ tự thời gian. Vậy chế độ hậu-cộng-sản là chế độ tiếp theo sau, và sẽ thay đổi hẳn, chế độ cộng sản là chế độ phải loại bỏ và đã được loại bỏ. Vì lẽ đó chế độ chính trị mới hay hậu-cộng-sản còn phải hiểu theo nghĩa rộng, tức là chế độ này phải có những đặc tính bảo đảm ít ra là hai điều: Một mặt, nó phải chấm dứt được quốc nạn cộng sản và mặt khác, nó cũng phải ngăn giữ kỳ được không để cho quốc nạn này tái diễn trên đất nước thêm một lần nữa. Trong lịch sử thế giới hiện đại có một tiền lệ lịch sử đã được cả nhân loại trân trọng. Ðó là sự thành công trong sự nghiệp phục hưng đất nước có thể nói rất đáng khâm phục của dân tộc Ðức dưới ngọn cờ lãnh đạo của Cộng Hòa Liên Bang Ðức Quốc.
ÐLSN: Xin LS nói rõ thêm về tiền lệ “Tây Ðức” hay “Cộng Hòa Liên Bang Ðức quốc” thông qua Bản Hiến Pháp hay còn gọi là “Luật Căn Bản 1949” của Cộng Hòa Liên Bang Ðức quốc.
TTH: Năm 1945, sau chiến thắng của Ðồng Minh, tập đoàn cầm quyền na zi, phát xít Ðức đã phải trả lời và thụ hình về những hành vi vô nhân đạo này trước tòa án quốc tế. Năm 1948, ba cường quốc Anh, Pháp và Mỹ đã tạo điều kiện cho bộ phận của dân tộc Ðức, sinh sống trong vùng dưới quyền giám hộ của Ðồng Minh, xây dựng lại đất nước. Và sự nghiệp phục hưng dân tộc này đã dựa trên một văn bản pháp lý có tên gọi là Luật Căn Bản 1949. Tuy gọi là Luật Căn Bản nhưng thực ra đó chính là bản Hiến Pháp xây dựng nước Ðức thời hậu chiến. Vì nước này vẫn còn ở trong tình trạng chia đôi thaq2nh Tây Ðức và Ðông Ðức nên phải đợi thống nhất xong mới đổi tên là Hiến Pháp. Trong văn bản lịch sử này, nếu chỉ để ý đọc điều 20, theo đó, Cộng Hòa Liên Bang Ðức Quốc là một quốc gia liên bang dân chủ và xã hội thì đã chẳng thấy được giá trị đích thực của nó.
Phải nghiên cứu nội dung của trên 20 điều đầu tiên của Luật Căn Bản 1949 mới ý thức được rằng văn bản này đã mang lại cho nhân loại trên địa hạt chính tri, nhân quyền, dân quyền những thành tố của một nền văn minh nhân bản mới. Ðó là sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử Hiến Pháp Luật, một bản Hiến pháp đã đưa vấn đền nhân phẩm của con người lên hàng giá trị tuyệt đối làm nền tảng cho mọi cộng đồng nhân xã, cho hòa bình và công lý trên thế giới. Và để cho chủ trương này được thực thi, bản Hiến Pháp này đã buộc chính quyền phải triệt để tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ nó. Ðồng thời bản Hiến pháp còn trù liệu thể hiện nhân phẩm bằng hơn 20 nhân quyền cơ bản, ghi rõ trong hiến pháp, với đòi hỏi rằng những điều khoản của hiến pháp dự liệu các nhân quyền này có hiệu lực áp dụng trực tiếp đối với cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chưa hết, Hiến pháp còn đặt ra ngoài vòng pháp luật mọi cá nhân, tổ chức chính trị nào đi ngược lại chủ trương thượng tôn nhân phẩm, coi những cá nhân, tổ chức này là có hành vi vi hiến. Nói cách khác, Luật Căn Bản 1949 đã chính thức ngăn giữ không cho cực quyền toàn trị có thể tái xuất hiện trên chính trường nước Ðức. Có thể nói rằng Luật Căn Bản 1959 đã kiện toàn để hoàn thiện “chế độ đại nghị” nguyên mẫu của Anh Quốc và bổ sung Hiến pháp cơ năng của Mỹ Quốc để cung cấp cho nhân loại một điển mẫu văn hóa chính trị tiên tiến nhất.
ÐLSN: Theo LS thì có điều kiện tiên quyết nào cho việc thiết lập một nền chính trị “hậu cộng sản” ở Việt Nam không? Nếu có, thì sẽ phải là điều kiện như thế nào?
TTH: Tất nhiên là nhất định phải có điều kiện tiên quyết. Vì độc tài đảng trị, toàn trị không thể sống chung với tự do dân chủ. Vậy điều kiện tiên quyết để xây dựng dân chủ là phải thanh toán độc tài. Cũng như ở Liên Xô và Ðông Âu cũ thập niên 1990 và ở Bắc Phi, Trung Ðông đầu thập niên 2000, bộ máy cai trị độc tài cộng sản ở Việt Nam, gồm có Ðảng, Chính phủ và hệ thống tổ chức quân chúng công cụ, phải giải thể để nhường chỗ cho chế độ dân chủ tự do đặt nền móng xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, tình hình chuyển hóa độc tài sang dân chủ ở Việt Nam không đơn giản như lý thuyết. Cho nên ở đó độc tài vẫn còn tại chức. Vì vậy, phải kiếm ra được một phương thức chuyển hóa thích hợp, vừa giải thể độc tài vừa xây dựng dân chủ. Phương thức này chi có thể đạt được mục đích nếu phe dân chủ đủ tài trí và thế lực để hành động thay vì chỉ bàn cãi suông về lập trường và lý thuyết chính trị.
ÐLSN: Trong hiện tình ở trong nước cũng như ở ngoài nước, có thể làm được gì để dọn đường cho việc thiết lập một chế độ chính trị “hậu cộng sản”?
TTH: Trong nước, ai cũng nhận thấy đảng cộng sản cầm quyền đang phải đối mặt với sự vùng dậy đòi nhân quyền, dân quyền của mọi tầng lớp xã hội. Trong khi đó, đảng này nội bộ chia rẽ trầm trọng, nạn tham nhũng hoành hành đại qui mô, kinh tế suy sụp tận đáy, đe dọa xâm lược phương Bắc ngày càng lớn, thiểu số lãnh đạo lại chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàng, để mặc cho bọn tay sai cấp dưới tự tung tự tác dầy xéo lên luật pháp cướp của giết người. Tôi tưởng rằng dân chúng, nhất là những người dân chủ đã dễ dàng thấy được đâu là phương thức vừa giải thể độc tài vừa xây dựng dân chủ. Ở ngoài nước, tôi tự hỏi liệu những người dân chủ có dám tin rằng thời cơ đánh bại độc tài ở trong nước đang đến để mau lẹ củng cố lại hàng ngũ tranh đấu, rèn đúc cho sắc bén ý thức chính trị và đầu tư về mọi mặt cho tương lai đất nước. Một quốc gia Việt Nam mới, dân chủ tự do văn minh thịnh vượng sẽ không tự trên trời rơi xuông mà phải khai sinh bằng máu, nước mắt và mồ hôi của nhân dân.
ÐLSN: Liệu có thể tiến hành ngay từ lúc này những cải cách chính trị ở trong nước, và nếu cần, cả ở ngoài nước, như là khởi đầu cho công trình xây dựng một Việt Nam “hậu cộng sản” không?
TTH: Những gì tôi đã trình bày ở trên cho phép tôi trả lời là “có thể” nếu mọi người đều muốn bắt tay vào việc thay vì chỉ nói mà không làm. Nhưng nếu không làm thì chắc chắn câu giải đáp sẽ không thể là gì khác hơn “không thể.”
ÐLSN: Những chuyển động chính trị hiện đang diễn ra ở trong nước, trong nhiều lãnh vực, từ nội bộ đảng, đến tầng lớp trí thức, đến thế hệ trẻ, v.v… theo LS thì đó có phải là những chuyển động mở đường một cách bất bạo động cho việc xây dựng nền chính trị hậu cộng sản được không?
TTH: Việc coi xem những hiện tượng vừa được qúy Đài nêu lên có phải là những chuyển động mở đường cho việc xây dựng chế độ chính trị hậu-cộng-sản ở Việt Nam hay không, tùy thuộc vào cách nhìn vấn đề của mỗi người. Nếu người đó còn bị ám ảnh bởi những kỷ niệm chiến tranh của quá khứ cũng như không tin tưởng gì vào xu thế tất yếu của thời đại là dân chủ, thì sẽ không thể đánh giá đúng những hiện tượng đó được. Tuy không hề có ảo tưởng rằng độc tài đảng trị cộng sản đã hối cải trở về với dân chủ, nhưng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng hiện nay trong nước, dân chủ đang phản công, từng bước đẩy lui độc tài cộng sản. Và một lực lượng dân chủ tiền phong đã thành hình qua sự liên kết một cách tự phát của nhiêu thành tố nhân xã, từ cộng sản phản tỉnh qua dân chủ đối kháng đến tuổi trẻ tiến bộ. Theo tôi, đó chính là đội ngũ mở đường cho chế độ chính trị hậu-cộng-sản.
ÐLSN: Ở ngoài nước, cộng đồng người Việt tị nạn, sau gần 40 năm lưu vong, đã trở thành một chủ lực dân chủ tiền phong, có cần đổi mới đường lối, tổ chức tranh đấu cho thích hợp với những đòi hỏi của tình thế mới, ở quốc nội cũng như trên bàn cờ quốc tế hay không?
TTH: Đương nhiên là phải đổi mới để đáp ứng những đòi hỏi mới của tình thế, tức là lực lượng dân chủ sẽ kh ô ng đấu tranh không bằng bạo lực mà đấu tranh theo cung cách ôn hòa, phù hợp với những qui phạm của luật quốc tế về nhân quyền, dân quyền. Phải nhấn mạnh rằng nếu không được như vậy thì e rằng khó tranh thủ được sự yểm trợ mạnh mẽ của quốc tế.
ÐLSN: Trong viễn tượng lịch sử đất nước đang sang trang có cần đặt lại vấn đề lựa chọn giữa hai xu hướng đấu tranh võ trang và tranh đấu bất bạo động hay không?
TTH: Khách quan mà nói, Iraq rồi Bắc Phi và Trung Đông cho thấy rằng dân chủ chỉ có thể chiến thắng độc tài nếu có bản lĩnh kết hợp được hai hình thức tranh đấu võ trang và ôn hòa. Theo tôi trong hiện tình chính trị, kinh tế và xã hội dưới chế độ cộng sản ở trong nước hiện nay, con đường tranh đấu thích hợp nhất sẽ chỉ c ó thể là tranh đấu bất bạo động, trên cơ sở luật quốc tế về nhân quyền và dân quyền. Vậy nay chính là lúc phải cập nhật hóa việc tổ chức tranh đấu của giai đoạn trước chỉ biết sử dụng bạo lực. Nhưng, nên nhớ rằng, tranh đấu bất bạo động, không phải chỉ là nêu lên lập trường, hô khẩu hiệu tranh đấu bất bạo động, nghĩa là chỉ tranh đấu bằng lời nói, mà phải quyết liệt tranh đấu bằng việc làm bất bạo động. Như hai tiền lệ lịch sử gương mẫu là cuộc tranh đấu của Công đoàn Solidarnosc ở Ba Lan và cuộc tranh đấu của Mahatma Gandhi ở Ấn Độ. Nói cách khác, trước đây thì tranh đấu bằng bạo lực chiến tranh, giành thắng lợi cho ý thức hệ nhưng nay tình thế lại đòi hỏi phải thay thế bằng một hình thức vận động văn hóa cho hòa bình để xây dựng một xã hội tương lai, văn minh và thịnh vượng ở Việt Nam hậu-cộng-sản.
ÐLSN: Nếu trật tự tranh đấu ưu tiên sẽ phải là tranh đấu văn hóa thì ở hải ngoại có cần vận động thống nhất tinh thần để đề xuất một Dự An Chính Trị Hậu Cộng Sản hay không? Và liệu cuộc vận động thống nhất tinh thần này có thực hiện được không hay sẽ lại đi vào vết xe đổ của quá khứ?
TTH: Theo tôi, muốn thiết lập cho tương lai một chế độ chính trị hậu-cộng-sản thì tất yếu phải lập dự án chính trị hậu-cộng-sản. Trong quá khứ, sáng kiến n ày chưa xuất hiện nên đương nhiên đã ó nhiều xu hướng khác nhau về việc xây dựng tương lai. Nhưng nay nếu muốn cho ra đời một dự án chung thì dĩ nhiên phải có một cuôc vận động liên kết các xu hướng dị biệt trên nền tảng mẫu số chung là dự án. Một cuộc vận động chỉ có tính chất văn hóa như vậy mà cũng không mang lại được kết quả hợp nhất thì làm sao có được dự án. Cho nên tôi tin chắc rằng ai cũng ý thức được cáí lô gích đơn giản này nên sẽ không ai đi vào vết xe đổ của quá khứ.
ÐLSN: Nếu có thể được, xin LS trình bày tóm lược về cái gọi là “Văn Hóa Chính Tri”, vũ khí tinh thần cơ bản của sự nghiệp dân chủ hóa đích thực nước Việt Nam hậu cộng sản trong tương lai.
TTH: “Văn hóa chính trị” là một khái niệm mới, một loại kiến thức mới, nếu chưa thể nói một ngành học mới đối với người Việt Nam. Loại kiến thức mới này xuất hiện để thay thế ý thức hệ, hay đúng hơn, để hiện thực hóa ý thức hệ bằng cách mang lại cho ý thức hệ một nội dung nhân bản chính xác hơn, đích thực hơn, trên địa hạt chính trị. Thí dụ về chế độ chính trị hậu-cộng-sản, ý thức hệ đòi rằng phải có dân chủ mà không cần xác định thế nào là dân chủ hay không cần đích thực có dân chủ. Còn văn hóa chính trị thì khác, vì nó sẽ xác định rõ là dân chủ phải mang lại cho xã hội một hệ thống quan hệ bình đẳng, nhân ái, giữa người với người, giữa quảng đại quần chúng bị trị với thiểu số thống trị. Nhờ vậy mà xã hội được bình định, một khi con người đã biết thay thế xung đột bằng bạo lực bằng quy phạm pháp lý bất bạo động. Do đó, chế độ chính trị trong tương lai ở Việt Nam cần được xây dựng trên nền tảng văn hóa chính trị thay vì trên nền tảng ý thức hệ.